CHÚA NHẬT 25-A THƯỜNG NIÊN
Is 55:6-9; Pl
1:20c-24, 27a; Mt 20:1-16
Bác
sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Đọc câu chuyện Phúc Âm hôm
nay (Mt 20:1-16), với con mắt người thường, chúng ta cảm thấy khó chịu, có cái
gì như bất nhẫn vì tư cách của ông chủ vườn nho đối với thợ. Nhưng với con mắt
đức tin của người Kitô hữu và sự khôn ngoan của Chúa, chúng ta phải nghĩ thế
nào?
Ý
NIỆM MỚI VỀ TƯỚC VỊ VÀ SỰ TƯỞNG THƯỞNG
Qua câu chuyện ngụ ngôn,
Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự thật thâm kín bên trong được diễn tả bằng
những hình ảnh đơn giản nhưng lại kích động mạnh tâm trí chúng ta. Trong cựu
ước, dùng ngụ ngôn để diễn tả những câu chuyện xẩy ra thường nhật là một phương
pháp giáo huấn phổ quát về luân lý đạo đức cần được áp dụng trong đời sống. Đa
số khán thính giả khi nghe những câu chuyện như vậy thì tự mình rút ra kết luận
cho mình. Trái lại vào thời các thánh tông đồ, các thánh sử đã diễn nghĩa những
câu chuyện của Chúa Giêsu thường là theo cách gián tiếp, nghĩa bóng; nhưng người
nghe lại hiểu theo nghĩa đen nên đôi khi không bắt được ý khôn ngoan mà Chúa
muốn nói.
Qua câu chuyện ông chủ vườn
nho trả tiền công thợ (Mt 20:1-16), chúa Giêsu đã nêu ra một tư tưởng mới để sửa đổi ý niệm sai lầm cũ về
tước vị và sự tưởng thưởng. Câu chuyện phản ảnh bối cảnh kinh tế
xã hội ở Palestine vào thời chúa Giêsu. Câu chuyện có vẻ bất nhẫn và xem ra
thiếu công bằng đối với chúng ta.
Để bắt nắm được ý nghĩa thực của câu chuyện ngụ ngôn, chúng ta cần theo dõi
sự liên tục của các biến cố xẩy ra từ đầu đến cuối câu chuyện. Ông chủ vườn nho
mướn một số thợ lúc 6:00 giờ sáng với giá 1 đồng là tiền công cả ngày. Như vậy chúng ta đã biết là
tiền công một ngày là 1 đồng, và những thợ được mướn ở những giờ khác sau đó
cũng được trả 1 đòng là do lòng quảng đại của ông chủ. Phải chăng ông chủ đã
động lòng thương, băn khoăn nỗi niềm trắc ẩn đối với những người thất nghiệp và
gia đình họ, không phải vì nhu cầu cần thợ của ông? Suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ có
câu kết luận chính xác.
Những người thợ được mướn đầu
tiên lúc 6:00giờ sáng đã được trả công hợp lý và đúng lẽ công bằng theo như
giao kèo mà cả hai bên đã chấp nhận. Sự than phiền về việc ông chủ trả lương
cho những người thợ được mướn sau cùng vào buổi chiều bằng những người được
mướn từ sáng sớm xem ra không cần thiết, bởi vì ông chủ có toàn quyền cho những
người được mướn sau cùng thêm tiền vì ông quảng đại, hay có thể vì ông tội
nghiệp họ phải đứng chờ đợi suốt ngày nóng bức để mong có người thuê đi làm. Có
người biện hộ cho ông chủ bằng cách cho rằng việc làm ở những giờ cuối ngày cũng
cực nhọc bằng cả ngày như những người thợ khác. Có người lại hoàn toàn dựa vào
lý, cắt nghĩa là mướn thế nào thì trả như vậy, giao kèo là giao kèo. Do đó
những người thợ được thuê từ sáng sớm không có lý do gì để than phiền về tiền
lương của mình. Nhưng về phương diện cả lý lẫn tình thì phần nào sự than phiền
của họ nghe cũng xuôi tai. Tuy nhiên, câu chuyện phúc âm này không có ý nhắm vào
vấn đề quản trị lao động, tính đạo đức và công bằng, mà muốn nói về bản tính
nguyên thủy của Thiên Chúa là sự quảng
đại, lòng thương yêu trắc ẩn bao la và sự quyết định của Thiên Chúa về Nước
Trời.
