Giuse Phan Quang Trí, O.Carm.
Rôma, 16/01//2021.
Nhân ngày lễ Chúa
Giêsu Chịu Phép Rửa vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành một tự sắc mới
mang tên Spiritus Domini (Thần Trí của Đức Chúa) để thay đổi điều khoản
số 230 trong Bộ Giáo Luật hiện hành. Theo đó kể từ nay, trong Hội Thánh, không
chỉ có nam giới mà cả những người nữ hội đủ các điều kiện cần thiết đều có thể
lãnh nhận tác vụ đọc sách và giúp lễ. Đây không hẳn là một “bước đột phá” trong
quản trị mục vụ của Đức Phanxicô như một số người từng nhận xét, vì thực ra kể
từ Công Đồng Vaticanô II, giáo huấn chính thức của các vị Giáo Hoàng đều xác nhận
và đề cao vai trò của giáo dân nói chung và phụ nữ nói riêng trong các sinh hoạt
chung của cộng đồng dân Chúa. Đó là chưa kể lịch sử còn cho thấy ơn gọi tông đồ
giáo dân vốn đã xuất hiện và góp phần đáng kể vào sự phát triển lớn mạnh của Hội
Thánh ngay từ buổi sơ khai (x. Cv 11, 19-21; 18, 26; Rm 16, 1-16; Ph
4, 3). Ngày nay, không chỉ trên phương diện
lý thuyết mà trong thực hành cũng thế, hình ảnh người nữ giáo dân tham dự tích
cực vào các cử hành phụng vụ qua thừa tác vụ đọc sách, trao Mình Thánh Chúa và
phục vụ bàn thánh vốn là khá quen thuộc đối với rất nhiều người trong chúng ta.
Vậy thì đâu là ý nghĩa thực sự của việc ban hành Tự Sắc ngày 11 tháng Giêng vừa
qua? Và chúng ta nên đón nhận biến cố này như thế nào?
Ơn
Canh Tân của Thần Khí Sáng Tạo
Thấm đượm tinh thần canh tân của Công Đồng Vaticanô II, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã và đang nỗ lực cổ võ cho một Giáo Hội hiệp thông trong đức
tin, đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và kiên tâm làm chứng cho
lòng thương xót của Chúa nơi trần gian. Qua Tự Sắc Spiritus Domini, vị
cha chung của Giáo Hội hoàn vũ tái xác nhận vai trò không thể thay thế của thừa
tác vụ giáo dân và tha thiết kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hợp tác với nhau cách
tích cực hơn trong sứ vụ dấn thân loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.
“Ơn gọi làm Kitô Hữu thực chất cũng chính là ơn gọi làm tông
đồ”, sắc lệnh về tông đồ giáo dân Apostolicam Actuositatem đã quả
quyết như vậy (AA, #2). Nhờ hiệu quả của bí tích Thanh Tẩy, người Kitô Hữu được thông
dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô (LG, #31). Do đó
cho dù có khác nhau về bậc sống và ơn gọi, mọi tín hữu đều có chung một
bổn phận đó là làm sao để hết mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận
Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa (x. AA, #2). Sứ mạng truyền giáo là sứ mạng chung và là
trách nhiệm trước hết mà mỗi phần tử Hội Thánh cần phải dốc tâm thi hành. Đang
khi đó, không phải tất cả giáo dân đều được chuẩn bị thích đáng để có thể gánh
vác nhiệm vụ cao cả này. Dưới ánh sáng Lời Chúa của Phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật
II mùa Thường Niên, chúng ta khám phá ra ý nghĩa cao quý của ơn Thiên Chúa kêu
gọi mỗi người chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học biết được những bí quyết
quan trọng giúp cho việc thi hành sứ mạng truyền giáo của chúng ta trở nên hiệu
quả hơn.
“Đến
mà xem”: Lời mời gọi của Chúa.
