Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Suy Niệm & Cầu Nguyện
GIÊ-RÊ-MI-A, MẪU GƯƠNG CHO NGƯỜI NGÔN SỨ


 (Suy từ đoạn sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, chương 20, từ câu 7 đến câu 18)

Dẫn nhập: Người ta thường nói, đời là một cuộc vật lộn, một trường tranh đấu. Cuộc sống luôn đầy rẫy những cam go thử thách. Vì thế, con người luôn phải nỗ lực băng mình lên, có khi phải « trầy vi tróc vảy » mới có thể tìm cho mình được một chọn lựa đúng đắn, một lối sống thích hợp cho mình. Ơn gọi làm ngôn sứ của Giê-rê-mi-a là một trường hợp điển hình như thế. Để đáp lại lời mời gọi của Chúa, để làm « phát ngôn viên » cho Ngài, Giê-rê-mi-a đã phải đối diện với bao nỗi truân chuyên, giằng co của thế sự thăng trầm: phải sống độc thân theo lời mời gọi đầy hấp lực của Chúa mà lòng như rối tơ vò; phải chịu trăm ngàn điều trái nghịch và sỉ nhục, ngay trong đám bà con thân thuộc của mình. Tuy nhiên, vượt trên tất cả, bàn tay Chúa luôn ở với ông. Qua trích đoạn sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, chương 20 từ câu 7 đến câu 18, chúng ta có thể rút ra những suy nghĩ gì về thân phận của người ngôn sứ nói chung, nhất là trong bối cảnh xã hội hôm nay.

1. Sự huyền nhiệm của ơn gọi ngôn sứ:  Điều đầu tiên đánh động chúng ta đó chính là sự nhiệm mầu của ơn gọi làm ngôn sứ của Chúa. Thật vậy, ngôn sứ là người được Chúa chọn để thi hành sứ vụ của Người. Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước để mời gọi con người dấn bước vào hành trình mục tử. Đối tượng chọn gọi có thể xuất thân từ bất kỳ hoàn cảnh nào. Người thì ở chốn phồn hoa đô thị, kẻ thì sớm hôm chài lưới bên sông, người khác lại đang cuốc cày mưa nắng ngoài đồng… Còn Giê-rê-mi-a lại là một thanh niên trai trẻ, xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt vào thế kỷ thứ bảy. Ông vốn là người sống hiền lành, trầm tĩnh và có phần nhút nhát, trong khi sứ vụ ngôn sứ đòi hỏi phải có sự mạnh mẽ và hoạt bát. Vì thế, thoạt tiên ông đã tìm cách từ chối mà rằng: « Lạy Chúa, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói » (Gr1,6). Thế mà ý Chúa nhiệm mầu, với ý định khôn dò khôn thấu, Ngài đã «quyến rũ » chàng trai trẻ, đã ban cho chàng trai trẻ sự can đảm và bảo chứng của Ngài: «Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi» (Gr1,7). Và cuối cùng, Giê-rê-mi-a đành để Chúa «quyến rũ ». Như vậy, ơn gọi trước hết xuất phát từ Thiên Chúa, chính Ngài khởi xướng và chọn gọi, và khi đã chọn gọi, Ngài ban đủ ơn cần thiết để họ thi hành sứ vụ của Ngài. Chính đây là điểm tựa để Giê-rê-mi-a chu toàn sứ vụ của ngài giữa bao thế sự thăng trầm.

