Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Học Hỏi Kinh Thánh
CHÚA KI-TÔ VINH QUANG VÀ CỘNG ĐOÀN GIAO ƯỚC MỚI

Gioan 20-21

Mầu nhiệm Thương Khó và Phục sinh là hai thì của một mầu nhiệm: Chúa Giêsu được tôn vinh: thì thứ nhất là tôn vinh trên thập giá, thì thứ hai là Chúa tỏ Vinh Quang cho cộng đoàn của Giao Ước Mới.

Trong thì thứ nhất, chúng ta đã thấy cả lịch sử Cứu Độ trong Cựu ước được làm mới: tạo dựng mới, Ixaac mới, xuất hành mới, Giao ước mới và điều răn mới, Đền Thờ mới, Đất Hứa mới… tất cả trong Chúa Giê-su và nhờ Chúa Giê-su: Khởi Đầu Mới (Phụng vụ Vọng Phục Sinh có các bài đọc Cựu Ước tương ứng với các chủ đề trên: tạo dựng, Ixaac, Xuất Hành, Giao Ước, Giao Ước mới).

Không có sách Tin Mừng nào kể việc Chúa sống lại, vì đâu có ai ở trong mộ mà thấy! Tất cả bốn sách tin Mừng và lời rao giảng của các tông đồ chỉ kể lại kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giê-su phục sinh. Gioan kể những cuộc gặp tại Giê-ru-sa-lem (chương 20) và tại Biển Hồ (chương 21). Chúng ta sẽ lần lượt đọc hai chương này.

Trước hết nên chú ý tới lối viết của Gioan, rất giống nghệ thuật điện ảnh hiện đại, vì điện ảnh là kể chuyện bằng hình ảnh, kể chuyện thì dùng lời. Điện ảnh thì người xem phải “nối” các hình hoặc chuỗi hình với nhau. Nghe kể chuyện thì phải để cho lời kể vào qua lỗ tai, tác động trên trí tưởng tượng và tình cảm của mình. Con nít nghe kể chuyện thì thấy như mọi sự đang xảy ra trước mắt, và phản ứng bằng vui, buồn, lo, sợ… Tin mừng Gioan không chỉ súc tích, nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách qui chiếu với Cựu Ước như chúng ta đã thấy trong Cuộc Thương Khó; nhưng còn là bậc thầy trong nghệ thuật kể chuyện. Ta cần nghe với tâm tình và thái độ trẻ thơ.

Ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày chúa nhật của chúng ta. Người Do Thái nghỉ ngày thứ bảy để tham dự vào sự nghỉ ngơi của Thiên Chúa (Xh 20,11) và để nhớ Chúa đã giải thoát khói ách khổ sai bên ai Cập (Đnl 5,14-15). Ngày thứ nhất bắt đầu khi mặt trời lặn buổi chiều ngày thứ bảy. Ngày thứ nhất là ngày Thiên Chúa bắt đầu tạo dựng.

 “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm” (St 1,1-2).

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phê-rô và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (Ga 20, 1-2).

Tôi xin phép đọc đoạn mở đầu này như xem một đoạn phim để giúp bạn đọc làm quen với cách đọc này. Câu mở đầu của Gioan 20 và câu mở đầu của sách Sáng thế có nhiều yêu tố giống nhau: trời còn tối thì đâu đã thấy được hình dạng rõ ràng, cửa mộ mở toang như vực thẳm. Cái chưa có hình dạng và bóng tối xâm nhập tâm trí bà Maria Mac-đa-la. Chúng ta nghe tiếng động đầu tiên: bước chân phụ nữ chạy. Tiếng gõ cửa. Hai người đàn ông thò đầu ra. Giọng phụ nữ hốt hoảng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: người ta là ai? Bà đã vô mộ đâu mà biết người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ? Dĩ nhiên làm sao biết họ để Người ở đâu! Bà lại gọi Người là “Chúa” nữa ! Là Chúa thì ai mà đem đi được? Trong cái hoang vu của ngôi mộ mở toang giữa bóng đêm, tất cả đều hoang mang. Nhưng câu thứ hai của bà gợi lại câu hỏi đầu tiên của hai môn đệ: “Rabbi, Thầy ở đâu?” (Ga 1,38). Maria Mac-đa-la trong bối cảnh này cũng  gợi lại hình ảnh và lời các bà đỡ chống chế với Pharao về việc để cho con trai Hip-ri sống: “Chúng tôi đến chưa kịp thì họ đã sanh rồi”. “A-đam mới” nằm trong mộ như bào thai trong lòng mẹ, bà đỡ tới thì đã ra rồi và “Họ đã đem đi rồi”.

Tuy nhiên bà “phản” đạo diễn, vì đạo diễn ra lệnh cho trên màn hình cho thấy chỉ có  mình bà đi ra mộ, thế mà bà lại nói “Chúng tôi không biết”. Chúng tôi là những ai? Tại sao “đạo diễn” lại cho thấy một mình bà Maria Mac-đa-la? Chúng ta sẽ phải chú ý đặc biệt tới nhân vật này. Xin nhớ lại cảnh đứng gần thập giá, ta chỉ thấy thân mẫu, Dì Maria và bà Maria Mac-đa-la, cho tới khi máy quay phim đưa hình từ tầm mắt của Chúa Giê-su chúng ta mới thấy người môn đệ Chúa Giê-su thương mến đứng bên thân mẫu. Bây giờ thì chúng ta thấy hai người đàn ông, Simon Phê-rô (đã biến khỏi màn hình từ lúc gà gáy cái đêm trong dinh thượng tế) và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến đã “đón Đức Mẹ về nhà mình” từ trên Núi Sọ, sau khi được “sinh làm con” của thân mẫu Chúa Giê-su, có Dì Maria và bà Maria Mac-đa-la chứng kiến. Chúng ta chờ Dì Maria tới gọi, nhưng không phải. “Bà đỡ” tới báo tin vui: “Sanh rồi, mà không biết họ để ở đâu”.