KỂ
Ở CUỐI ĐƯỢC ĐƯA LÊN TRÊN, KẺ Ở TRÊN BỊ ĐƯA XUỐNG CHÓT
Câu chuyện cũng được diễn tả
trong Phúc âm Mathew 19: 30 “nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và
nhiều kẻ đứng chót sẽ được đưa lên hàng đầu”. Tương tự như ở đoạn 20:8-9,
những người thợ được mướn sau cùng không phải bị trả lương ít hơn mà lại được
trả bằng những người được thuê từ sáng sớm vì sự cố gắng chờ mong của họ. Câu
chuyện đã đưa chúng ta tới đỉnh chót của vấn đề ở câu 15 với câu hỏi “Chẳng
lẽ tôi lại không có quyền tự định đoạt về những gì là của tôi hay sao? Hay vì
thấy tôi tốt bụng mà bạn sinh lòng ghen tức hay sao? Vì vậy ông chủ vườn
nho có quyển trả lương cho thợ không phải chỉ dựa vào công trình của thợ mà còn
dựa vào lòng trắc ẩn thương yêu của ông chủ đối với thợ nữa.
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA BAO LA, LÒNG CHÚA QUẢNG ĐẠI VÔ BIÊN
.
Tại sao ông chủ tốt bụng, có
lòng quảng đại lại bị kết án là bất công? Bởi vì lòng quảng đại của Chúa vô
biên, tình yêu của Chúa phi thường. Đây là tư tưởng đã được nói đến trong Cựu
Ước về Thiên Chúa là đấng sáng tạo, tốt lành và quảng đại với tất cả những ai
biết trở về với Người. Đó là Thiên Chúa mà chúa Giêsu tin yêu và cùng sống.
Nhưng trong con người Chúa Giêsu, niềm thương yêu trắc ẩn, lòng nhân hậu và sự
tốt lành có tính Thiên Chúa ấy đã vượt quá sự công bằng của loài người. Do đó
những ai theo chúa Giêsu để làm môn đệ, làm
bạn với Người thì phải noi gương bắt chước lòng trắc ẩn phi thường và
quảng đại vô biên ấy của Thiên Chúa không nên thắc mắc, đặt vấn đề, từ chối hay
tị hiềm gì cả.
Thiên Chúa là Cha của Đức
Giêsu Kitô đã biểu lộ đặc tính của Người cho chúng ta trong bài đọc 1 hôm nay
qua tiên tri Isaiah: “Vì ý nghĩ của ta không phải là ý nghĩ của ngươi –Thiên
Chúa phán- cũng như cách thức của ta không phải là cách thức của các ngươi. Vì
trời thì cao hơn đất, cho nên cách thức ta làm cao hơn cách của các ngươi cũng
như tư tưởng của ta cao hơn tư tưởng của các ngươi” (Isaiah 55:8-9)
TỪ
“CHỨC VỊ” KHÔNG CÓ TRONG NGÔN NGỮ NƯỚC TRỜI
Có lẽ nhiều người trong
chúng ta đã có nhận xét sai lầm như những người thợ được thuê từ sáng sớm (c.12).
Đã có lần chúng ta thấy những ông chủ kỳ quái, lại quá quảng đại, cứ thưởng
công cho những người thợ lười biếng, có vấn đề hơn là để ý đến những người thợ
trung thành, đáng tin cẩn làm việc cực nhọc suốt ngày đêm. Chúng ta trách móc
ông chủ bất công? Chúng ta có tự hỏi Chúa đã bất công thế nào? Chúa đã để
ý đến những người thợ trung thành nhất của Chúa thế nào? Trong câu chuyện ngụ
ngôn này hẳn phải có rất nhiều vấn đề mà chúng ta có thể thắc mắc với Chúa. Vào
thời tôn giáo sơ khai, người ta tin rằng loài người có thể thắc mắc với cả thần thánh để đòi hỏi những điều mà
người ta mong ước.
