Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  ThăngTiến GiáoDân
NHỮNG CON MẮT BUỒN PHIỀN, XIN CẤY LẠI NIỀM TIN

 

 Thái Công Tụng

 

1 Nhập đề

Xin mượn  lời ca trong  một  bài hát  nọ làm  tựa đề cho bài viết. Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn và những con mắt buồn  phiền cũng  là phản  ánh tâm  trạng  lo âu, buồn bực, trăn trở của con người . Thực vậy, khổ đau luôn luôn là một vấn  nạn  muôn kiếp. Bài thơ sau đây của Alfred de Musset cũng văng vẳng hai câu: 'L'homme est un apprenti, la douleur est son maitre,

Et nul ne se connait tant qu'on n'a pas souffert'. Sự khổ đau nếu ta không có/Biết thân ta thật khó muôn bề/Ta là ngưòi thợ học nghề/ Có đau mới biết rõ về thân ta.

Suy rộng ra, nhà văn hào Dostoyevsky gọi Sự Sống, Đau Khổ và Sự Chết là những  'vấn nạn muôn thuở' mà con người khó tháo gỡ một cách trọn vẹn.

Truyện Kiều cũng có câu :

Đau đớn thay, phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Hoặc những vần thơ nói về tính chất vô thường, bất định của đời người như :

-Kiếp hồng nhan có mong manh

 

-Phận sao phận bạc như vôi

Cũng đành nuớc chảy, hoa trôi lỡ làng

 

Phật giáo cũng nêu khổ trong Tứ Diệu Đế : Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Như vậy, tiền đề khổ đau  luôn luôn có mặt trong ta, xung quanh ta, trước đây, hiện  nay  và về  sau. Nhưng  ngoài  cái  khổ  đau,  trong  thế giới ngày nay, với sự toàn  cầu  hoá, hiện  đại  hoá, đô  thị  hoá, con người còn bị một  hiện  tượng  khác chi phối : đó là stress cũng  thường  trực hiện  diện trong  mọi  hoàn cảnh : học đường, xí nghiệp, sở làm và ở mọi  lứa  tuổi. 

 

2.  Stress ngoài đời, trong nhà, trong trường, trong sở làm

Ngày nay, hiện tượng stress hoặc căng thẳng tâm thần có mặt  trong  mọi  nơi: trong sở làm, trong  học đường, ngoài  đường  phố, nếu so  sánh với  đời xưa . Tại sao ?

Môi trường sống bị thay đổi qúa nhanh ảnh hưởng đến điều kiện sống; điều kiện sống dẫn đến thay đổi về tập quán sống, lối sống nên con người không thích nghi kịp với các biến đổi xung quanh  sinh ra mất cân bằng về tâm lí . Hiện nay, tình trạng Stress  càng ngày càng xâm phạm đến nhiều lãnh vực và với mọi lứa tuổi nên trường học, xí nghiệp luôn luôn có counseling trong các Trung tâm tư vấn tâm lý. Bệnh viện nào cũng có Trung Tâm Sức khoẻ tâm thần (Santé Mentale).

Người trẻ dễ bị stress hơn người già vì đi học phải học nhiều, luyện thi, bị áp lực cha mẹ, ra trường, chạy nộp đơn xin việc làm, vào sở thì lu bu công việc, đua tranh, về nhà nếu có con cái thì lại dạy học cho chúng.

Môi trường xã hội  cũng vậy: nạn nhân mãn,  gây ra phá hủy môi trường, tạo mọi loại ô nhiễm từ ô nhiễm nưóc đến ô nhiễm tiếng động vớI xe cộ ngổn ngang, ô nhiễm bụi bặm gây ra dị ứng, hắt hơi. Sự toàn cầu hoá, khu vực hoá kéo theo sự cạnh tranh; con người trong nền kinh tế thị trường phải bôn ba để dành thị trường. 

Môi trường gia đình : sự sa sút của đạo đức gia đình và đạo đức xã hội có tác động mạnh đến giới trẻ như li thân, li dị, bạo hành và điều đó cũng ảnh hưởng đến tâm hồn các em.