Bây giờ thì hai người đàn ông vọt ra khỏi cửa, chạy đi xác minh và làm chứng. Một người “nhà”: “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến”, đứa  “con mới” của thân mẫu đã trở thành E-và mới; và một người đã trở thành “xa lạ” vì ba lần chối không biết, không có liên hệ gì với Chúa Giêsu. Tiếng bước chân hai người đàn ông cùng chạy. Người môn đệ kia nhanh chân hơn, tới trước. Ông không vào, chỉ cúi nhìn vào, thấy các băng vải còn đó… Ông Phê-rô tới sau, chạy thẳng vào bên trong và thấy rõ hơn: khăn che đầu cuốn riêng ra một nơi, không để lẫn với các băng vải. Người tới trước vào theo, và cũng thấy như vậy. “Ông đã thấy và ông đã tin”. Thế là hai nhân chứng kiểm tra đúng phương pháp: người tới trước đứng chờ, nhìn vào đã thấy, tuy chưa hoàn toàn rõ. Ông chứng kiến ông Phê-rô đi vào, rồi ông vào sau. Như vậy không ai làm xáo trộn hiện trường, và hai người thấy như nhau. Ông “người nhà” thấy và tin, nhưng không nói tin cái gì. “Thực ra, trước đó hai ông chưa hiểu rằng theo lời Kinh Thánh thì Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”; vậy nếu như đã hiểu Kinh Thánh thì khỏi cần chạy ra mộ kiểm chứng!  Rồi cả hai ông lững thững ra về.

Nhìn hai ông quay lưng đi, ta bỗng nghe tiếng phụ nữ thút thít. Bà Maria Mac-đa-la trở lại từ hồi nào và đang khóc bên mộ. Trở lại cảnh bà Maria Mac-đa-la một mình ra mộ lúc trời còn tối rồi chạy về la hoảng, ta lại nhớ sách Diễm Ca, đã được gợi lên từ chuyện xức dầu ở Bê-ta-ni-a.

Suốt đêm trên giường ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu, tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp. Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo quanh khắp thành, nơi đầu đường cuối phố, để tìm người yêu dấu của lòng tôi… Bọn lính gác gặp tôi, tôi hỏi họ: “Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu?” Vừa rời họ, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu. Tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu, tới khuê phòng người đã cưu mang tôi” (Dc 3,1-4).

Ở chương 5, người yêu gõ cửa giữa đêm khuya, nàng không chịu mở. Đến khi nghĩ lại và mở thì người yêu đã bỏ đi rồi. “Chàng đi rồi hồn tôi như đã mất, tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp, tôi mãi gọi chàng, không một tiếng đáp… Bọn lính gác gặp tôi, chúng đánh tôi đến mang thương tích. Này thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi van nài các bạn: gặp người tôi yêu dấu các bạn sẽ nói gì? Xin cho nhắn rằng: tôi đang ốm tương tư.” (5,4-8).

Cuối cùng nàng cũng biết người yêu đang ở đâu: “Người tôi yêu đã xuống vườn nhà” (6,2).

Sách Diễm Ca nói về những giai đoạn khác nhau trong Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân. Cuộc tìm kiếm thứ nhất gợi lại biến cố Xuất Hành và vào Đất Hứa, cuộc tìm kiêm thứ hai gợi lại biến cố lưu đầy và trở về.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Phục Sinh với Maria Mac-đa-la được diễn tả bằng nhiều lời và hình ảnh gợi lại hai lần mất, tìm và gặp trong sách Diễm Ca. Maria đi ra mộ lúc trời còn tối. Sau khi la hoảng, hoang mang, lại thơ thẩn đứng khóc bên mộ Chúa. Hai người đàn ông chạy ra mộ, vào kiểm tra rồi đi về, gợi hình ảnh lính canh đi tuần. Bà cúi nhìn vào như tìm lại trong mộ lần nữa thì lại thấy hai thiên thần canh giữ hai đầu nơi Chúa đã nằm. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. Đức Giê-su hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: Thưa ông, nếu ông đã đem Người  đi, thì xin nói cho tôi biết ông để người ở đâu, tôi sẽ đem người về. » Đức Giê-su gọi bà : « Maria ! » Bà quay lại và nói bằng tiếng Hip-ri : « Rap-bu-ni !», nghĩa là « Lạy Thầy ! » Đức Giê-su  bảo : « Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha, nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : «Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em ».

