Lm. Jos. Đồng Đăng
Đời chủng sinh vô cùng ý vị
Tựa viết chì trong tay họa sĩ Giêsu.
Xin mở đầu bài viết về đời chủng sinh
bằng câu chuyện cây bút chì của văn hào Brazil:
Paulo Coelho.
“Có một cậu bé kia đang xem người bà yêu
quý của mình viết thư. Khi bà ngừng tay, cậu bé hỏi: ‘Bà ơi, có
phải bà đang viết về những gì chúng ta đã làm không? Có phải là câu
chuyện về cuộc đời cháu không?’
Âu yếm nhìn cháu, bà đáp: ‘Quả thực bà
đang viết về cháu, nhưng điều quan trọng hơn những dòng chữ bà đang
viết đây chính là cây bút chì mà bà đang cầm ở tay. Bà mong rằng
cháu sẽ trở nên giống như cây bút chì này khi cháu lớn lên’.
Vì tò mò, cậu bé nhìn chằm chằm vào cây
bút chì và thắc mắc: “Bà ơi! Cây bút chì này có gì đặc biệt đâu.
Cháu thấy nó vẫn giống mọi cây bút chì khác mà”.
Bà cụ đáp: “Nó tuỳ thuộc vào cách cháu
nhìn nhận sự việc. Thật ra, nó có năm đặc tính mà cháu cần lưu tâm.
Và nếu cháu cũng như vậy cháu sẽ là người hạnh phúc trong đời”.
Thứ nhất, cây bút chì luôn vâng nghe sự điều khiển của người hoạ sĩ.
Thứ hai, cây bút chì cần được mài dũa thì mới có thể sắc bén
được. Thứ ba, cây bút chì luôn sẵn sàng cho người hoạ sĩ tẩy xoá khi
nó gây ra những nét vẽ nguệch ngoạc hay dơ bẩn. Thứ tư, chất liệu
đáng quý của cây bút chì là thỏi than ở bên trong. Cuối cùng, bút
chì luôn để lại một dấu tích nào đó khi ta viết lên giấy”[1].
Thiết tưởng, câu chuyện cây bút chì trên
đây với những đặc tính cao quý của nó có thể trở thành đề tài cho
những ai muốn suy tư về cuộc đời. Với tôi, câu chuyện cây bút chì đã
trở nên một biểu tượng gần gũi để tôi đi tìm một lý tưởng, một ơn
gọi vốn rất huyền nhiệm so với cặp mắt lý trí của mình đó là ơn
gọi làm chủng sinh của Chúa.
1. Cây bút chì và bài học vâng phục:
Như cây bút chì có thể vẽ nên những bức
tranh tuyệt đẹp làm mê mẩn lòng người là nhờ nó được nâng niu bởi đôi
tay tài hoa của hoạ sĩ. Người chủng sinh cũng vậy, để trở nên những
mục tử như lòng Chúa mong ước trong tương lai, họ cần được sự
hướng dẫn, dạy dỗ của Chúa Giêsu mục tử ngang qua các đấng trung gian
là Giám mục giáo phận, ban đào tạo của đại chủng viện, quý cha và
cộng đoàn dân Chúa cách này hay cách khác. Chủng sinh phải luôn vâng
theo thánh ý của Chúa, luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Ngài.
Vì vậy, họ luôn ý thức con đường mình đang vươn tới là bước theo tiếng
gọi của Chúa trong sứ vụ mục tử chứ không phải là một nghề nghiệp để
rồi làm công ăn lương như những công chức xã hội. Lời đáp trả của
chủng sinh luôn chất chứa tâm tình phó thác vào Thiên Chúa quan phòng
như “Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến đất hứa. Maisen đã ra đi, vì
hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống
đất, vì hy vọng cứu nhân loại” (ĐHV 4). Chủng sinh bước theo Chúa
để được sai đi làm chứng nhân cho niềm vui của Tin Mừng, dẫu biết
rằng Tin Mừng đó được đựng trong những chiếc ‘bình sành’ dễ vỡ nhưng
đã có Chúa Giêsu là Đấng quan phòng để chiếc bình sành đó mãi vẫn
nguyên tuyền.
