Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Suy Niệm & Cầu Nguyện
THA THỨ VÀ HÒA GIẢI


CHÚA NHẬT 23 A THƯỜNG NIÊN

Ed 33:7-9; Rm 13:8-10; Mt 18:15-20

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Người Công Giáo chúng ta thường có tính dĩ hòa vi quí, coi tha thứ và hòa giải là đầu, nại cớ mến Chúa yêu người. Nhưng thế nào là tha thứ và hòa giải? Tha thứ có dẫn tới hòa giải không hay lại chỉ đưa tới hỗn loạn và bất công?  Hai bài đọc và bài Phúc âm tuần này đã đưa ra cho chúng ta những tiến trình của tha thứ và hòa giải đễ dẫn tới hy vọng hàn gắn những vết thương đau.

 

NHỮNG TIẾN TRÌNH CỦA THA THỨ VÀ HÒA GIẢI

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 18:15-20) đưa ra những yếu tố chính cần phải có để tha thứ. Mathieu nhấn mạnh đến tiến trình sửa lỗi anh em (Mt18:15-20), mọi người cùng cầu nguyện (Mt 18:19-20) và tiếp tục ăn năn thống hối (Mt 18:21-35).

Câu chuyện xẩy ra ở gần thị trấn Caesarea Philippi (Mt 16:13-19) cho  thấy Phero được Chúa Giesu gọi là Đá để làm nền móng xây Giáo Hội. Phero được Chúa tin tưởng trao cho chìa khóa Nước Trời để mở hoặc đóng tùy người. Phero có thể cầm buộc hay tháo gỡ bất cứ điều gì của bất cứ ai thấy là cần thiết cho đời sống của Giáo Hội theo đúng nguyên tắc tha thứ và cầm buộc đã được thiết lập. Câu 18 trong bài Phúc Âm hôm nay (Mt 18:18) chỉ là nhắc lại câu 19 trong đoạn 16 (Mt 16:19) cũng của Mathieu, và nhiều người đã hiểu là tất cả các môn đệ đều được thừa hưởng cái quyền mà trước đây Chúa Giesu chỉ ban cho một mình Phero.

Những danh xưng “dân ngoại”“người thu thuế” được nêu lên trong bài Phúc Âm có lẽ phản ảnh một giai đoạn nào đó trong cộng đồng Giáo Hội của Mathieu thời sơ khai chỉ có những Kito hữu người Do Thái. Vì những người Do Thái giữ luật rất nghiêm ngặt đã xa lánh tập đoàn dân ngoại và người thu thuế, nên cộng đoàn các môn đệ Kito giáo cũng hiên ngang tự tách rời khỏi những thành viên tội lỗi của mình là những người không chịu ăn năn thống hối, ngay cả khi họ bị toàn thể Giáo Hội kết án. Những cá nhân này bị đặt ra ngoài cộng đồng không còn được hiệp thông nữa.

Trong bài đọc 2 thơ gửi tín hữu Roma (Rm 13:8-10), Phaolo đã coi đức ái là luật buộc. Khi đức ái hướng dẫn quyết định luân lý của những ai mang danh nghĩa Kito hữu thì họ đã được luật lệ bảo vệ (13:9). Đức ái cho biết trước mục đích của luật giáo hội và luật dân sự, nghĩa là bảo đảm cho lợi ích và công ích tốt nhất cho tất cả mọi thành viên của cộng đồng Giáo Hội và công dân.

 

GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ SÁM HỐI VÀ HÒA GIẢI

Giáo Hội còn nói rõ về việc hòa giải / sám hối trong sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo qua những đoạn #1440-1441: 

Trước hết, tội lỗi là xúc phạm đến Thiên Chúa, cắt đứt sự hiệp thông với Người, đồng thời cũng gây tổn thương niềm hiệp thông với Giáo Hội. Bởi vậy sự trở lại sẽ đồng thời mang lại ơn tha thứ của Thiên Chúa và sự hiệp thông với Giáo Hội. Đó là điều mà bí tích sám hối và hòa giải nói lên và thực hiện trong phụng vụ của bí tích này.

Chỉ mình Thiên Chúa có quyền tha thứ tội lỗi. Vì Chúa Giesu là con Thiên Chúa, nên Người đã nói về bản tính Người:“Con Người có quyền tha thứ tội lỗi trên mặt đất này”(Mc 2:10) và Người hành sử quyền thần thánh này: “Các tội lỗi của anh đã được tha thứ”(Mc 2:5). Hơn nữa nhân danh uy quyền thần linh của Người, Người đã ban quyền tha tội này cho những con người, để họ hành sử quyền này nhân danh Người.

