Chúng
ta thường nghe nói “Đoàn kết Lương- Giáo”, nhưng khi hỏi xuất xứ cũng như ý
nghĩa của hai chữ “Lương- Giáo” thì rất ít người hiểu thấu đáo.
Theo
sách Khâm định Việt sử, thì từ năm Nguyên Hòa nguyên niên đời vua Trang Tông
nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên Chúa
ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và ở làng
Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy[1].
Năm
Nhâm Thìn (1712) đời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương bắt những người theo đạo
Công giáo phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ “học Hoa Lan đạo”. Tại sao gọi
đạo Công giáo là đạo Hoa Lan? Hoa Lan là tên quốc gia Hòa Lan/ Hà Lan (Hollande/ Netherlands)được phiên âm sang âm
Hán Việt. Người Hòa Lan sang buôn bán ở Đàng Ngoài trước hết cả cho nên mới gọi
là đạo Hòa Lan. Vả lúc bấy giờ người dân nước ta không phân biệt được những nước
nào, hễ thấy người phương Tây đều gọi là người Hòa Lan.
Sau đó
không gọi đạo Hoa Lan mà gọi là đạo Da tô (Chữ “Da” trong Da tô, viết chữ Hán
thuộc bộ “Nhĩ” đọc là “Da” chứ không phải “Gia”). Da tô là phiên âm tên Jésus-
Đấng sáng lập ra đạo Thiên Chúa- sang âm Hán Việt, cho nên gọi đạo Da tô là vậy.
Nước ta trước khi có các giáo sĩ sang truyền đạo Da tô thì “tự xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ cúng ông cha làm trọng, lấy
sự tế tự thần thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng tế làm một việc rất
quan trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên Chúa, bỏ cả các thói
cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc,
vua chúa đều cho đạo ấy là một tà đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước
nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và
đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ dụ ấy”[2]
Dân theo đạo Da tô được gọi là ‘tả đạo” hoặc
“dửu dân”.
Triều
đình nhà Nguyễn gọi những tín đồ đạo Da tô là “tả đạo” hoặc “dửu dân”.
Sách Hán văn tân giáo khoa thư lớp đồng ấu do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi soạn,
Nha Học chính Đông Pháp xuất bản năm 1930 , cuối trang 12 giải thích “Tả đạo”: “nghĩa là đạo trái. Ta quen gọi đạo Da tô
là “tả đạo”. Hán văn tân giáo khoa thư lớp sơ đẳng, trang 33, tác giả giải
thích “tả đạo”: “nghĩa là đạo trái, người
ta quen gọi đạo Thiên Chúa”.
Dửu dân
có nghĩa là dân xấu. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích nghĩa chữ
“dửu”: cỏ vực, hay mọc trong ruộng lúa làm hại lúa, cho nên cái gì ác hại gọi
là dửu. Tục dân tốt gọi là lương, tục
dân xấu gọi là dửu. Người xưa có câu:
“ Lương dửu bất tề” (Người tốt và người xấu không như nhau).
Dân
theo đạo Da tô được triều đình gọi là dửu
dân, dân không theo đạo Da tô được gọi là lương dân: “Xưa những việc chẳng
ngay chẳng thảo/ Đổ Da tô, vu Tả đạo với Dửu dân”[3]
Tháng 6
năm Tân Dậu (1861) triều đình nhắc nhở việc phân sáp người theo đạo Da tô: “ …phàm những dân đạo trai gái già trẻ,
không cứ đã bỏ đạo hay chưa, đều thích chữ vào mặt, chia ghép đến ở vào xã thôn
không có đạo, mà phải quản thúc cho nghiêm. Những tên đầu mục hung ác vẫn
nghiêm giam như cũ. Nếu người Tây dương đến nơi, thì đem bọn dân đạo ấy giết
cho hết” [4].
Linh mục
Gioakim Đặng Đức Tuấn(1806-1874) kể lại việc thích chữ vào mặt : “Giáo dân lớn nhỏ bắt bừa/ Bắt ra thích tự
chẳng chừa gái trai/ Tội chi nào biết hỏi ai/ Xẻ mày, xẻ mặt chịu chai, chịu lỳ”[5]
Thích
chữ gì vào mặt người theo đạo Da tô: Tả
đạo hay Tà đạo? Trong một tấm ảnh
xưa, hai chữ được thích trên má trái những người theo đạo Da tô là hai chữ “Tà Đạo”.(chữ “Tà” viết chữ Hán gồm:
bên trái chữ “Nha”; bên phải là bộ “Ấp”)
Tháng
6 năm Nhâm Tuất (1862): “lại tha tội cho
những dân xấu chưa bỏ đạo ở các hạt, lấy cớ là hòa nghị đã xong nên bỏ lệ cấm
đó”[6]. Linh mục Đặng Đức Tuấn nhắc đến sự kiện bãi bỏ lệnh bắt đạo: “Mười bảy tháng sáu chỉ ra/ Nam tráng đầu mục
thảy tha phản hồi”[7].
Tuy đã
bãi bỏ lệnh bắt đạo, nhưng người theo đạo Da tô vẫn còn bị gọi là tả đạo hoặc dửu dân. Tháng 12 năm Mậu Thìn (dương lịch đã sang năm 1869): “Giám mục Đông (nguyên ở Hà Nội giảng đạo),
Giám mục Hậu, Giám mục Bình[8] đệ đơn
đến bộ Lễ đổi 4 chữ “tả đạo”, “dửu dân”.