Thế là vừa rời bọn lính gác tôi đã gâp người lòng tôi yêu dấu ! Câu hỏi của thiên thần tạo dịp cho bà nói lên nỗi lòng. Chúa Giê-su hỏi cùng một câu, nhưng thêm : « Bà tìm ai ? » ; chúng ta nghe gợi lại câu hỏi đầu tiên Chúa đặt cho hai môn đệ (1, 38). Hai lần trả lời bà lặp lại cùng một nội dung bà đã báo động cho hai môn đệ. Thấy Chúa Giê-su bà lại tưởng ông làm vườn ; gợi lời trong Diễm Ca: « người yêu tôi đã xuống vườn nhà ». Chúa gọi tên bà ; gợi lại lời Chúa nói về mình như mục tử : « Anh gọi tên từng con chiên » (Ga 10,3) Diễm Ca : « Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh » (8,6).    Ta giật mình vì không thấy nói bà níu lấy Chúa, nhưng đã nghe Chúa bảo : « thôi, đừng giữ Thầy lại… ». Có bản dịch là « đừng chạm đến Thầy », nhưng cách dùng động từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa lả bảo người kia ngưng việc gì đã bắt đầu rồi. Diễm Ca : « Tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu ». Khi Ixaac cưới Rebecca, dù bà Sara không còn nữa nhưng « cậu Ixaac đưa Rebecca vào lều của bà Sara, mẹ cậu.  Cậu lấy cô làm vợ » (St 21,67). Lý do Chúa Giê-su bảo Maria đừng níu Người lại là “vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha”. Giao ước Chúa Giê-su đã lập là cho chúng được đến với Chúa Cha, nên Chúa Giê-su đóng vai chủ động: chờ Thầy lên cùng Chúa Cha đã! Nhưng trong khi chờ đợi thì Maria nhận được nhiệm vụ phải thi hành ngay: “nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ”.                                             

Chúng ta lại ngạc nhiên vì Chúa sai bà Maria « đi tìm gặp anh em của Thầy » chứ không phải « các môn đệ của Thầy »! Sau tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su đi xuống Caphanaum cùng với thân mẫu, anh em của Chúa và các môn đệ. Đến chương thứ bảy thì Chúa tách khỏi anh em: “Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét… Các anh cứ lên dự lễ đi.” (7,6-8). Từ trên thập giá Chúa cho người môn đệ yêu dấu thành con của thân mẫu, tức là em của mình. Như đã giải thích, người môn đệ ấy tiêu biểu cho tất cả các môn đệ: “Ai đón nhận, tức là tin vào Người thì Người cho họ trở nên con Thiên Chúa, sinh ra do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,12). Bây giờ không còn môn đệ, chỉ còn anh em, những người anh em sinh trên Núi Sọ.

Tại sao Chúa lại sai bà Maria đi tìm anh em? Bà Maria đã đóng vai « bà đỡ” trên Núi Sọ và sáng sớm nay hốt hoảng đi báo tin “sinh rồi!”. “Bà đỡ” thì biết anh em mới sinh của Chúa! Bản tin nhắn bà phải đem là: ”Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh  em, cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà đỡ cho biết ai là Cha của những người anh em. Với tin nhắn này thì Chúa công bố là Giao ước đã thành tựu: Cha của Thầy cũng là Cha của anh em; Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em.

Bà nói với các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa” hoàn chỉnh những lời tuyên xưng của họ từ ban đầu; An-rê: “Chúng tôi đã thấy Đấng Ki-tô”, Nathanaen: “Thầy là con Thiên Chúa, là vua It-ra-en”. Từ lúc hoàn tất mọi sự trên thập giá thì vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su đã biểu lộ trọn vẹn: Đức Giê-su đã được tôn vinh là Chúa; Đức Giê-su nằm trong mộ với tư cách là Chúa. Trong cái hoang mang giữa đêm tối, bà Maria còn lẫn lộn nên nói “người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ”, nhưng về mặt khác thì lại đúng, chính là Chúa Cha đã tôn vinh Con, đem Con đi khỏi mộ, như Chúa Giê-su đã cầu xin.

Trước khi đi xa hơn, cần nói riêng về nhân vật Maria Mac-đa-la này vì có những sự lẫn lộn trong hình ảnh quen thuộc về bà. Trong ba sách Phúc âm Nhất Lãm bà đều đứng đầu danh sách các bà đứng xa xa nhìn Chúa Giê-su trên thập giá và đi ra mộ (Mt 27, 55-56 và 28,1 // Mc 15,4016,1// Lc 24,10). Riêng Luca cho danh sách các bà đi theo Chúa Giêsu từ Ga-li-lê (8,2) thì cũng kể tên bà đầu tiên; và cũng chỉ có Luca cho biết thêm : “bà Maria gọi là Maria Mac-đa-la, là người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ”. Khi kể về các bà đứng xa xa nhìn Chúa Giê-su trên thập giá thì Luca chỉ nói “tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê”. Trong câu chuyện thông thường và có khi cả trong các bài giảng, người ta hay đồng hóa bà với người phụ nữ tội lỗi vào xức dầu cho Chúa khi Chúa đang ăn ở nhà một người Pha-ri-sê (Lc 7, 36-50). Chẳng có gì cho phép đồng hóa hai nhân vật này.