Là một trong hai môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi,
Thánh Gioan Tông Đồ thuật lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu liên quan
đến cuộc gặp gỡ định mệnh xảy ra ngày hôm ấy (x. Ga 1, 36-42). Gioan đâu đã
quên lời đầu tiên Chúa nói với ông và người bạn đồng môn tên là Andrê: “Này, các
anh tìm gì?” Chúa muốn các ông xác định rõ điều các ông muốn và công khai bày tỏ
động cơ tiềm ẩn đàng sau hành vi của các ông. Tin Mừng nói rõ là cả hai ông, chứ
không chỉ có Gioan, đáp lại: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38) Câu nói này
cho thấy các ông không đi theo Chúa chỉ vì tò mò nhưng vì các ông khao khát tìm
hiểu về Chiên Thiên Chúa, về Đấng xóa tội trần gian. Chúa không những đáp ứng
nguyện vọng của các ông mà còn đẩy các ông đến chỗ phải đưa ra quyết định, một
quyết định vô cùng quyết liệt: “Đến mà xem” (Ga 1, 39). Để nhận biết Chúa
Giêsu, chúng ta không thể hài lòng với việc “nghe kể lại” hay “nghe tường thuật”
về Ngài mà thôi, nhưng phải dứt khoát chọn lựa, đến hay không đến
với Chúa.
“Đến mà xem” là lời mời, là lời ngỏ dành cho những ai có ý định
theo Chúa. Chúa Giêsu không hề tỏ ý thúc ép bất cứ ai phải theo Ngài. Nhưng đối
với Chúa, tất cả rất rõ ràng: Một là theo hai là không. Đã chấp nhận theo Chúa
thì phải “đến với” Chúa. Không có cái gọi là “môn đệ từ xa”. Môn đệ của Đức
Kitô là những người khát khao được ở gần Ngài; gần trong thâm
tâm, trong tư tưởng, trong chí hướng, trong lời nói và nhất là trong hành động.
“Đến mà xem” do đó là lời mời gọi mà cũng có thể được coi là tiêu chuẩn đánh giá
thiện chí của người môn đệ. Gioan và Andrê không những theo Chúa về đến tận nơi
Ngài ở mà còn “ở lại với Ngài ngày hôm ấy” (Ga 1, 39). Hành động “ở lại” dường như
diễn tả một điều gì khác còn sâu xa hơn. Phải chăng đó là mối tương quan thắm
thiết tình nghĩa thầy trò, mối tương quan đậm nét “thuộc về”. Danh xưng “Kitô Hữu”
là một thí dụ điển hình về mối tương quan nhiệm mầu này, vì trong Phép Rửa Tội,
chúng ta được Chúa Thánh Thần biến đổi cho trở nên những phần tử “thuộc về Đức
Kitô” (1 Cr 3, 23) hay nói rộng hơn là chúng ta thuộc về Thiên Chúa (x. 1 Ga 3,
24).
Chúa Giêsu không chỉ mời Gioan và Andrê đến cho biết
nơi người cư ngụ nhưng còn khuyến khích các ông mở to mắt ra mà xem. Phải
chăng Chúa đang bày tỏ cho những kẻ đi theo Ngài và cho cả chúng ta thấy rằng
ơn gọi Kitô Hữu là một ơn gọi đầy truân chuyên vì một khi đã chấp nhận “xem
xét” thì buộc lòng phải “đón nhận” sự thật được phơi bày. “Xem xét” trên một
phương diện nào đó liên quan đến việc vận dụng khả năng “quan sát”, “học hỏi”
và thậm chí còn hàm ý cả yêu cầu “chất vấn cảnh tỉnh” bản thân. Do đó những người
thực sự hưởng ứng lời mời gọi “đến mà xem” của Chúa phải là những người rất can
đảm và hành vi của họ minh chứng cho một đức tin vững vàng và một tình mến sắt
son.
“Đến
mà xem”: Một lựa chọn can đảm.