 

CẦM BUỘC VÀ THÁO GỠ

Giáo lý Công Giáo còn tiếp tục cắt nghĩa hai tiếng Cầm BuộcTháo Gỡ qua những đoạn #1444-1446:

Khi thông ban cho các tông đồ quyền tha tội, Chúa cũng ban cho các ông uy quyền để hòa giải các tội nhân với Giáo Hội. Chiều kích Giáo Hội này của công tác trọng đại của các ông đã được nói lên trong tuyên ngôn long trọng của chúa Kito nói với Simon Phero: Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước trời: tất cả những gì con cầm buộc dưới đất cũng sẽ bị cầm buộc ở trên trời, và tất cả những gì con tháo gỡ dưới đất cũng sẽ được tháo gỡ ở trên trời (Mt 16:19). “Nhiệm vụ trói buộc và tháo gỡ đã được ban cho Phero như thế, cũng sẽ được ban cho tập đoàn các tông đồ liên kết với vị thủ lãnh của mình”(Mt 18:18; 28:16-20).

Các từ Cầm Buộc và Tháo Gỡ có nghĩa là: kẻ nào bị anh em khai trừ khỏi sự hiệp thông của anh em cũng sẽ bị khai trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa; và ai được anh em nhận lại vào sự hiệp thông vói anh em, thì cũng sẽ được Thiên Chúa nhận cho hiệp thông với Người. Sự hòa giải với Giáo Hội không thể tách rời khỏi sự hòa giải với Thiên Chúa.

Chúa Kito đã lập bí tích Sám Hối cho tất cả các thành viên tội lỗi của Giáo Hội Người, nhất là những ai sau khi nhận phép rửa tội đã sa ngã phạm tội trọng và như vậy đã đánh mất ân sủng của phép rửa tội, gây thương tổn cho sự hiệp thông với Giáo Hội. Bí tích sám hối cống hiến cho những người đó một khả năng mới để trở lại và lại nhận được ơn công chính hóa.

 

HƠN CẢ THA THỨ VÀ BỎ QUA

Tha thứ không có nghĩa là “bỏ qua” điều mà người khác làm cho mình. Khi một người nào làm tôi bực mình, giận dữ thì người đó phải nhận biết mình có lỗi và thực sự tỏ ra ăn năn hối hận để hàn gắn. Họ có thể đưa ra một cách hàn gắn nào đó với lòng trung thực dẫn tới hòa giải để nhận được tha thứ. Oán hận, ghét bỏ, nhất quyết không tha thứ, trả thù không phải là những tiến trình hàn gắn đau thương. Tha thứ không phải là chỉ nói “OK, bỏ qua” khi một ai đó làm mình phải đau khổ hay thiệt hại vật chất và tinh thần. Tha thứ thực sự là nhất quyết không để cho vết thương lòng của mình giấy động lên trầm trọng hơn. Nếu tôi từ chối tiến tới, tiếp tục ngụp lặn trong đau khổ và căm hờn thì tôi sẽ bị tê liệt bởi ác quỉ và tội lỗi.

Tinh thần bất tha thứ và nung nấu lòng thù hận sẽ biến tim tôi thành trai đá, ngăn chặn mọi suối nguồn yêu thương. Giá trị con người tôi sẽ bị giảm đi khi tôi không thể tha thứ cho người. Nếu thành thực tha thứ, tôi phải để cho Thiên Chúa chuyển đổi lòng trai đá và ác độc của tôi. Tha thứ cũng không có nghĩa là “quên đi”, mà là một quyết định có ý thức trong đầu tôi rồi cầu xin cho nó từ từ đi xuống tim tôi. Tha thứ cho kẻ đã giết con tôi không có nghĩa là tôi lo lắng cho hắn khỏi ngồi tù. Tha thứ cho người chồng thường xuyên hành hạ vợ con không có nghĩa là đem hắn trở lại với gia đình sau những bạo hành và bất trung. Nói phải trái với người vợ đã bỏ chồng con đi theo tình nhân không phải là bỏ qua những đau khổ ghê gớm đã từng đè nặng trên cả gia đình. Tha thứ cho một linh mục đã lạm dụng trẻ nít không có nghĩa là biện hộ bào chữa cho việc để ông ta trở lại làm mục vụ giữa những trẻ vị thành niên. Tha thứ cho một linh mục hay giám mục đã lỗi đức trong sạch, phạm tội dâm dục, có vợ có con không thể nói “họ cũng là con người mà!” Nói lẽ phải trái với một chàng trai đã bỏ người yêu sau khi làm nàng mang thai mà không chịu phá thai là khởi đầu một tha thứ và hàn gắn đau thương giữa những người liên hệ. Chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề khi phải quyết định và phán xét một cách khôn ngoan với lòng trắc ẩn về những tình trạng còn mơ hồ nhưng quan trọng có liên hệ đến chúng ta.