Vâng phục có lẽ là nhân đức dễ diễn tả
nhất nhưng để sống nó thì thật khó vô cùng. Có người nói rằng,
chính trong sự vâng phục chứ không phải độc thân, mà linh mục ngày nay
đi ngược lại trào lưu văn hoá nhất. Bởi lẽ, chúng ta đang sống trong
một thế giới mà trong đó cái tôi đang lên ngôi, đang được thần thánh
hoá. Họ biện luận rằng, chỉ có hạnh phúc thực sự khi được phép
làm bất cứ việc gì, bất cứ lúc nào, bất cứ với ai và cho ai, bất
cứ kiểu cách nào, bất chấp mọi luật lệ và những chế tài nào
khác. Họ còn cho rằng, trên thực tế, “không có quyền bính nào cao
hơn” ước muốn, nhu cầu và ý thích của mình. Người Kitô hữu nói chung
và chủng sinh nói riêng cũng bị thách thức về điều đó. Tuy nhiên, họ
sẽ dễ dàng vượt qua nếu biết neo đậu đời mình theo thánh ý Chúa và
đi trong chính lộ của Người (X. Tv 143, 10). Nếu mục đích của chủng
sinh là nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô thì sự vâng phục là con
đường dẫn tới đó. Thánh Ignatio nói: “Sự vâng phục là của lễ
toàn thiêu mà trong đó toàn thể con người, không giữ lại một chút
gì, được hiến dâng trong ngọn lửa bác ái cho Tạo hóa và Thiên
Chúa...”[2].
2. Cây bút chì và bài học vượt khó:
Thứ hai, để những đường chấm phá luôn
được sắc nét, cây bút chì cần luôn được gọt giũa bằng một dụng cụ
nào đó. Dụng cụ mài giũa đó có thể làm cho cây bút chì phải đau
nhưng rốt cuộc, nó sẽ sắc bén hơn. Người chủng sinh cũng vậy, để nên
đồng hình đồng dạng với Chúa, họ phải kinh qua muôn khó khăn: khó
khăn trong học tập và tu luyện, khó khăn trong việc từ bỏ bản thân, và
vượt qua cám dỗ của ma quỷ và thế gian.
Thật vậy, chặng đường dài của quá trình
học tập và tu luyện luôn là một thách đố đối với chủng sinh. Phần
đa trong số họ là những người đã học xong bậc trung học phổ thông,
trung cấp, cao đẳng hay đại học. Thậm chí có những giáo phận chỉ
tuyển chọn những ứng sinh có bằng cao đẳng trở lên… Quá trình đào
tạo tại tiền chủng viện và đại chủng viện kéo dài tới 9 đến 10
năm. Một số trong số họ được tuyển lựa để đi du học có thể kéo dài
tới 15 năm… Quả thực, đối với nhiều người, đó là một gánh nặng,
một điều dường như không thể, đó là chưa kể những người cho rằng,
chọn lựa đó là một hành động điên rồ. Thế mà ta vẫn thấy bao thế
hệ linh mục, tu sĩ vẫn đề huề, lớp lớp đàn em vẫn cứ hớn hở theo
sau. Họ sẵn sàng vượt khó vì sự thúc bách của Tin Mừng như Thánh
Phaolô: “Tình yêu Đức Kitô thúc
bách tôi” (2 Cr 5,14). Dù chặng đường dài của quá trình tu
luyện có lúc đối với họ thực là gánh nặng nhưng lại trở nên ‘gánh
nặng dễ thương’. Họ được nhào nặn để trở nên những ‘khí cụ’ của
Chúa, tựa như người thợ gốm làm ra cái nồi đất. Dù rằng, nồi đất
nấu mất nhiều thời gian hơn nhiều so với các nồi cơm điện, các máy
siêu tốc, nhưng cơm nồi đất thì luôn đánh bại nồi cơm điện. Chủng sinh
được được đào luyện trong trường đại chủng viện tựa như các thực
phẩm cá, thịt… được nấu, được hầm, được thêm gia vị, để thật chín,
hàng giờ, rồi mới lấy ra ăn. Và thực phẩm từ nồi đất luôn đánh bại
cái món từ lò vi ba, siêu tốc. Chủng sinh luôn cần biết kiên nhẫn và
vững tâm theo khuôn mẫu đích thực là Chúa Kitô, Đấng đã kiên nhẫn
trong mái nhà Nazaret suốt ba mươi năm để chuẩn bị cho ba năm rao giảng.
