CÂU CHUYỆN VỀ PHÉP LẠ CỦA ĐỨC MẸ LA VANG! BỐN MƯƠI NĂM - MỘT DÒNG LỆ
Câu chuyện về phép lạ của Đức Mẹ La Vang! Bốn Mươi Năm - Một Dòng Lệ
LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. "Về bên Mẹ Lavang" chân thành cám ơn tác giả.
Tôi rời nhà lúc
sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài
vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một
việc làm gần như rất hiếm hoi.
Ngày cuối tuần,
nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm
nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với
tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã
hứng... Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng
thăng tiếng trầm đến với cuộc đời...
Riêng sáng
hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút
trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác
ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy
sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa,
mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo
dài đến chiều...
Liên tưởng
đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm
Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị
anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động.
Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức
tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại
trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố
trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một
ngày mưa gió như hôm nay...
Năm 1958, ba tôi làm việc tại bệnh viện Trung Ương thánh phố Huế. Mỗi
tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng
lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm bệnh viện Quảng Trị, cách thành
phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.
Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã
từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo
dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị
lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện
đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và
dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.
Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn
Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình
tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo
Ðạo.
Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại
lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có
Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên
Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một
người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành
và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng
trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay
chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông
rất kính mến cha Luận.
Cha Luận gặp ba tôi, Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một
tấm ảnh và bảo: "Tôi mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một
tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng.
Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện."
Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi
trong của chiếc áo da. "Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở
ngoài kia." Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.
Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày
đặc...
Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ
kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện "những kẻ khốn cùng"
(les misérables) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung
tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng Quảng
Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu
gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ
cho thân nhân...
Trước
biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm
lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy...
(giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới
ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng),
chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa...
Ngoài
kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi...
Mẹ tôi và chị em
tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại
một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên
bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy.
Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng
một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng
nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc,
đứng ở một góc phòng chờ đợi...
Thân nhân của các
nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa
buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang
chờ đợi gia đình tôi.
Em tôi vì còn nhỏ,
có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: "Ba đâu, ba
đâu mẹ!" Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:
Là ba đó, mẹ tôi
chạy nhào tới.
Phải rồi, người
ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.
Lại có tiếng
người la lên: "Trời ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu
lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi!"
Và ba tôi quả còn
sống thật! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu
sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này
là những giòng nước mắt hạnh phúc không ngờ...
Chúng tôi quỳ
chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.
Ba tôi tỉnh lại
hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi
không bao giờ quên được:
"Hãy
xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba."
Nói xong ông đưa
tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh
Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định
mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với
chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.
"Ðây
chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra
khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ Lavang, Ta
đến cứu con."
Tôi chợt nghĩ lại,
nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp
chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong
một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.
Sau biến cố đó,
gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất
hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao
Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ họ đạo Phanxicô,
hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ
Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng
tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng thánh lễ và ban phép rửa tội cho
chúng tôi.
Theo lời xin của
ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh
Ðường Ðức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin
tưởng lần chuỗi mân côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt
bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình
ảnh cuối đời của mẹ tôi.
Tôi còn nhớ rõ sau thời gian
gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào
của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo
là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường
cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ
lại khuyên răn chúng tôi:
"Ba
là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu
bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó.
Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu
với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta."
Mẹ tôi nói đúng,
ơn lạ mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của
gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã
gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ.
Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông
đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.
Câu chuyện mầu
nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như
là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những
phép lạ của Ðức Mẹ Lavang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia
đình khác nói chung.
Ngày đại lễ hôm
nay trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh
phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu
rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia
đình tôi từ thuở tôi mới lên mười...
Tôi lắng nghe
những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói
rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ
những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có
nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình
ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với
nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể
lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh
cho cha cố Trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.
Tôi tự cảm thấy
gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ
Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.
Trong cái lạnh
của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa.
Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ
mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm
cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm
rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn
lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu... Có lúc đã
ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy
dài...
Những giọt lệ vui
mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu
trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.
California, Chúa Nhật ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương
Nguồn:http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/lavang/dongle.htm
Tác giả:
Lê Tín Hương
|