Thành ngữ “Hãy Tha Thứ và Quên Đi” không phải là kiểu nói kinh thánh, nhất là của người Kito hữu. Chúa Giesu thường khuyên chúng ta một cách khác là tha thứ nhưng phải nhớ kỹ trong lòng những đau thương ở quá khứ. Khi tôi nhân danh Chúa Giesu Kito và với quyền lực cùng sự hiện diện của Người, tôi thực sự có thể giúp những người đã bị đau khổ quá nhiều và khởi đầu một tiến trình chữa lành. Thật chẳng có gì mà con người không thể làm được cho tha nhân, không có gì mà con người –với sự giúp đỡ và ân sủng của chúa Giesu- không thể tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến mình.

 

SỰ THA THỨ CỦA SẮC DÂN AMISH

Nhưng thế nào là tha thứ? Xin nêu lên một thảm cảnh đã xẩy ra trong cộng đồng người Amish[1] ở Hoa Kỳ mấy năm trước đây để chúng ta cùng bàn luận và tìm hiểu ý nghĩa của tha thứ. Thảm trạng giết người đã xẩy ra tai trường học West Nickel Mines của cộng đồng Amish thuộc quận Lancaster bang Pennsylvania hôm 2-11-2006. Charles Roberts IV sau khi đã thả 15 nam sinh và 4 người lớn trước khí trói rồi bắn chết 10 nữ sinh, đoạn tự sát.

Vào ngày xẩy ra thảm nạn, ông của một nữ sinh nạn nhân bị giết đã yêu cầu những gia đình các nạn nhân không nên ghét bỏ tên sát nhân. Ông nói “Chúng ta đừng nghĩ người này là ác quỉ.” Một người cha khác của nạn nhân cũng nói: “Anh ta còn mẹ già, vợ và linh hồn, bây giờ anh ta đang đứng trước mặt Thiên Chúa.”

Một người hàng xóm Amish sau tai nạn mấy tiếng đồng hồ đã đến an ủi gia đình Roberts và biểu lộ lòng tha thứ. Các thành viên của cộng đồng Amish cũng đến thăm và an ủi người vợ góa của tên sát nhân, cha mẹ anh ta và cha mẹ vợ. Khoảng 30 thành viên của cộng đồng Amish đã dự đám tang của tên sát nhân, và vợ anh ta Marie Roberts, người góa phụ cũng được mời dự đám tang của một trong những nạn nhân. Marie Roberts đã viết một bức thư ngỏ xin cộng đồng thương sót và tha thứ. Bà viết: “Lòng yêu thương của quí vị đối với gia đình chúng tôi đã giúp hàn gắn vết thương lòng của chúng tôi mà chúng tôi rất cần. Quà tặng của quí vị cho chúng tôi đã làm chúng tôi cảm động vô cùng, không lời nói bút mực nào có thể diển tả đủ được. Lòng yêu thương trắc ẩn cảm thông của quí vị đã vượt quá cả gia đình chúng tôi, cả cộng đồng của chúng ta, và làm thay đổi cả thế giới. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí vị”.

 

HÒA GIẢI THỰC SỰ VÀ HY VỌNG

Nhiều người đã công kích việc tha thứ hoàn toàn và mau lẹ như vậy của cộng đồng Amish; họ cho là không thích hợp bởi vì phía được tha thứ không nói lên nỗi niềm hối hận và, cái nguy hiểm của thái độ đó là sẽ đưa tới việc chối bỏ sự hiện hữu của ác quỉ và tội lỗi. Những người nghiên cứu cuộc sống của dân Amish nhận thấy câu nói “Đừng bao giờ ôm giữ hận thù ở trong lòng” đã trở thành châm ngôn ăn rễ xâu trong nền văn hóa của dân Amish. Họ lý luận rằng việc người Amish sẵn sàng quên đi không báo thù sẽ chẳng giải quyết được thảm trạng hay tha thứ cho kẻ lầm lỗi mà ít ra nó đã tạo được bước tiến đầu tiên đi tới hòa giải thực sự và một tương lai đầy hy vọng.

Cách tha thứ và hòa giải của dân Amish đã được truyền thông báo chí thế giới bàn luận rất rộng rãi. Tha thứ đã được ăn sâu vào nếp sống của họ như những sợi chỉ đan chen chặt chẽ với nhau trong một tấm vải là niềm tin của dân Amish. Sự nhất quyết tha thứ của họ đã làm lung lay cả thế giới như một cuộc tự vận kinh khủng chưa từng thấy. Tôi có cảm tưởng là sức mạnh chuyển đổi tha thứ này như một sự cứu chuộc phát ra từ cuộc thảm sát ghê gớm ấy ở Nickel Mines vào năm 2006.