2. Đời sống của Giê-rê-mi-a nên lời ngôn sứ: Đoạn trích trên đây cho ta thấy, ơn gọi làm ngôn sứ luôn là một ơn gọi đầy cam go thử thách. Bước vào hành trình ngôn sứ, Giê-rê-mi-a có vai trò làm trung gian giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Thời bấy giờ, dân tộc Ít-ra-en đang loạn lạc. Khi được mục kích thời tàn của Giu-đa và sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem năm 587 tcn, Giê-rê-mi-a đau lòng trước nỗi đau của dân tộc, ngậm ngùi cho dân tộc đang bị tan nát vì ách đô hộ, dân chúng phải lưu đày khổ ải. Trước tình cảnh đầy nghiệt ngã đó, Giê-rê-mi-a đã giải thích cho họ biết rằng những đau khổ mà họ phải chịu chính là hệ luỵ của lòng bất trung vào Chúa. Ông cực lực phản đối lối sống vô luân, phản trắc, dâm dật của dân Ít-ra-en. Họ đã phản bội Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang,  tựa như những người vợ dâm bôn đã không chung thuỷ với Chúa nhưng lại lang chạ, đĩ điếm với những gã đàn ông khác. Bởi vậy, Thiên Chúa đã nổi trận lôi đình giáng phạt họ. Ông hằng tha thiết mời gọi họ mau trở về với Chúa và hoà giải với Ngài. Ông cũng cực lực lên án những hành vi bất chính của vua Giơ-hô-gia-kim (609-598): «Khốn thay kẻ xây nhà xây cửa mà không đếm xỉa tới lẽ công bình. Khốn thay kẻ xây lầu son gác tía mà chẳng màng chi đến điều chính trực. Khốn thay kẻ bắt anh em mình làm lụng vất vả mà không tính công sá, không trả thù lao… Nó sẽ được chôn cất như một con lừa» (X. Gr 22,13-19).  Sở dĩ có những lời chỉ trích cay nghiệt như thế là vì nhà vua bắt dân đen phải đóng sưu cao thuế nặng để triều cống cho ngoại bang là vua Ai cập. Ngoài ra, Giê-rê-mi-a còn dùng rất nhiều lời tuyên sấm khác để cảnh tỉnh người Ít-ra-en từ vua đến dân nhưng xem ra những lời sấm của ông «chẳng nặng tày mây khói», chỉ tựa «hạt cát dính bàn cân » trước sự điếc lác của đám dân khốn nạn. Thay vì mau mắn nghe lời và đáp trả, đám dân này lại xem lời rao giảng của Giê-rê-mi-a như trò đùa và mặc sức cười nhạo. Những thánh giá mà ông phải hứng chịu càng nặng nề chua chát gấp bội khi những bia miệng ấy lại đến từ đám bà con thân thuộc của ông. Như vậy, sứ vụ ngôn sứ rõ ràng không phải là một con đường tiến thân theo kiểu «vinh thân phì gia» nhưng là một chọn lựa để dấn thân theo bước chân của Người Tôi Tớ Đau Khổ – là Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đầu đội vòng gai, chịu nạn chịu chết vì nhân trần. Tuy nhiên, trước một sứ vụ dù cao cả nhưng muôn trùng khó khăn đó, người ngôn sứ của Chúa không thể nào không chất chứa những tâm trạng sầu não, có khi thất vọng chán chường và thoái lui.

Trước những lời nhạo cười chua chát của dân Ít-ra-en, trước lòng chai dạ đá của đám dân tội lỗi này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã phân trần cùng Chúa: «Suốt ngày con trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con » (Gr 20,7). Đã nhiều lúc ông định rút lui và than rằng: "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa » (Gr 20,9). Trước mắt ông chỉ là vực sâu hun hút của hư vô và thất vọng ê chề. Đây là một tâm trạng rất đỗi tự nhiên của con người trước khó khăn của cuộc sống. Và giá như Giê-rê-mi-a có thoái lui thì người đời cũng dễ thông cảm nếu như không muốn nói là đồng cảm. Tuy nhiên, chiều kích ơn gọi quả rất huyền nhiệm, khác hẳn với lô gích của người đời. Chính tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đã can thiệp và xoay chuyển cuộc đời ông như chính ông đã nói: «Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt » (Gr 20,9). Và sự thúc bách đó như một hấp lực khiến vị ngôn sứ không thể cưỡng lại được. Ông đã đứng phắt dậy tiếp tục cuộc hành trình, mặc cho mọi rào cản vẫn đang giăng lối. Hình ảnh đắc địa này giúp chúng ta liên tưởng đến những lời trần tình đầy khắc khoải của Thánh Augustinô khi ông không thể cất cánh bay khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con sẽ không được ngơi nghỉ cho tới khi nó tìm được sự nghỉ ngơi nơi Ngài”[1]. Hay như Phao-lô, vị Tông đồ dân ngoại cũng cảm nhận được sự thúc bánh mạnh mẽ của Chúa để đi rao giảng Tin mừng, và cuối cùng ông đã dốc tất cả nhiệt huyết tông đồ vì sự thúc bách đó. Và có lẽ, hình ảnh Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng giúp soi sáng cho chúng ta hiểu chi tiết đặc biệt này của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Chúa Giê-su đã phải chảy mồ hôi máu cũng chỉ vì sự giằng co giữa hai thái cực của tâm trạng: một để không uống chén đắng của hành trình thập giá và một để vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Và cuối cùng, Ngài một mực vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Tâm trạng của Giê-rê-mia, của Chúa Giêsu, của Thánh Phaolo hay của Thánh Augustino như là một sự giằng co đau đớn, một sự căng thẳng giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa tự do chọn lựa của con người và lời giục giã hay ân sủng nhiệm mầu của Thiên Chúa. Dù sự giằng co ấy quyết liệt đến cỡ nào thì cuối cùng ân sủng Chúa vẫn thắng. Như vậy, ân huệ siêu nhiên không phải là rào cản nhưng là sự kiện toàn ý chí tự nhiên nơi Giê-rê-mi-a và giúp ông thi hành sứ vụ ngôn sứ đầy nhiệm mầu. Nói cách khác, Giê-rê-mi-a đã tìm được tự do đích thực đó là « khả năng đón nhận ân sủng và sử dụng « tự do lựa chọn » để phụng sự Đức Ki-tô. Con người được sáng tạo tự do và trong tự do, con người phải quy hướng về Chúa.»[2]