Nếu biết được như vậy, thời gian chủng viện quả là một ân ban.
Trong đời tu, người chủng sinh luôn phải
vượt qua những chướng ngại của xác thịt, thế gian và ma quỷ để thực
hiện ba lời khuyên của Phúc Âm là khó nghèo, khiết tịnh và vâng
phục. Khó nghèo làm sao khi thế giới đang đề cao chủ nghĩa hưởng thụ
cá nhân? Khiết tịnh làm sao khi “tình trạng thực tại gia đình đang
bị thoái hoá, ý nghĩa đích thực của tính dục con người bị lu mờ
hoặc bóp méo”[3]?
Vâng phục thế nào khi “chủ nghĩa chủ thể của ngôi vị vẫn được
bảo vệ một cách khốc liệt, chủ nghĩa này có khuynh hướng vây kín
ngôi vị trong cá nhân chủ nghĩa”? [4]
Chưa hết, đau khổ còn đến bởi sức mạnh
hung hãn của Satan. Do những mưu thâm chước độc của thần dữ, người
chủng sinh dễ rơi vào những chiến thuật đầy gian manh của chúng,
chẳng hạn, khi một chủng sinh đang quyết liệt diệt trừ tội lỗi và
đang tiến lên mãi trên đường phụng sự Chúa, thì ma quỷ lại “gây
cắn rứt, làm buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoan,
lo lắng với những lý lẽ giả tạo để người ta khỏi tiến tới”[5].
Có khi người chủng sinh đang miệt mài theo
Chúa nhưng phía trước họ lại là một áng mây u ám, điều mà các thánh
thường gọi là ‘đêm tối đức tin’ – cuộc thử thách xảy ra trong chính
nội tâm mình. Họ như kẻ tin bỗng rơi vào tình trạng hoài nghi, những
giây phút mà tất cả những gì mình tin tưởng vững vàng lung lay như
muốn sụp đổ, mất điểm tựa và nhìn đâu cũng chỉ còn là vực sâu hun
hút của hư vô. Chỉ một trường hợp sau cũng đủ cho chúng ta thấy điều
đó: Thánh nữ Têrêsa ở Lisieux, một vị thánh thật dễ thương và xem ra
hết sức hồn nhiên như không hề có trở ngại gì trong đời sống đức
tin. Một cuộc đời từ thuở thiếu thời đã được tắm gội trong niềm tin
Kitô giáo; đức tin thấm nhuần đến từng giây phút cuộc sống. Thế giới
thiêng liêng như là một phần của đời thường, thân thiết đến độ khó có
thể dứt ra được. Niềm tin tôn giáo đối với chị là điều rất tự nhiên
của cuộc sống hằng ngày, cũng giống như mối liên hệ với những thực
tại thân quen khác, tưởng chừng không khó khăn nào có thể lay chuyển
niềm tin sắt son ấy. Nào ngờ, chị đã để lại những dòng tâm sự làm
chấn động lòng tín hữu khi viết:
“Tâm trí con cứ bị
ám ảnh bởi những ý tưởng mà có lẽ chỉ những kẻ duy vật tồi tệ
nhất mới nghĩ tới. Bao nhiêu lý luận chống lại đức tin dồn dập tấn
công tâm trí, cảm thức đức tin như tiêu tan, chết điếng, và có cảm
giác mình hoá thành thân tội lỗi”[6].
Người tín hữu hôm nay nói chung và chủng
sinh linh mục nói riêng có khi cũng phải đối mặt với thách đố như
vậy. Nhiều lúc hành trình theo Chúa như phủ đầy mây đen, tương lai
phía trước như một chân trời xa xăm, diệu vợi khiến cho bản thân ra
chán nản, thất vọng hay thậm chí có ý tưởng thoái lui.