 Sự tha thứ của người Amish cũng đặt ra nhiều vấn nại lớn cho chúng ta. Ta có thể tha thứ cho một tên sát nhân mắc bệnh tâm trí, nhưng còn những kẻ bình thường cố ý giết người hoặc đe dọa giết người hay làm tổn thương cả vật chất, tinh thần và thể xác với mục đích chính trị hay trả thù cá nhân thì sao? Sự tha thứ đó có phù hợp với công lý và công bằng không? Một tha thứ quá lẹ như vậy có thực sự biến đổi được tình liên đới giữa con người với nhau không hay lại tạo ra một rối loạn dân sự trong dân chúng? Hoàn cảnh xã hội tôn giáo hiện nay ở Việt Nam cũng đặt ra nhiều câu hỏi khá gai góc cho chúng ta là người công giáo, đặc biệt những vị lãnh đạo tôn giáo. Chỉ lấy vài thí dụ điển hình. Chính quyền cs VN cướp đất của dân, cướp cơ sở tôn giáo, đánh dân và đập phá ảnh tượng Đức Mẹ, giật xập Thánh Giá Chúa nhưng những đấng bậc làm thầy không lên tiếng phản đối, nói rằng tha thứ cho họ! Tha thứ thì đúng rồi, nhưng có giải quyết được vấn đề không? Kẻ được tha thứ có tỏ ra hối hận và đền bù đúng mức vì việc làm của mình không hay lại phạm đi phạm lại nhiều lần những tội cũ như chúng ta đã thấy. Thiết nghĩ việc tha thứ đó chỉ có ở trần gian nhưng trên trời Thiên Chúa chắc không tha, bởi lẽ người tha thứ ở trần gian không thi hành việc giữ chìa khóa thiên đàng của một Phero chính danh, không phải là người canh giữ nhà Chúa thực sự!

 

CANH GIỮ NHÀ CHÚA

Bài đọc 1 sách Ezekiel (Ed 33:7-9) nói về “người canh giữ nhà Israel” (33:7). Danh từ “Người Canh Giữ” ám chỉ người sẽ loan báo ơn cứu chuộc (Ed 33-48); cùng một danh xưng đó lại ám chỉ mục vụ của Ezekiel là loan báo sự giam phạt (Ed 3:17-21). Thánh Gioan Phaolo II cũng dùng danh xưng “người canh giữ” trong kỳ đại hội giới trẻ thế giới năm 2000 ở Roma và năm 2002 ở Toronto. Ngài nói:

Các con là ánh sáng trần gian…” Đối với những người mới được nghe Chúa Giesu lần đầu tiên, như chúng ta, biểu hiệu “Ánh Sáng” nói lên lòng ao ước sự thật và khao khát hiểu biết trọn vẹn đã ăn sâu và in ấn trong tâm khảm con người.

Khi ánh sáng phai mờ hoặc tan biến mất, chúng ta không còn nhìn sự vật thực sự của nó nữa. Trong đêm tối chúng ta cảm thấy sợ hãi và bất an và, chúng ta mong cho ánh sáng bình minh mau xuất hiện. Các bạn trẻ thân mến, tùy các con là những người mong chờ buổi ban mai (cf Is 21:11-12), những người loan báo sự xuất hiện của mặt trời là đức Giesu Kito phục sinh!

Trong suốt những ngày đại hội giới trẻ thế giới, các bạn trẻ đã được ủy thác làm người canh giữ bình minh, mang ánh sáng Chúa Kito và loan báo hy vọng với ơn cứu chuộc cho toàn thế giới đang ngụp lặn trong đêm tối và thất vọng. Không một trường học nào về hòa giải, tha thứ và an bình tốt hơn là những ngày giới trẻ thế giới. Nó đã đúc giới trẻ thành khuôn mẫu của những yếu tố tạo thành đời sống Kito giáo và những công dân thực sự của vương quốc Thiên Chúa.

 

Fleming Island, Florida

August 2, 2020



[1] Amish là một sắc dân nguyên gốc từ Đức hiện ở Hoa Kỳ, sống thành cộng đồng ở một số tiểu bang,nhưng vẫn giữ phong tục cổ từ hồi xưa, không chấp nhận văn  minh cơ khí hiện đại, không dùng đèn điện, không đi xe hơi, chỉ di chuyển bằng xe ngựa, ăn mặc vẫn theo lối cổ rất kín đáo, nghĩa là không sống theo kiểuvăn minh hiện đại. Họ có một văn hóa sống  riêng biệt và đặc thù.

Tác giả:  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!