Đã bao nhiêu lần chúng ta
làm như vậy với Giáo Hội chúng ta? Một số người có lẽ đã lẩm bẩm than rằng họ
làm việc rất bền bỉ, không biết mệt với những công việc đáng tin cậy thì phải
xứng đáng được trả công lớn, chức vị cao ngay lập tức, đồng thời phải có đặc
quyền đặc lợi và nêu danh uy tín. Trong những lúc như vậy, đáng lẽ chúng ta nên
khiêm nhường nhận biết rằng chúng ta cũng như những người thợ làm việc giờ thứ
11. Không một ai trong chúng ta xứng đáng với ân phúc mà Thiên Chúa đã sửa soạn
cho chúng ta. Lẩm bẩm và nhìn sang bên cạnh so bì với những người khác thì
thường đưa đến những xúc phạm nghiêm trọng khó có thể bỏ qua được dễ dàng. Tất
cả những việc lành ta làm không cần phải khai báo với Chúa, ngay cả khi chúng ta
chu toàn tất cả mọi việc mà chúng ta buộc phải làm. Chúng ta cũng chẳng có
quyền gì để đòi hỏi Thiên Chúa tôn vinh
khen thưởng một cách đặc biệt như chúng ta là những nhân vật cần được
khen thưởng vì nhu cầu sự nghiệp của Chúa. Nên nhớ danh từ “chức vị” không
có trong ngôn ngữ của Nước Trời.
Phương thuốc duy nhất để
chữa trị những suy nghĩ tình cảm như vậy là ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu đầy
lòng khoan dung nhân hậu để nhận ra sự quảng đại vô bờ bến của Ngài. Lý luận
của con người thì có hạn nhưng lòng khoan dung và ân sủng của Chúa thì vô biên.
Thiên Chúa hành động không theo những tiêu chuẩn loài người của chúng ta. Điều
đó có nghĩa là chúng ta phải nhận ra Chúa và chấp nhận Người ở chính nơi những
người ở chung quanh ta, những người anh em huynh đệ của chúng ta như Chúa mong
muốn. Khi Chúa chọn một người nào để ban ân sủng cho, chúc phúc cho, tặng cho
phẩm vật gì thì Chúa cũng không từ chối bất cứ ai khác mà không ban ơn phúc, ân
sủng cho họ. Ơn phúc và ân sủng của Chúa thì vô biên, mỗi người chúng ta đều được
can dự và chia phần trong đó. Chúa chọn một người nào hay một dân tộc nào thì
đó không phải là cái cớ để hãnh diện vì được chọn hay buồn phiền than trách vì
bị từ chối không được chọn. Chỉ khi nào cả hai phía đều tỏ ra khiêm tốn, đơn sơ
và cùng nhau nhận biết ra Chúa là tình yêu và khoan dung nơi việc làm trong đời
sống của mình, thì lúc đó họ mới bắt đầu “ngộ” ra được ý nghĩa đích thực của
tình yêu và công bằng, và sau cùng mới đi tới hòa giải và hiểu biết nhau một
cách chân thật và sâu đậm.
ĐÔI
ĐIỀU SUY TƯ
Trong Tân Ước, chúa Giêsu
dạy chúng ta đừng ghen tương hận thù, vì ghen tương sẽ dẫn chúng ta đến những
bất tất như trong câu chuyện ngụ ngôn bài Phúc Âm hôm nay. Những người lẩm bẩm
than trách ông chủ thì được ông chủ trả lời: “Bạn ơi, Tôi đâu có ăn gian bớt
xén tiền lương của bạn đâu…Phải chăng bạn ganh tị vì tôi quảng đại hay
sao?”(Mt.20:13-15).