Tất cả những thách đố trên như những ‘viên
đá làm cho vấp’ mà người chủng sinh phải băng mình lên để vượt qua,
hầu chiếm đoạt được Đức Giêsu Kitô là nguồn của chân lý. Như vậy, đau
khổ và thử thách luôn xuất hiện như là một phần làm nên sự hoàn bị
của chủng sinh, nếu biết “bỏ neo” cuộc đời vào Chúa, họ sẽ vượt qua
dễ dàng. Và mỗi khi đã vượt qua những cơn thử thách ấy, Chúa lại
ban cho họ một niềm vui chan chứa, quả đúng như lời Thánh Vịnh đã
cất lên:
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”
(Tv 126, 5-6).
3. Cây bút chì và bài học từ bỏ:
Thứ đến, cây bút chì luôn luôn chấp nhận để người họa sĩ
dùng cục tẩy mà xoá đi những chỗ nguệch ngoạc, nhem nhuốc trong tác
phẩm của mình. Cũng vậy, sự uốn nắn, sửa lỗi cho các chủng sinh nhiều
lúc không phải là điều gì tệ hại nhưng đơn giản là để giúp đỡ họ
đi đúng hướng trên hành trình ơn gọi. Quả thực, hành trình tu luyện
chẳng phải đơn giản chút nào. Các chủng sinh luôn phải khổ luyện,
phải từ bỏ đến ‘trầy vi tróc vảy’ mới có thể nên đồng
hình đồng dạng với Thầy chí thánh của mình. Đường tu trì không gì
khác là quá trình thao luyện liên tục, tựa như các tay đua trên thao
trường phải kiêng cự đủ điều mới mong chiếm được phần thưởng. Bỏ
thế gian với những quyến luyến của nó có khi còn dễ nhưng bỏ mình
thì quả thực chẳng dễ chút nào. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính
mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (ĐHV 3).
4. Cây bút chì và bài học dấn thân “là”
linh mục của Chúa:
Ngoài ra, chúng ta còn thấy chất liệu
đáng nói nơi cây bút chì không phải là lớp vỏ bọc bên ngoài nhưng là
lõi chì bên trong. Thế giới đang mãi nhắm mắt chạy theo cái ‘có’ (to
have) hơn cái ‘là’ (to be), còn chủng sinh linh mục thì nhất quyết
phải chọn cái là trước mới chọn cái làm, cái có. Nghĩa là, trước
khi làm linh mục, chủng sinh phải “là” linh mục, bởi lẽ làm linh mục
không chỉ đơn thuần là dâng lễ, cử hành các bí tích như một cái máy
rồi sau đó nhốt mình trong một ốc đảo cô tịch của cái tôi của linh
mục, nhưng là để đi ra, để đến với đoàn chiên. Đức Thánh Cha Phanxicô
trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng đã nói những câu thật sâu sắc: “Tôi
thà có một Giáo hội bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi
ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám
víu vào sự an toàn của mình”[7].
Trên hết, linh mục phải mang trong mình đức ái mục tử của Chúa Kitô
để yêu thương người nghèo để sống cùng, sống với và sống vì đoàn
chiên: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga
10,10). Và trên hết, chủng sinh phải là người cảm nhận sâu sắc mầu
nhiệm khổ nạn và vượt qua của Chúa Kitô để trở nên chứng nhân hy
vọng của Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Bởi vậy, những thử thách
trong quá trình đào luyện bản thân, những đau khổ của bản thân hay
những cơ hội mục kích những người đau khổ bằng việc đi thăm những
người ốm đau bệnh tật… như là cơ hội để chủng sinh “đụng chạm” vào
“vết thương” của Chúa Giêsu. Một lần nữa, lời của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô lại trở nên như tiếng chuông cảnh tỉnh con người thời đại hôm
nay:
“Đôi khi chúng ta
bị cám dỗ trở thành kiểu Kitô hữu đứng xa để nhìn các vết thương
của Chúa. Nhưng Đức Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự khốn cùng của
con người, chạm vào da thịt đau khổ của người khác. Ngài hy vọng
chúng ta ngưng tìm kiếm những cái tháp ngà của cá nhân hay cộng đồng
để che chở chúng ta khỏi vòng xoáy những nỗi bất hạnh của con
người; trái lại, Ngài muốn chúng ta đi vào thực tế đời sống của
những người khác và biết được sức mạnh của sự dịu dàng”[8].