3. Lời mời gọi cho người mục tử hôm nay: Chân dung ngôn sứ Giê-rê-mia giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người mục tử trong xã hội hôm nay. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy nhiễu nhương. Đó đây nhan nhãn những chuyện thương tâm và vô luân như chiến tranh loạn lạc, huynh đệ tương tàn, mại dâm, bóc lột, tham ô, hối lộ,… Những việc làm tội lỗi đó chẳng khác nào những tội lỗi mà dân Ít-ra-en ngày xưa đã trót phạm. Nếu như ngày xưa dân Ít-ra-en bỏ Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang thì nay nhiều người cũng đang nhắm mắt chạy theo tiền tài, danh vọng và quyền lực. Vết xe đổ của vua chúa Ít-ra-en vẫn đang còn nhan nhãn trong xã hội hôm nay: đó là cảnh quan quyền ăn trên ngồi trước, ngồi mát ăn bát vàng và mặc sức hoành hành, cưỡi đầu cưỡi cổ dân đen bằng sưu cao thuế nặng … Ngay cả trong Giáo hội, « khói Satan » cũng lẻn vào dưới nhiều hình thức khác nhau, làm tổn thương hình ảnh Chúa Ki-tô nơi Nhiệm Thể của Người.

Vậy, trước hiện trạng đó, người ngôn sứ chân chính của Chúa Ki-tô phải làm gì ?

Phải chăng họ chỉ biết im hơi lặng tiếng, an nhiên tự tại, chỉ ngước nhìn những « vết thương » của Chúa Giê-su nơi những người đau khổ, bệnh tật, thấp cổ bé miệng… mà không một lời biện hộ hay bênh vực, như thế chẳng khác nào một căn bệnh trầm kha mà Đức Thánh Cha Phanxico vẫn gọi là bệnh « toàn cầu hoá dửng dưng.»

Phải chăng người ngôn sứ của Chúa lại không đồng cảm trước những cảnh cướp bóc, bạo tàn, nạn phân biệt chủng tộc hay đàn áp dân đen một cách nhẫn tâm của tầng lớp thống trị lên những người dân thấp cổ bé miệng?

Phải chăng người ngôn sứ trong thời đại hôm nay lại yếm thế, muốn được vô tai vắng tiếng mà lờ đi những bổn phận đang sờ sờ trước mắt ?

Không. Người ngôn sứ phải là người như Giê-rê-mi-a, dám đương đầu với mọi cảnh bất công, dám chạm đến vết thương của Chúa Giêsu nơi những người đau khổ bất hạnh, dám vượt qua nỗi nhục nhã của bia miệng thế gian để trở nên «miệng của Chúa ». Nếu làm được như thế thì người ngôn sứ sẽ được Chúa sủng ái và chúc phúc chứ không bị Ngài nguyền rủa là « lũ chó câm, không biết sủa»[3]. Những lời hiệu triệu sau đây của Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng thật đáng cho chúng ta suy nghĩ: « nhiều khi các vị lãnh đạo không biết lo xa, sợ không được lòng người đời, nên ngại không dám thẳng thắn nói ra sự thật. Họ không nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên theo lời Đấng là sự thật, cho đúng với nhiệm vụ mục tử, mà chỉ chăn dắt như người làm thuê, vì khi ẩn mình làm thinh thì chẳng khác gì họ xa chạy cao bay khi chó sói đến»[4].

Kết luận: Tóm lại, ơn gọi làm ngôn sứ luôn mang chiều kích siêu nhiên, huyền nhiệm. Với khả năng tự nhiên của con người, sứ vụ ấy tưởng không thể cam nổi nhưng với ân sủng của Chúa, mọi sự đều có thể. Sứ vụ ấy luôn đầy rẫy những thập giá hay nói cách khác, thập giá như một thành tố làm nên ơn gọi ngôn sứ vì chính Chúa Giêsu đã nói: « tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi » (Ga 13,16). Tuy nhiên, người ngôn sứ luôn được Chúa an ủi vỗ về: « Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối» (2 Cr 12, 9). Cuối cùng, điều tối quan trọng là người ngôn sứ phải biết rằng mình chỉ là đầy tớ vô dụng, muốn trở nên hình ảnh và khí cụ của tình yêu thì cần chạy đến và « uống nơi nguồn mạch đầu tiên, nguyên thủy, nơi Đức Giêsu Kitô, từ cạnh sườn được khai mở của Người, tình yêu của Thiên Chúa luôn tuôn trào» (x. Ga 19,34). Nếu được như thế thì họ cũng sẽ là những « Giê-rê-mia mới » cho xã hội hôm nay.

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

1. Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, O.P. Sách Ngôn sứ, 2006.

2. Nguyễn Trọng Viễn. Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Thời Trung Cổ. Gò Vấp: Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, 1996.

3. Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 2. Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008.

 



[1] Augustine, Tự Thuật, (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2010), tr. 32.

[2] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Thời Trung Cổ, (Gò Vấp: Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, 1996), tr. 60.

[3] Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 2, Trích sách Quy luật mục vụ của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2008),  tr. 613.

[4] Ibid. tr. 613. 

Tác giả:  Lm. Jos Đồng Đăng

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!