Và các loại môi trường như trên của thời đại ngày nay đã tác động mạnh mẽ trên tâm lí con người, gây ra stress và stress là một kiểu phản  ứng  tâm  lý và cơ thể để mong  lập lại  một sự quân  bình trong cơ thể và nội tâm trước một tác động của môi trường.

Và cứ thế, lâu dần các stress ở trạng thái tiềm ẩn, chìm sâu trong tâm thức như ở dưới phần ngầm của băng sơn trên biển, trôi lờ lững. Stress dễ xảy ra khi con người cố kềm hãm không để thể hiện ra ngoài những ý nghĩ, mong muốn và tình cảm của bản thân nhưng đến một lúc nào đó có một chấn thương tâm lý, một sự cố như thất nghiệp, người thân chết, li dị v.v thì bệnh trầm nhược (depression) sẽ phát hiện. Trầm nhược hiện ra dưới nhiều hình thức và có thể nêu ra đây các triệu chứng:

Về mặt tư tưởng: thiếu tập trung, khó nhớ, mau quên, muốn tự vẫn

Về mặt thể chất: biếng ăn, mất ngủ liên miên, cơ thể mệt mỏi, suy nhược, uể oải

Về mặt tình cảm: buồn rầu, trăn trở, trống vắng, lo âu, chán nản

Về mặt hành vi : không muốn trò chuyện với ai, nói không đầu đuôi, ngồi trầm ngâm, nhìn mọi sự vật với một màu sắc ảm đạm và thê lương : ' người buồn cảnh có vui đâu bao giờ '

Và cứ mỗi trạng thái tâm lý (buồn, giận, ghét, thương ..) lại tương ứng với mỗi trạng thái sinh lí khác nhau trong não bộ . Khi stress kéo dài lâu, cơ thể sẽ suy yếu vì khi lo âu, não bộ với hàng tỷ neuron sẽ hoạt động sai lạc không bình thường và trở nên rối loạn.

Theo Aaron Beck, một nhà tâm thần học nổi tiếng, không phải cái thực tại làm cho mình bị trầm nhược, mà chính là cái nhận định, cái giải  thích  về cái thực tại đó mới làm ta bị trầm nhược. Và chính cái nhận thức đó lại bị ảnh hưởng bởi các định kiến cơ bản  nhưng sai lầm như: đời  người dễ qúa, ta không thể thất bại, thế nào mình cũng thi đậu với hạng cao, ta không bao giờ làm sai v.v., do đó một  khi gặp cảnh ngộ éo le (thất nghiệp, tình phụ, lổ lã làm ăn ..) thì tâm hồn dễ bị chấn thương, đưa đến trầm nhược.

 

Trong thi phẩm Chinh phụ ngâm, có đoạn thơ nói về nỗi buồn của người thiếu phụ:

Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ

Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai

Há như ai hồn say bóng lẫn

Bỗng thơ thơ , thân thẩn như không

 

Cái 'thơ thơ thẩn thẩn như không' đó chính là dấu hiệu của trầm nhược, cùng với :

'mặt biếng tô, miệng càng biếng nói

Sớm lại chiều ròi rõi nương song'

 

Có 3 yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau trong qúa trình trầm nhược:

Yếu tố sinh học trong đó có phần di truyền

Yếu tố tâm lý  như cảm xúc, nhận thức, tri giác, tuệ căn

Yếu tố xã hội  như  thất  nghiệp, làm ăn thua lỗ, gia đình có người thân chết hay như nàng chinh phụ chờ chồng như nói ở đoạn thơ trên .

Chỉ cần một trong những yếu tố đó bị ảnh hưởng cũng kéo theo các ảnh hưởng kia

Sau đây là mô hình sinh-tâm-xã (modèle biopsychosocial) của trầm nhược, cho thấy sự tương quan chặt chẽ và thường trực của các yếu tố nói trên.