Trong Tin Mừng Gioan thì ta thấy bà xuất hiện trên Núi Sọ, tên bà đứng sau thân mẫu Chúa Giê-su và Dì Maria, rồi bà là người đi ra mộ, cũng chẳng đem theo dầu thơm như trong Luca 23,56-24,1. Vậy ta hãy tôn trọng các “thông tin” của mỗi sách Tin Mừng, đừng “xào chung” các nhân vật hay các sách tin Mừng, vì sẽ gây lẫn lộn và không hiểu được ý nghĩa. Đừng “vẽ rắn thêm chân”.  Tin Mừng Gioan không cho thêm thông tin riêng về bà Maria Mac-đa-la ngoài cái tên và vị trí của bà trên Núi Sọ: sau thân mẫu và Dì Maria thôi, và hai lần bà ra mộ một mình. Như vậy có nghĩa là trong Tin Mừng thú tư, về phía phụ nữ ngoài họ hàng của Chúa Giê-su thì bà Maria Mac-đa-la là người gần Chúa Giê-su nhất. Phía đàn ông thì Người môn đệ yêu dấu trong bản văn không có tên gọi, trở thành biểu tượng của mọi người được Chúa yêu mến và thí mạng cho. Maria Mac-đa-la thì có tên riêng, là người ngoài gia đình ruột thịt của Chúa Giêsu, trở thành hình ảnh của cộng đoàn dân của Giao Ước mới đi tìm Chúa của mình. [Những suy diễn ngoại đạo và phạm thượng về tương quan giữa nhân vật này với Chúa Giê-su trong các tiểu thuyết từ cổ chí kim, không đáng chúng ta quan tâm, ví đó chỉ là suy diễn của kẻ không hiểu gì về Lời Chúa mà chỉ biết những chuyện phàm tục, chỉ đáng chúng ta xóa bỏ tức thì như bao nhiêu cái nhảm nhí chui vào hộp thư điện tử mỗi ngày.]

Gợi hình ảnh của sự đi tìm và gặp được người yêu trong sách Diễm Ca để nói về việc cộng đoàn của Giao ước mới đi tìm Chúa của mình quả là tuyệt vời. Cả lịch sử Hội thánh, cộng đoàn của Giao Ước mới cũng như đời sống của mỗi Ki-tô hữu là một lịch sử xoay vần theo bốn thì: có, mất, tìm và gặp Chúa, cũng giống như dân Chúa trong Cựu Ước. Vì thế mà Chúa Giê-su bảo “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chuá” (Lc 12, 31). Chừng nào được ở với Chúa Giê-su tại nơi Chúa ở (x. Ga 17, 24), tức là trong lòng Chúa Cha thì mới hết phải đi tìm, vì lúc đó “tôi thuộc trọn về người tôi yêu và người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn” (Dc 6,3). 

Trong Diễm Ca, nàng là thửa vườn của chàng:

Gió bấc nổi lên đi và gió nam hãy ùa tới, thổi mát vườn của tôi cho hương thơm lan tỏa! Người tôi yêu cứ vào vườn của chàng mà thưởng thức hoa thơm trái ngọt.

 – Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, vườn của anh, anh đã vào rồi, đã hái mộc dược, hái cỏ thơm…” (Dc 4,26-5,1).

Khi Maria Mac-đa-la tưởng Chúa Giê-su là người làm vườn thì hóa ra là đúng rồi. Chúa Giêsu vừa là người yêu trong sách Diễm Ca vừa là A-đam mới.  Sách Sáng Thế chép: « Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn E-đen để cầy cấy và canh giữ đất đai » (St 2,15). Chúa chết nằm ở mộ trong vườn, Chúa sống lại cũng xuất hiện trước tiên trong vườn. Hội Thánh là thửa vườn của Chúa. Mỗi người là thửa vườn của Chúa. Maria đóng vai « nàng » trong sách diễm Ca tượng trưng cho Hội thánh, trong khi người môn đệ yêu dấu tượng trưng cho mỗi người đã tin vào Chúa để lãnh ơn cứu độ và được tái sinh làm con Thiên Chúa.

Trên bình diện Hội Thánh thì ông Phê-rô và người môn đệ yêu dấu lại tượng trưng cho hai khía cạnh không thể tách rời : cơ cấu và lòng tin yêu. Những trình thuật tiếp theo trong hai chương 20-21 sẽ diễn tả hai khía cạnh này.

 

Chúa đặt người phục vụ Giao Ước Mới.

Cuộc tìm và gặp trong vườn là phần đầu của tương quan giữa Chúa Ki-tô Vinh Quang với cộng đoàn Giao ước Mới. Xưa Chúa sai Mô-sê đưa dân ra khỏi Ai-cập, Chúa ban Luật Giao ước ở núi Xinai, rồi Chúa cho Mô-sê những người cộng tác để phục vụ cộng đồng, Chúa ban nước và lương thực nuôi họ trong hành trình qua hoang địa để vào Đất Hứa. Cộng đoàn Giao ước Mới là Dân mới của Thiên Chúa, nên Chúa Giê-su cũng ban nước và lương thực như Chúa đã công bố khi rao giảng, đó là chính Chúa, manna đích thật và nguồn nước đích thật, mà dân lãnh nhận  qua Lời và Bánh (x.Ga 6-7). Nhưng vì là dân lữ hành nên Chúa cũng đặt những người đầy Thần Khí để  phục vụ (x. Xh 18 ; Ds 11,10-30).

Chúa Giê-su Phục Sinh cũng đến ban cho cộng đồng dân của Giao Ước Mới những người phục vụ. Ngày thứ nhất trong tuần, buổi sáng Chúa sai bà Maria Mac-đa-la đến báo tin ; buổi chiều trong khi  các môn đệ còn đóng kín cửa « vì sợ người Do Thái » thì « Chúa đến », Chúa không cần ai mở cửa. « Chúa đứng giữa các ông và nói : « Bình an cho anh em ! » Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa ». Chúa đã hứa :

« Thầy bảo thật anh em, anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình ; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh  em cũng vậy, bây giờ anh  em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng ; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được » (Ga 16,20-22).