Hãy
để ý đến hai câu Giáo lý Công Giáo sau đây: #2552-2553
-2552: Điều răn thứ 10
cấm tham lam thái quá, sinh ra ham mê của cải và danh vọng quá độ.
-2553: Ghen tị là cảm
thấy buồn phiền vì phúc lộc của tha nhân và ước ao một cách vô độ để chiếm lấy
cho mình. Ghen tị là một tính xấu chủ chốt.
Ghen tị chính là tật xấu
khiến con người không thể nhận ra được vẻ đẹp và tính đặc thù của tha nhân,
đồng thời còn chối bỏ niềm vinh hạnh của mình. Để tới gần Chúa là đấng hoàn
toàn nhất mực nhân từ, đầy vẻ đẹp và lòng quảng đại, thái độ xấu này cần phải
được giệt trừ tận căn gốc ngay từ trong thâm tâm sâu thẳm. Ghen tị khiến con
người không còn khả năng nhìn ra sự việc, mắt bị mây mù che phủ lấp kín. Ghen
tị và tham lam là hai tội phạm vào giới răn thứ 10 của Chúa. Vậy thì chúng ta
có thể làm gì để vượt thoát khỏi sự mù lòa và lòng trai đá đó? Hãy suy nghĩ để
tự tìm ra câu trả lời.
BÁC
ÁI TRONG SỰ THẬT
Nhờ ánh sáng chiếu soi của
đoạn phúc âm hôm nay, chúng ta thử coi lại Tông thư Bác Ái trong Sự Thật
của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, đoạn #63 nói về Phát Triển con người toàn diện
trong Bác Ái và Sự Thật:
63- Nếu để ý đến những bất ổn
liên quan đến phát triển thì không thể không thấy có sự liên hệ rõ nét và trực
tiếp giữa nghèo đói và nạn thất nghiệp. Trong nhiều trường hợp, nạn nghèo đói
là do ở sự vi phạm nhân phẩm trong việc làm, hoặc bởi vì cơ hội kiếm công ăn
việc làm bị giới hạn (vì nạn thất nghiệp hoặc việc làm thiếu) hoặc “bởi vì tiền
công thấp so với việc làm và những quyền lợi từ công việc làm, đặc biệt là
quyền có lương bổng một cách công bằng cũng như quyền lợi về an toàn của công
nhân và gia đình họ”. Vì lý do này mà ngày 1 tháng 5 năm 2000 dịp lễ đại xá công
nhân, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Gioan Phaolo II đã đưa ra lời kêu gọi “liên
kết toàn thể thế giới để có ‘việc làm thích hợp’”, hỗ trợ cho kế hoạch
của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế. Theo thể thức này, ngài đã đưa ra một đòi hỏi
luân lý rất mạnh mẽ cho chủ đích này, như một khát vọng của tất cả mọi gia đình
ở mỗi quốc gia trên khắp thế giới.
Thế nào là công ăn việc làm “thích
hợp” ? Nghĩa là việc làm phải nói lên được cái nhân phẩm căn bản
của con người, nam cũng như nữ, trong khung cảnh xã hôi đặc biệt của họ: Việc
làm phải được tự do chọn lựa, phối hợp một cách hiệu quả các công nhân, nam
cũng như nữ, với sự phát triển cộng đồng của họ; việc làm phải khả dĩ
giúp cho công nhân được tôn trọng và không bị kỳ thị vì bất cứ lý do gì; việc
làm phải là khả dĩ cho cả gia đình hầu đạt được nhu cầu của họ, giúp con em họ
đến trường học mà không buộc chúng phải lao động; việc làm phải cho phép công
nhân được tự do tổ chức nghiệp đoàn và tiếng nói của họ phải được lắng nghe;
việc làm phải để chừa chỗ cho công nhân tìm thấy lại nguồn gốc của mình ở tầng
mức cá nhân, gia đình và tinh thiêng liêng; việc làm là phải bảo đảm cho những
người về hưu có được mức sống căn bản thích hợp.
Fleming
Island, Florida
Sept 19, 2020
NTC