 

 

3 Xin cấy lại niềm tin. 

Niềm tin là một thứ ciment  tinh thần nối kết mọi phần tử trong xã hội . Do đó trong Nho giáo có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.  Chữ  Tín là  một  trong 5 yếu tố căn bản. Không có niềm  tin, mọi tổ chức đoàn thể sẽ trở  thành giả tạo, phù phiếm . Trong gia đình, cha mẹ cãi cọ nhau thì hỏi con cái tin vào ai ? Trong đời sống lứa đôi, khi vợ chồng lừa dối nhau để  không tin nhau  nữa là sẽ đổ vở. Với niềm tin tôn giáo, ta tìm được ý nghĩa của cuộc sống. Ánh sáng  niềm tin là yêu  thương  phục vụ  tha  nhân. Khi con người biết quên mình, sống cho người  khác thì con người sẽ tìm thấy Lý Tưởng và Ý Nghĩa cho cuộc sống.

Trong cuộc sống  xô bồ  hin nay, con người dễ  vấp  váp  nhiều  tình huống  khó xử, dễ sinh trầm nhược. Trầm nhược cắt ngang mọi lứa tuổi ( già, trẻ); mọi giai cấp (giàu, nghèo); mọi nơi chốn ( thôn quê, thành thị)

Ngày nay, nhiều phương pháp trị liệu để hoá giải stress như:

động vật trị  liệu: nuôi mèo, chim, chó trong nhà;

âm nhạc trị  liệu : nghe âm nhạc êm dịu, nhạc Thiền;

hoa kiểng trị  liệu: trồng hoa và ngắm hoa..

Tuy nhiên, các phương pháp trên chỉ mới là đề cập đến phần trên của băng sơn. Một biến cố lớn gây ra nhiều mối khổ tâm, không chỉ vì tình trạng hiện  hữu mà lắm khi khuấy dậy lên nhiều mối đau khổ mặc cảm đã qua nhưng còn ẩn náu  tiềm  tàng trong vô thức tức phần chìm của băng sơn. Do đó, chỉ có tôn giáo mới đặc biệt giúp về mặt  tâm lý: cầu  nguyện  mãnh liệt, tin tưởng vào một sợi giây vô hình nối mình với một mãnh lực tối cao như  Phật Thế tôn, Phật Bà Quan Âm v.v. .

Ta thưòng nghe danh từ  kép  Đau Khổ . Đau như đau đầu, đau bụng, đau ruột, đau khớp, nhưng cái Đau kéo theo cái Khổ như buồn bực, uất cảm, chán nản. Vào bệnh viện, bác sĩ chữa cho cái Đau, nhưng không chữa cho cái Khổ mà hai cái này lại liên quan với nhau vì nếu giảm đi cái Khổ (do thời cuộc, do gia đình xáo trộn, do thất nghiệp..) thì cái Đau cũng thuyên giảm đi . Đau là thuộc về thân thể, Khổ là thuộc về tâm lý . Có bệnh đau ít, khổ nhiều; có bệnh khổ ít, đau nhiều.

Trong truyện Kiều, ta thấy nàng Kiều khổ nhiều vì buồn, vì trăn trở, vì băn khoăn, vì nhớ nhà:

Nhớ cha mẹ:

Xót thay huyên cỗi, xuân già,

Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi

Trăn trở trong lúc tưởng nhớ  người yêu :

Nhớ lời nguyện ước ba sinh

Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ?

 

Tuy nhiên , nhờ tôn giáo,-trong trường hợp câu chuyện là nhờ nương nhờ cửa Phật-,mà các nỗi khổ chồng chất trong tâm thức dần dà được giải toả và nguôi dần:

Gửi thân được chốn am mây

Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong

Khi con người bị khổ thì:

.Cầu nguyện làm tăng sức mạnh tâm lý, tìm lại nguồn vui trong tôn giáo và sức mạnh tinh thần để dễ đối phó với các nghịch cảnh, giúp khả năng hồi phục nhanh hơn. 'Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều'

.Cầu nguyện mãnh liệt làm thay đổi hoá học của não bộ, kích hoạt các neurone, tăng cường hệ thống miễn dịch.

.Cầu nguyện giúp ta hoá giải với stress hiệu qủa hơn, giúp ta làm việc trong chánh niệm, tập trung tư tưởng, trong hơi thở .