Niềm vui gặp lại Chúa thật to lớn. Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn còn mang dấu bị đâm thâu. Cơn đau sinh con đã qua rồi, một con người mới đã sinh ra cho đời. Con người mới là Chúa Giê-su phục sinh và cũng là cộng đồng dân mới của Giao Ước, đứa con mới của E-và mới. Niềm vui này không ai lấy mất được, vì Chúa Phục Sinh đã thắng thế gian và thủ lãnh của thế gian (Ga 12,31;14,30;16,33). Cái chết không làm gì được Người nữa. Chúa phục sinh luôn đứng giữa cộng đồng dân của Giao ước Mới.  

Người lại nói với các ông: “bình an cho anh  em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Trong sách Dân số có lần ông Mô-sê khổ tâm quá vì nghe dân ta thán, ông than với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài… Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà lại bảo con: “Bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Đừng để con phải khổ nữa” (Ds 11,12-15).

Chúa Giê-su hơn hẳn ông Mô-sê. Chúa không xin chết để khỏi khổ. Chúa đã cưu mang, và đã sinh ra dân mới này bằng đau khỏ và cái chết của Chúa!

Trong sách dân Số, Thiên Chúa cho ông Mô-sê một giải pháp: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số kỳ mục It-ra-en… Ngươi sẽ đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. Ta sẽ xuống đó nói chuyện với ngươi. Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không còn phải vác một mình nữa” (Ds 11, 16-17).

Chúa Giê-su là Chúa nên trực tiếp lo liệu cho có người phục vụ dân. Được tôn vinh, Chúa có quyền năng ban Thánh Thần: “Nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh  em” (Ga 16,7). Bây giờ Chúa Phục Sinh trực tiếp ban Thánh Thần cho các môn đệ để họ phục vụ Giao Ước Mới  bằng quyền tha tội. Ơn tha tội đưa người ta vào và giúp người ta ở lại trong Giao ước Mới.

 

Kẻ cứng lòng: Ông Tô-ma.

Tin Mừng Gioan cho chúng ta một “niềm an ủi” vì trong 12 tông đồ có một ông “cứng đầu gương mẫu” và một câu trả lời trước cho những kẻ nghi ngờ và đòi tự tay kiểm chứng sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Mt 28,16-17 // Mc 16,11-14// Lc 23,11 đều kể về thái độ hoài nghi, cứng lòng của các tông đồ, nhưng không “vạch mặt chỉ tên” người nào. Tin mừng Gioan muốn cho chúng ta những “mẫu thu gọn” (icons), không ngần ngại kể thẳng cho chúng ta danh tánh một vị: ông Tô-ma, và cho thấy Chúa Giê-su Phục Sinh là mục tử kiểu mẫu: “Không để mất một ai trong số những người Cha đã ban cho con, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 17,12).

Tin mừng thứ tư cho chúng ta biết một số chi tiết về cá tính của ông Tô-ma (11,16; 14,5; 21,2), rất giống ông Nathanaen người Cana (1,45-49 và 21,2), là người thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, chỉ tin khi chính mình kiểm tra được. Ông vắng mặt khi Chúa đến vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần. Nghe các ông khác kể lại, ông đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Nói như thế hóa ra ông thách đố chính Chúa Giê-su! Nếu Chúa muốn cho ông tin thì Chúa phải chịu khó cho ông tự tay kiểm chứng. Chúa để cho ông chờ tới ngày thứ nhất tuần sau đó : “Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Thế là quang cảnh như tám ngày trước. Và cách thức Chúa đến cũng như tám ngày trước. Tám ngày đó chẳng có ai gặp để “méc” Chúa. Nhưng Chúa đáp lại vượt mức mọi yêu cầu của ông Tô-ma. “Rồi người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Bản văn không nói ông có làm theo như được Chúa cho phép không, nhưng kể ngay lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Thế là ông đã tin và nhìn nhận Chúa Giê-su là Chúa, như bà Maria Mac-đa-la đã tuyên xưng, và là Thiên Chúa, đúng như lời mở đầu Tin Mừng: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” và ông nhận vào trong Giao Ước Mới.

Chúa Giê-su công bố mối phúc thứ hai trong Tin Mừng này: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Chúng ta thường mơ ước được thấy Chúa như các môn đệ đã theo Chúa trên các nẻo đường. Nhưng phúc của chúng ta là không thấy mà tin. Tin mới là Phúc chứ không phải thấy. Bao nhiêu người đương thời đã thấy Chúa mà không tin. Chúng ta không được thấy nhưng được đức tin. Đức tin mới cho chúng ta được lãnh nhận quyền làm con Thiên Chúa. Mối phúc thứ nhất trong Tin Mừng Gioan là : “Anh  em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em” (13,17).

Về phương diện văn chương, tác giả đã hoàn tất dàn bài dự tính trong lời mở đầu. Tác giả kết luận: “Chúa Giê-su còn làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người”.