Vậy, để làm được như
thế, chủng sinh không còn con đường nào khác là rập đời mình theo
Đức Kitô trong từng giây phút của cuộc sống, bởi lẽ “Tu
phục không làm nên thầy tu” nhưng là chính những trang sức của tâm
hồn, của sự liên hệ cá vị với Đức Kitô. Về điều này, Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XVI đã nêu rõ: “Điều quan trọng nhất trên hành trình tiến
tới thiên chức linh mục và trong suốt cuộc sống linh mục, đó là mối tương quan
cá nhân với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô”[9].
Vì thế, mục đích của đời tu không phải là tấm áo choàng linh mục,
là chiếc lúp đội đầu hay một chức vụ nào khác trong Giáo hội nhưng
là để “chiếm đoạt Đức Kitô và để được Đức Kitô chiếm đoạt”
(X. Pl 3,12 ). Nếu chủng sinh mà đặt mục đích của mình vào những thứ
vô hồn kia thì đời tu chỉ là một tiếng thở dài liên lỉ. Tóm lại,
việc trở thành linh mục là dịp để dấn thân, phục vụ chứ không phải là cơ hội
để tiến thân. Mục đích tối hậu của đời người nói chung và người
chủng sinh nói riêng chính là được kết hợp với Thiên Chúa, trong Đức
Giêsu Kitô, là Đầu và Mục Tử.
Kết Luận
Hình ảnh người chủng sinh trong tay họa sĩ
Giêsu quả là một hình ảnh rất đẹp, nó không chỉ đẹp dưới lăng kính
của đời tu mà còn cho mọi người ở mọi bậc sống. Hành trình để trở
nên thành toàn của người Kitô hữu nói chúng và của chủng sinh linh
mục nói riêng luôn luôn là hành trình của vâng phục đức tin, hành
trình của thử thách, của sự từ bỏ để làm nên cái “ta là”. Quả
vậy, mỗi con người là một hữu thể đang trở thành (becoming being),
chủng sinh cũng tựa như một tác phẩm chưa thành toàn (unfinished work)
trong tay Chúa. Con người chỉ thực sự hoàn bị khi vươn tới tầm vóc
viên mãn trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Cánh đồng truyền giáo đang mở ra mênh mông
bát ngát trước mắt chúng ta. Hơn lúc nào hết, Giáo hội đang cần
những môn đệ hăng hái cống hiến thời gian và sức lực để phục vụ Tin
mừng, cần có những người trẻ biết để cho tình yêu của Thiên Chúa
đốt nóng tâm hồn họ và họ sẽ quảng đại đáp lại lời mời gọi của
Người. Tuy nhiên, điều tối quan trọng là họ phải biết rằng mình chỉ
là đầy tớ vô dụng, muốn trở nên hình ảnh và dụng cụ của tình yêu
thì cần chạy đến và kín múc nguồn mạch tình yêu và sự sống tuôn trào từ
cạnh sườn Đức Giêsu Kitô (x. Ga 19,34).
[1] Paulo Coelho, Like the Flowing
River, (London: Harper Collins Publishers, 2006), tr. 10 -11.
[2] Timothy M.Dolan, Linh mục cho
ngàn năm thứ ba, bản dịch của Linh mục Trần Đình Quảng, NXB Tôn
Giáo, Hà Nội, 2009, tr. 112.
[3] Pastores Dobo Vobis, s. 7.
[4] Ibid. s. 7.
[5] Timothy M.Gallagher, O.M.V, Phân
định thần loại trong cuộc sống hàng ngày theo thánh Ignatio, Giang Trung
Kiên và các bạn chuyển ngữ, Tủ sách linh đạo Thánh Phanxicô, 2011, tr.
25.
[6] Joshep Ratzinger, Đức Tin Kitô
hôm qua và hôm nay, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội, 2009, tr. 41.
[7] Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn
Niềm vui của Tin Mừng, bản dịch của Uỷ Ban Loan Báo Tin
Mừng/HĐGMVN, Roma, 24/11/2013, s. 49.
[8] Ibid. s. 270.
[9] Giáo Hoàng Benedicto XVI, Thư
gởi các chủng sinh, Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ, (Vatican:
18/10/2010), s. 1.