Cầu nguyện có thể ở bình diện vĩ mô như cầu cho Quốc Thái Dân An, cho Hoà Bình Thế Giới  và cũng có thể ở bình diện vi mô như cầu cho tai qua nạn khỏi, cầu an cho người đau ốm, cầu siêu cho vong linh người chết sớm siêu thoát

Trong vũ trụ, gió, dầu hoả tạo ra năng lượng ; kho năng lượng này có thể biến đổi thành điện năng, cơ năng, hoá năng .. Tương  tự  con người cũng là kho năng lượng; nếu chuyển hoá thành Từ, Bi, Hỉ, Xả thì tốt, tích cực nhưng chuyển hoá thành tham lam, sân hận thì xấu, tiêu cực.

Tiếng chuông  ngan  vang, tiếng  mõ nhịp đều với tiếng kinh ngâm nga trầm bổng Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, kết  hợp  hài hoà với lòng tin mãnh liệt, ru hồn người thanh thản giúp quên đi các cung bậc yêu, ghét, vui, phẫn nộ, sợ, ngạo mạn, thói quen xấu cũng như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp , để vươn tới cái vô ngã, mà vô ngã nghĩa là không có một thực tại biệt lập và thường hằng mà tất cả đều chuyển biến (vô thường) hang  giờ  hàng phút. Cái vô ngã giúp ta khiêm tốn và khi ta đạt tới cái thấy vô ngã thì những khổ đau như giận, ganh tỵ, sợ hãi, thù hận, tủi hổ, phiền muộn  sẽ được chuyển hoá, giúp ta nhiều an lạc trong cuộc sống. Mà muốn đạt  tới cái vô ngã trong khi cầu nguyện, thì niệm, định và tuệ là 3 nguồn năng luợng cần để chuyển hoá các phiền muộn, khổ đau .

Niệm như trong chánh niệm: niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, rửa chén, thiền hành, làm việc, đưa tâm về lại với thân để ta có mặt đích thực trong giây phút hiện tại, bớt tiêu thụ chỉ gây thêm ô nhiễm, lo chạy đua theo tiền tài và danh vọng, không biết rằng:

Vèo trông lá rụng ngoài sân

Công danh phù thế có ngần ấy thôi (Tản Đà)

Định có nghĩa là chú tâm, chú tâm tìm thấy bản chất và cội nguồn của sự khổ đau, trong trường hợp này là trầm nhược, biết được nguyên do xa gần của trầm nhược

Tuệ (tuệ giác) sẽ chuyển hoá các trầm cảm thành năng lượng hoá giải các hội chứng của trạng thái căng thẳng tâm trí .

Nhờ cầu nguyện sâu xa, lòng thành đã thấu đến Trời, con người dễ tìm thấy An Lạc trong con tim vì hiểu sâu nội tâm, bỏ dứt Tham, Sân, Si vốn là các thông số của phương trình Khổ Đau. Không có niềm tin thiêng  liêng  thì tôn giáo không thể phát triển. Nếu một người không tin vào Phật thì Phật tánh không khởi ở trong họ. Tâm linh chính là vec-tơ (vecteur) đưa đến tôn giáo .

Cầu nguyện để đi sâu vào nội  tâm  hầu có thể phá chấp . Phá chấp có nghĩa nôm na là không cố chấp vì cố chấp là cho ta  cái gì  cũng  đúng, của  người  khác  là trái. Vì cố chấp  nên nảy sinh ra  thanh  kiến, nảy sinh ra kỳ thị, phân  biệt  chủng  tộc khiến xung đột  địa phương, chiến tranh, chém giết gây thêm đau khổ cho nhân  loại. Khi ta cho  mình  là  đúng, người  kia cũng  cho  mình  là đúng  thì dĩ nhiên không đối thoại, không truyền thông, ta nẩy sinh ra hờn giận, ghen  ghét, khó chịu và đó là nguồn phát sinh ra stress.