Vậy thì sách Tin Mừng không nhằm kể hết mọi chi tiết về đời sống Chúa Giê-su, vì mục đích là “để anh em tin và nhờ tin mà được cứu độ nhờ danh Người”. Người viết sách chọn một số điều và kể ra vì mục đích đó thôi. Sau dấu lạ đầu tiên Chúa tỏ vinh quang cho môn đệ tại Cana thì các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem đòi Chúa làm một dấu lạ để chứng tỏ Chúa có quyền thanh tẩy Đền Thờ đã bị họ biến thành cái chợ (2,16.18). Nhưng rút cuộc họ quyết định giết Chúa vì Chúa làm nhiều dấu lạ quá (11,47-48).

 

Chuyện bên hồ.

Chương 21 giống như “lời bạt” cuối sách. Tác giả kể chuyện mẻ cá do Chúa đứng trên bờ hồ chỉ bảo, bữa ăn do Chúa dọn, cuộc đối thoại với ông Phê-rô và số phận hai người đã cùng nhau chạy ra mộ. Qua đó tác giả tóm tắt về đời sống của cộng đoàn Giao Ước Mới và hoàn tất chân dung của hai nhân vật Phê-rô và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến.

1.  Mẻ cá do Chúa chỉ bảo.

Ông Phê-rô và sáu người môn đệ khác (Tô-ma, Nathanaen, hai người con ông Dê-bê-đê và hai người nữa – không kể tên). Ông Phê-rô khởi xướng đi đánh cá, sáu người kia hưởng ứng đi theo. Nhưng suốt đêm chẳng được gì.

Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: này các chú, không có gì ăn ư?” Họ trả lời: “Không”.  Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi thì sẽ thấy!” Họ thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi vì lưới đầy cá. Người môn đệ Chúa Giê-su thương mến liến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simon Phê-rô liền lấy áo quấn ngang thắt lưng, vì ông đang trần truồng, và nhảy xuống biến”. [Tôi thay đổi bản dịch một chút cho sát bản Hy Lạp và làm rõ vài chi tiết].

Các sách Tin Mừng đều cho thấy khi gặp Chúa Phục Sinh thì các môn đệ không nhận ra, thậm chí “tưởng là thấy ma” (x. Lc 24,37). Câu hỏi của Chúa Giê-su như chuẩn bị cho bữa ăn tiếp theo sau. Chúa chỉ chỗ cho họ thả lưới. Lưới đầy cá, kéo lên không nổi. Hai người môn đệ đã cùng nhau chạy ra mộ vẫn ở sát bên nhau, nên “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” nói với ông Phê-rô: “Chúa đấy!” Ông Phê-rô như bị điện giật. Cách phản ứng của ông gợi lại cảnh trong vườn Địa Đàng: sau khi ăn trái cấm, hai ông bà thấy mình trần truồng, lấy lá vả (là thứ lá to nhất trong vườn cây ăn trái, gần giống lá đu đủ) kết ngang lưng làm khố, và khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì núp vào giữa cây cối trong vườn (x. St 3,7-8). Ông Phê-rô cũng thấy mình trần truồng khi nghe “Chúa đó!”, thay vì mặc áo vào thì ông lại lấy áo quấn ngang lưng và nhảy xuống biển. Đang ở trên thuyền thi chỉ có cách nhảy xuống biển chứ núp vào đâu bây giờ. Nên nhớ, các Tin Mừng Nhất Lãm kể sau khi ông chối Chúa ba lần và gà gáy thì ông nhớ lại lời Chúa đã nói (riêng Lc thì kể Chúa quay lại nhìn ông, ông mới nhớ lại), và ông chạy ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Gioan thì kể tiếng gà gáy, rồi cắt ngang đó. Đến lúc này Gioan mới kể tiếp, ví ông Phê-rô trên biển với A-đam trong vườn. Sự trần truồng của Phê-rô lại chuẩn bị cho việc Chúa cho ông cơ hội tuyên xưng lòng yêu mến và trao cho ông trách nhiệm chăn dắt chiên của Chúa.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đày cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.” May là các ông khác không nhảy theo ông Phê-rô!

2-  Bữa ăn bên Hồ.

Chúa Giê-su đã hỏi các ông “không có gì ăn ư”, các ông trả lời “không”. Chúa chỉ chỗ cho thả lưới và Chúa dọn bữa cho các ông trên bờ: “Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa”. Bữa ăn Chúa dọn có cá và bánh gợi lại bữa ăn Chúa dọn cho đám đông ở trên núi bên kia Hồ (x. Ga 6,1-15).

Đức Giê-su bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Simon Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách”. Chúa Giê-su muốn cho các ông ăn cá vừa bắt được! Ông Simon Phê-rô vẫn giữ vai chủ thuyền và “thuyền trưởng”. Con số “một trăm năm mươi ba” đã là đề tài suy diễn nhiều kiểu trong lịch sử Hội Thánh. Có thể chỉ là một kỷ niệm không thể nào quên, vì từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ được mẻ cá nhiều như vậy, ắt phải đếm, và không thể nào quên. Nhưng cái kỷ niệm kèm theo “cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách” có thể gợi nhớ lời Chúa nói “trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” (14,2).

Đức Giê-su nói: “Anh  em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.” Lúc nãy họ trả lời không có gì ăn, cũng như lần trước khi ở trên núi bên kia hồ (6,6-7). Cử chỉ của Chúa Giê-su cũng vậy (6,11). Tất cả gợi lại bữa ăn Chúa đãi dân chúng ở trên núi bên kia hồ. Nhưng hôm nay chỉ có Chúa với bảy môn đệ, cá thì Chúa cung cấp, một phần Chúa đặt sẵn trên than hồng, một phần Chúa chỉ chỗ cho các ông bắt.