Đến với Chúa là động thái và là kết quả của tình mến. Có lẽ
chính kinh nghiệm này đã thôi thúc thánh Phaolô Tông Đồ tận tình khuyên nhủ các
tín hữu Côrintô sống sao cho xứng đáng với vị thế là “thân thể của Đức Kitô” và
là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” (x. 1 Cor 6, 15 &19). Chúa Thánh Thần chứ
không phải ai khác chính là nguyên lý cho sự hiệp nhất giữa Thân Thể và Đầu, giữa
Hội Thánh và Đức Kitô, Đấng ấy ở trong chúng ta. Do đó, tương quan giữa Đức
Kitô và môn đệ của Ngài nhất định còn cao siêu hơn tương quan thầy trò thông
thường. “Ở lại trong Thầy” chính là cách sống của những người ý thức mình là
người nhà của Thiên Chúa, là anh chị em con cùng một Cha trên trời. Ơn gọi môn
đệ không thể chỉ dừng lại trên danh nghĩa mà thực sự là một dấu ấn sâu đậm làm
nên căn tính của một con người. Môn đệ chân chính là người khao khát và sẵn
sàng từ bỏ tất cả chỉ để được “ở lại” trong Thầy Giêsu. Lời mời gọi “đến mà
xem” không chỉ dành cho bậc tu trì thánh hiến, mà còn là lời kêu gọi dành cho tất
cả những ai khao khát nên thánh, khao khát hạnh phúc đích thực.
Câu truyện Cựu Ước kể về việc Đức Chúa gọi cậu bé Samuel trong
đền thờ là một trong những trình thuật giàu cảm xúc nhất trong Kinh Thánh.
Thiên Chúa có trăm phương nghìn cách để kêu gọi chúng ta, lúc thì kín đáo khi
thì rõ ràng (x. 1 Sam 3, 3-10;19). Tuy
được diễm phúc trải qua kinh nghiệm về “Lời Thiên Chúa” nhưng cậu Samuel vẫn cần
phải học cách đáp trả tiếng Chúa kêu gọi. “Lạy Chúa con đây, xin hãy phán vì
tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1 Sam 3, 9). Trình diện vì Chúa gọi; “Vâng con
đây”, đó là việc làm đúng đắn nhưng chưa đủ. Thầy Êli nhận ra khuyết điểm ấy
nơi cậu bé Samuel nên ông chỉ cho cậu biết cách đáp lại tiếng Chúa. “Xin hãy
phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”, đây là cách đáp trả hoàn toàn chủ động.
Ẩn chứa bên trong câu nói này là cả một thái độ thức tỉnh, một tư thế sẵn sàng đón
nhận và thi hành điều Chúa muốn. “Này con đây, con xin đến để thi hành Thánh ý
Chúa” (x. Tv 39, 8-9).
Cả hai trình thuật Chúa gọi Samuen và Chúa kêu gọi các môn đệ
đầu tiên đều cho thấy Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng tự do của con người. Thiên
Chúa ngỏ lời và chờ đợi chúng ta đáp lại. Phần thưởng dành cho những ai biết dùng
hai tiếng “xin vâng” để đáp lại tiếng Chúa kêu mời sẽ là một hành trình “vượt
lên chính mình” vô cùng ngoạn ngục. Một hành trình ghi dấu sự tác động của ơn
Chúa và sự hợp tác tích cực của con người. Thánh vịnh 119 chỉ ra cho chúng ta
thấy kết cục của những người biết sẵn lòng lắng tai nghe tiếng Chúa và những
người mến chuộng đường lối của Ngài: “Thánh ý Chúa làm con vui sướng thỏa thuê,
chỉ bảo con như những người cố vấn. Lạy Chúa, kẻ yêu luật Ngài hưởng an bình
thư thái” (x. Tv 119, 24 & 165). Ngoài ra, những ai đã trải qua kinh nghiệm
gặp gỡ “đến mà xem” sẽ được ơn Chúa biến đổi để trở nên tông đồ cho các tông đồ
như trường hợp Andrê, ông đã loan báo và “dẫn em mình đến gặp” Đấng Messia (x.
Ga 1, 41-42).
“Đến
mà xem” – Một bí quyết thành công.
Lời mời gọi “đến mà xem” có thể được hiểu như một chuẩn mực để
đánh giá thái độ chân thành và nghiêm túc của những người theo đi Chúa. Bên cạnh
đó, đây cũng là bí quyết mà Chúa Giêsu đã mặc khải ra nhằm hướng dẫn cho chúng
ta cách đạt đến cùng đích của đời mình, những người được Chúa trao cho sứ vụ
xây dựng Nước Trời.