 

Thái độ trong khi cầu nguyện cũng quan trọng:

 'đừng để tư duy đưa hỏng anh lên không gian,

 bàn tọa anh hãy chấm chặt vào mặt đất,

 anh hãy cùng đất hợp nhất,

đã trở về với đất, anh hãy mĩm cười

thì đất sẽ truyền cho anh sự vững chãi

sự bình yên sự thảnh thơi

hơi thở tinh chuyên

nụ cười an nhiên' ( Địa Xúc, thơ Nhất Hạnh)

 

Hơi thở tinh chuyên, nụ cười an nhiên là gì nếu chẳng phải là tinh thần Thiền  học ?

-hơi thở tinh chuyên giúp ta dễ chánh niệm, thở vào, thở ra điều hoà chứng tỏ ta hiện hữu

-nụ cười an nhiên để có được thái độ phá chấp, thoát được ngã mạn, bớt đi cái Ngã (ego), để bình thản tiếp nhận sáng suốt những gì xảy đến để bình tĩnh giải quyết

-nụ cười an nhiên  là bình thản, vô tư, để cho tâm hồn có chỗ rỗng để có thể tiếp nhận  cái mới. Và nhờ hơi  thở  tinh chuyên, nụ cười an nhiên, con người mới có thể tháo bỏ mọi sự vật chung quanh để cho tâm hồn ta trở về cái Nhất Nguyên huyền diệu nguyên thủy của Trời Đất. Tìm lại những hình tượng uyên nguyên này, chúng ta sẽ có khả năng  khám phá  'bộ mặt đích thực của mình', tức cái 'bản lai diện mục'. Trái lại  khi bỏ quên hay chối  từ  những  bộ mặt uyên nguyên ấy, chúng ta sẽ chỉ như một thân cây không có gốc rễ bám chặt vào  mãnh đất .

- nụ cười an nhiên là lòng Từ  BiĐiều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.

 

4. Kết luận

Một câu tục ngữ Tây phương có nói: 'Ngày nào còn sự sống, ngày ấy còn hi vọng' (Tant qu' il y a de la vie, il y a de l'espoir). Hình như nói ngược lại cũng thấy đúng: ngày nào còn hi vọng, ngày ấy còn có sự sống.

Cuộc sống đầy biến động hiện nay làm rối loạn đồng hồ sinh học của con người, gây ra nhiều rối nhiễu tâm lý. Như vậy, dưỡng  tâm bằng  nhiều  phương pháp, trong đó cầu nguyện trong tĩnh lặng, trong thiền định giúp con người xử lý stress (stress management) hiệu qủa hơn .

Thực vậy, khi  ta cầu nguyện sâu dày, các bệnh trầm nhược có cơ giảm bớt, có thể vì kháng thể trong người  nhiều hơn, chống chọi với bệnh tật dễ hơn. Cầu nguyện sâu dày giúp ta quán chiếu nội tâm, biết mình là ai, biết mình cảm xúc cái gì, biết mình cảm  nhận  ra sao, rèn luyện  tâm tính cho vững chắc trước cuộc đời đầy cung bậc yêu thương hờn giận để phá bỏ các sai lạc tư duy vì các sai lạc tư duy (false beliefs) sẽ làm cho trầm nhược nặng hơn.

Và trên một bình diện rộng hơn, trong một  thế giới nhiều  bất trắc đau thương với bao người nghèo khổ, ta hãy, mỗi ngày như  mọi ngày, thành  tâm cầu nguyện trong tĩnh  lặng không những cho bản thân mà còn cho chúng sanh quanh ta, ước gì ta có thể làm một con tàu cho những ai đang phải vượt qua biển cả, làm một nhịp cầu cho những  ai phải vượt  qua sông,  làm một ngọn đèn cho những ai cần ánh sáng, làm nơi nương tựa cho những ai cần chốn  trú ẩn, làm người nô bộc khiêm tốn cho những ai trong tình trạng khốn quẩn. Cầu  nguyện  cho thế giới hoà bình, nhân dân an lạc vì hoà bình không phải là không có chiến tranh mà còn là hoà bình trong tâm linh nữa .

Tác giả:  Thái Công Tụng

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!