Chúa Phục Sinh đứng trên bờ, các môn đệ ở trên thuyền. Chúa lên tiếng chỉ chỗ thả lưới trong khi Chúa dọn bữa cho các ông. Bữa ăn giống như bữa Chúa đãi dân ở trên núi bên kia hồ. Hôm ấy Chúa đãi ăn, rồi hôm sau Chúa giảng ở Caphanaum về bánh bởi trời là chính Chúa, phải ăn bằng đức tin, qua Lời và Máu Thịt của Chúa. Hôm nay, bảy môn đệ do Simon Phê-rô dẫn đầu là tiêu biểu cộng đoàn Giao ước Mới ở trên thuyền giữa Biển Hồ, Chúa đứng trên bờ. Chúa lại dùng lời để chỉ chỗ thả lưới và dọn bánh và cá. Các ông không nhận ra Chúa, nhưng sau mẻ cá lạ lùng thì người môn đệ yêu dấu nhận ra Chúa, và khi ăn các ông không hỏi vì biết là Chúa. Đây là bức họa tuyệt vời biểu trưng đời sống của hội Thánh, cộng đoàn Giao Ước mới được nuôi bằng lời và bánh, lời Chúa và Máu thịt của Chúa Phục Sinh. Ở chương 6, khi một số môn đệ chướng tai về lời Chúa bảo phải ăn thịt và uống máu của Chúa, thì Chúa trả lời bằng câu hỏi: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Bây giờ Chúa đã lên nơi Chúa ở trước kia, trong lòng Cha, trên bờ. Chúa Ki-tô Vinh Quang có thể nuôi chúng ta bằng Lời và Máu Thịt của Chúa và không gì ngăn cản được: “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì.”

3-   Câu chuyện sau bữa ăn.

Nãy tới giờ có vẻ họ ăn trong thinh lặng, chỉ có Chúa Giê-su lên tiếng bảo đem cá, rồi gọi tới ăn. Chúa đến, tự tay cầm bánh, cầm cá trao cho các ông. Chúng ta có thể hình dung tình cảnh ông Phê-rô, vừa « thấy mình trần truồng », nhảy xuống biển núp, lại ngồi bên đống than hồng do Chúa đốt, ăn bánh và cá từ tay Chúa. “Than hồng” ắt phải làm ông thêm nhột, vì cái đêm khốc hại trong dinh thượng tế, chuyện cũng xảy ra bên đống than hồng của bọn tôi tớ. Sau bữa ăn, Chúa Giê-su lại phá vỡ sự thinh lặng. Chúa lên tiếng hỏi ông Simon Phê-rô trước mặt anh em : « Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ? » Ông đáp : « Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy ». Cái chữ « hơn » ắt làm ông nhột, vì gợi lại đêm tiệc ly, ông đã dõng dạc cam kết « Sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được ? Con sẽ thí mạng con vì Thầy ». Hôm nay ông chỉ còn dựa vào Chúa là Đấng biết lòng ông. « Đức Giê-su nói với ông : « Hãy chăm sóc chiên con của Thầy ». Người lại hỏi : « Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy không ? » Ông đáp : « Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy !» Người nói : « Hãy chăm sóc chiên của Thầy ». Người lại hỏi lần thứ ba : Này anh Simon con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không ? » Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi đến ba lần : « Anh có yêu mến Thầy không ? » Ông đáp : « Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con yêu mến Thầy. » Đức Giê-su bảo : « Hãy chăm sóc chiên của Thầy ». Lần thứ ba này thì ông buồn ra mặt, hẳn là ông thấy Chúa như cố tình đổi lại ba lần ông chối Chúa trong đêm ở dinh thượng tế. Ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa : « Thầy biết rõ mọi sự » (x. Tv 139).

Trong câu chuyện ba lần Chúa hỏi, ba lần Ông Phê-rô thưa, ba lần Chúa trao nhiệm vụ cho ông, có sự thay đổi từ ngữ Chúa dùng, hai động từ khác nhau để nói về yêu mến, hai động từ khác nhau về chăn chiên, hai danh từ khác nhau về con chiên. Chúng ta không biêt có tầm  quan trọng đáng kể hay không. Phía ông Phê-rô thì ba lần dùng cùng một động từ nói về yêu mến như bạn bè, và lần hỏi thứ ba thì Chúa cũng dùng động từ này.

Điều đáng chú ý hơn cả là lần thứ nhất Chúa hỏi thì Chúa so sánh « hơn », hai lần sau thì Chúa bỏ sự so sánh. Khi Chúa hỏi lần thứ ba thì ông Phê-rô buồn và ông nại đến sự thông biết vô cùng  của Chúa. Gioan nhiều lần cho thấy Chúa Giê-su biết rõ ý nghĩ trong lòng người ta ; cuối câu chuyện trong phòng Tiệc Ly, các môn đệ nhìn nhận : « Giờ đây chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến » (16,30). Ông Phê-rô đã thấy mình trần truồng đến tột cùng trước mặt Chúa, thậm chí cả đến tâm tình thầm kín nhất là lòng yêu mến Chúa, có còn hay không thì ông cũng chỉ biết dựa vào sự thông biết vô cùng của Chúa thôi. Chính khi ấy Chúa mới trao cho ông chăn dắt chiên của Chúa, như một người bạn thân tín mà Chúa có thể tin tưởng hoàn toàn.