Khi trình bày về sứ mạng tông đồ giáo dân, sắc lệnh Apostolicam
Actuositatem đề cập đến “nền tảng thần học” và “đường hướng thực hành” trước
khi nói đến nhiều khía cạnh khác. Điều này cho thấy đây là hai khía cạnh cơ bản
nhất anh chị em giáo dân chúng ta cần phải lưu tâm. Dù xét trên phương diện thần
học hay phương diện mục vụ thì sứ mạng tông đồ giáo dân đều phải được lý giải
nhờ vào một nền tảng duy nhất đó là Đức Giêsu Kitô, cội nguồn mọi ơn gọi và sứ
mạng. Do đó trong các yếu tố quyết định sự thành bại của việc loan báo Tin Mừng
nhất định phải nhắc đến mối tương quan thông hiệp giữa các Kitô hữu và Đức
Kitô.
Giáo dân có bổn phận
và quyền làm tông đồ là do chính việc kết hợp với Đức Kitô là Ðầu. Họ được
chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, qua phép Thanh Tẩy Ngài sát nhập họ vào
Nhiệm Thể của Ngài, qua phép Thêm Sức Ngài làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền
năng của Chúa Thánh Thần và thánh hiến họ vào chức vụ tư tế vương giả và dân tộc
thánh thiện (x. 1 Pt 2, 2-10). Thêm vào đó, nhờ các bí tích nhất là bí tích
Thánh Thể Ngài chuyển thông và nuôi dưỡng
đức ái vào trong tâm hồn những người này (x. AA, #3). Vì Đức Kitô là nguồn mạch nguyên thủy của mọi hoạt động
tông đồ trong lòng Giáo Hội, nên hiển nhiên là kết quả phong phú của tông đồ giáo
dân tùy thuộc ở sự kết hiệp sống động của chính họ với Đức Kitô, Ðấng đã tuyên
bố rằng: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy thì mới sinh được nhiều hoa
trái” (x. Ga 15, 5). Ðời sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô trong Giáo Hội được
nuôi dưỡng bằng nhiều phương thế thiêng liêng khác nhau nhưng trên hết là bằng
việc tham dự tích cực vào Phụng Vụ thánh (x. AA, #4).
Một lần nữa, chúng
ta được khuyên gắn kết đời mình với Đức Kitô qua việc nuôi dưỡng và cũng cố
tình liên đới hiệp thông trong Hội Thánh và tích cực tham dự vào các bí tích.
Chỉ như thế chúng ta mới đủ sức “Ad gentes – đến với muôn dân” và
khi đến với họ chúng ta mới có cái để chúng ta chia sẻ với họ. Phải chăng đây chính
là thao thức nền tảng mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn chuyển tải đến chúng ta
khi ngài ban hành Tự Sắc Spiritus Domini vào đúng ngày lễ Chúa Giêsu Chịu
Phép Rửa vừa qua. Bí quyết ở lại trong Chúa (đến) và để cho ơn Chúa biến
đổi đời mình (mà xem) là hành trang quý báu giúp chúng ta đi trọn hành
trình tông đồ và hoàn tất việc loan báo Tin Mừng trong thành công mỹ mãn.
Cuối cùng, chúng ta không quên
dõi theo gương mẫu tuyệt hảo của đời sống tông đồ, Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương
các Tông Ðồ (Regina Apostolorum). Khi còn ở trần gian, Mẹ đã sống cuộc đời
như mọi người, cũng vất vả lo toan cho gia đình nhưng Mẹ đã luôn luôn theo sát
dấu chân và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Con của Mẹ. Giờ đây, sau khi đã về
trời, “với tình mẫu tử bao la, Mẹ tiếp tục chăm sóc cho đàn em đông đúc của Con
Mẹ, đang trên đường lữ thứ trần gian nhiều gian truân, Mẹ lo lắng cho tới khi họ
đạt tới quê trời vĩnh phúc” (x. LG, #62). Chúng ta hết thảy tôn sùng trái
tim Mẹ và phó dâng sứ mạng tông đồ của chúng ta cho Mẹ coi sóc (x.
AA, #4).
Nữ Vương các
thánh Tông Đồ, xin cầu cho chúng con.