Bộ Lễ cho là triều đình thương dân như một, vốn không có phân biệt phàm kính
làm sổ sách, hoặc khi có giấy tờ, cho đổi viết là dân đạo, dùng để cho nhớ mà
thôi. Vua y cho” [9].
Dân đạo
gọi là “Giáo dân”, dân lương gọi là “Bình dân”
Tháng
10 năm Giáp Tuất (1874) “Chuẩn cho dân đi
đạo đổi gọi là giáo dân, dân đi
lương đổi gọi là bình dân. (Từ trước
đến nay dân theo đạo, hoặc gọi là dửu dân, hoặc gọi là tả đạo, từ khi bỏ cấm, bỏ
các chữ dửu, chữ tả chỉ gọi đơn giản bằng chữ đạo. Gần đây cứ lời Khâm sứ đóng ở
Kinh nói rằng: lương, đạo đều gọi, chưa khỏi sỉ nhục giáo ấy. Đã chuẩn cho quan
ở nha Thương bạc đem nghĩa hai chữ ấy trả lời, nói: Lương là an thường thủ phận,
không làm gian ác; Đạo là khuyên người làm lành, không làm bất chính. Hai chữ đối
nhau, văn nghĩa giống nhau, lại tốt xấu gì, đạo gọi là đạo mà lương không gọi
là lương thì gọi là gì? Rồi sứ ấy đã biết chữ lương không để bỏ được, lại yêu cầu
phàm những người theo giáo ấy gọi là nghĩa dân, đức dân, quan ở nha Thương bạc
cho là sứ ấy đã nói nhiều như thế, xin gọi là giáo dân. Vua y cho, nhân chuẩn
cho dân lương cũng đổi gọi là bình dân)”[10].
Như vậy
kể từ tháng 10 năm Giáp Tuất (1874) những người dân Việt theo đạo Da tô (Công
giáo) được gọi là “Giáo dân”. Ngoài từ “Giáo dân” còn có thể gọi là: Đạo dân;
Dân đạo; Dân giáo. Mặc dù có lệnh như vậy, nhưng những người chống đạo Da tô vẫn
dùng từ “tả đạo”. Trong “Sát Tả, Bình Tây Quảng Nam tỉnh văn thân hịch” có những
đoạn ghi: “Ghét tả đạo tìm mưu trợ Kiệt”;
“Vả tả đạo cưu nhờ tổ thước, ơn chưa đền chấu lại chống xe”; “Bằng cho tả đạo
trưởng dân, ắt thập ác lại treo cửa Khổng!”[11]. Trong bài hát giặm, sáng
tác sau năm 1885, nói về cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh được phổ biến lưu truyền rộng
rãi trong dân chúng vùng Nghệ Tĩnh; “Lương
dân và Tả đạo/ Đường buôn bán thông hành/ Vô hà sự tương tranh”; “Bên giáo với
lương dân/ Giai quốc gia xích tử/ Giai triều đình xích tử”[12]
Năm
1885 phong trào Sát Tả Bình Tây nổi lên cả “đạo dân” (giáo dân) lẫn “bình dân”
(lương dân) đều bị tàn phá: “ Đạo dân đã
hết cửa nhà/ Bình dân nay đã cháy ra tro tàn”[13].
Thuật
ngữ “ Đạo dân/ Giáo dân/” để chỉ người Công giáo; “ Lương dân/ Bình dân” để chỉ
người không Công giáo đều không chuẩn. Bởi vì ở Việt Nam không chỉ có đạo Công
giáo mà còn có đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo…Do đó khi nói “đạo dân”, “giáo dân”
thì phải nói đạo nào, giáo nào. Hơn nữa “ lương dân” là dân tốt, “ bình dân” là
dân thường thì ở đâu cũng có. Tuy nhiên thuật ngữ chỉ là một quy ước về ngôn ngữ.
Theo một quy ước bất thành văn nào đó, người ta vẫn gọi người theo đạo Công
giáo và không Công giáo bằng hai từ “ Giáo- Lương”.
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Diên
Khánh- Khánh Hòa
Chú thích:
[1]- Làng Ninh Cường nay thuộc xã Trực Phú, huyện
Trực Ninh, tỉnh Nam Định; Làng Quần Anh nay thuộc xã Hải Minh, huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định; Làng Trà Lũ nay thuộc xã Giao An, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
[2]- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.367
[4][6][9]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục,
tr.725; 780; 1149
[3][5][7][11][12][13]- Lam Giang&Võ Ngọc
Nhã, Đặng Đức Tuấn tinh hoa Công giáo ái
quốc Việt Nam, (In lần thứ nhất)Tác
giả tự xuất bản,1970 tr. 503; 99; 162; 419-424; 450; 537
[8]- Giám mục Đông tên là Pierre Jean Marie
Gendreau. Vào thời điểm năm 1869, Giám mục Đông mới là Linh mục mà thôi. Linh mục
Gendreau Đông được tấn phong Giám mục vào ngày 16.10.1887, coi sóc Giáo phận
Tây Đàng Ngoài (Giáo phận Hà Nội); Giám
mục Hậu tên là Jean Denis Gautier coi sóc Giáo phận Nam Đàng Ngoài ( Giáo phận
Vinh); Giám mục Bình tên là Joseph Hyacinthe Sohier coi sóc Giáo phận Bắc Đàng
Trong (Giáo phận Huế).
[10]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 8, Nxb Giáo dục,
tr.75