Viết đến đây tôi không thể nào dằn sự liên tưởng tới Đức Thánh Cha Phan-xi-cô khi trả lời phỏng vấn : « Jorge Bergoglio là ai ? » - « Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến ». Và hình ảnh trong Tin Mừng ngài chọn như biểu tượng của chính mình là cảnh Chúa gọi thánh Matt-thêu, người thu thuế. Bao lâu nay giới truyền thông « nhai những xì-căng-đan » xảy ra trong Hội Thánh như kẹo cao-su, và săn tìm như vật quí báu để lấp đầy, bán chạy. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô tuyên bố : chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu ! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.

Trong phòng tiệc ly, Chúa Giê-su đã nói : « Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh  em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy nếu anh  em thực hiện những điều Thầy truyền dạy » (15,12-14). Hôm ấy ông Phê-rô đã đòi thí mạng vì Chúa, nhưng Chúa bảo « hãy đợi đấy ! » Chúa không cần ông thí mạng vì Chúa, bởi vì Chúa phải thí mạng vì bạn hữu trước, để cho bạn hữu biết « yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh  em » là gì, như thế nào, đến mức nào. Hôm nay thì ông Phê-rô đã ba lần tuyên  xưng ông là bạn của Chúa, nên Chúa cho ông được nên giống Chúa, chung phần với Chúa hoàn toàn như mục tử. Chúa trao đoàn chiên của Chúa cho ông. Chúa đã thí mạng vì đoàn chiên, ông Phê-rô cũng sẽ được thí mạng, nhưng không phải vì Chúa mà vì đoàn chiên của Chúa. Bây giờ Chúa mới cần đến cái mạng của ông đây ! « Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn ». Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông : « Hãy theo Thầy. » Thế là ông Phê-rô được gọi lần thứ hai sau khi Chúa cho ông biết rõ nhiệm vụ và số phận của ông. Bây giờ thì ông biết rõ theo Chúa nghĩa là gì.

Thế là Chúa chăm lo cho đoàn chiên : Chúa nuôi bằng Lời và Bánh, Chúa lại cho có người bạn thân của Chúa để dẫn dắt như mục tử.

 

4.  « Người môn đệ kia mà Chúa Giê-su thương mến ».

Ông Phê-rô cũng thay mặt cho chúng ta để tò mò lần chót về « người môn đệ kia mà Chúa Giê-su thương mến ». « Thưa Thầy, còn anh này thì sao ? » Đức Giê-su đáp : « Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh ? Phần anh, hãy theo Thầy ». Câu trả lời của Chúa về người môn đệ yêu dấu đầy bí ẩn và đã gây ngộ nhận ngay cho thế hệ thứ nhất. Ở đây Chúa tỏ ra dứt khoát với ông Phê-rô. Anh cứ biết phần anh, « hãy theo Thầy ».

Ông Phê-rô thì sẽ theo Chúa đến hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, còn « người môn đệ Chúa Giê-su thương mến » vẫn « còn ở lại » như một câu hỏi mà đến nay chưa có câu trả lời. « Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến anh ? » Nhưng dù ta không biết tên ông, không biết số phận của ông, thì cũng có những điều ta được biết về « người môn đệ Chúa Giê-su thương mến ». Mời độc giả đọc kỹ những lần ông xuất hiện trong Tin Mừng Gioan, từ chương 13 tới chương 21, không phải để xem tại sao ông được Chúa thương mến, nhưng để xem Tình Thương của Chúa đã tác động trên ông như thế nào ? Ông cư xử như thế nào với tư cách người môn đệ yêu dấu của Chúa Giê-su? Ông là khung hình bỏ trống trong địa chỉ email để ta đưa hình của mình vào : mỗi người chúng ta là người môn  đệ Chúa Giê-su yêu dấu, như tôi đã trình bày trong bài về Cuộc Thương Khó. Những nét Tin Mừng Gioan cho biết về ông làm thành chân dung người môn đệ yêu dấu để chúng ta noi theo. Ông Phê-rô và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến là hai khía cạnh không thể tách rời của cộng đòan Giao Ước Mới. Người chăn chiên phải chết vì đoàn chiên. Vì đoàn chiên là của Chúa, Chúa đã chết vì đoàn chiên trước. Cộng đoàn Giao Ước Mới là người yêu của Chúa sẽ còn ở lại cho đến khi Chúa đến.

Như đám con gái hỏi « nàng » trong Diễm Ca (5,9) « Người cô yêu có gì hơn những chàng trai khác… » Chúng ta hãy chờ ngày Chúa đến và hỏi lại Chúa : « Chúa cho con coi ai là người môn đệ Chúa thương mến, mặt mũi người ấy ra sao, người ấy có gì đặc biệt mà được Chúa thương mến… », Chúa sẽ âu yếm nhìn ta, mỉm cười và nói : « Là con đấy, ngốc ạ ! » rồi ôm ta vào lòng mà cất tiếng ca : « Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn  vẹn » (Diễm ca 6,3).

 

Giê-ru-sa-lem, thứ hai Phục Sinh 2014, L.M. Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.

Tác giả:  Lm. Ng Công Đoan, SJ

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!