(Lc 5,1-11)
Việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng theo thánh Luca mang một
màu sắc rất riêng. Trong khi Máccô và Mátthêu nhấn mạnh đến tính tức thời của
việc đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu trong một bản trình thuật ngắn gọn gồm
năm câu thì Luca chèn lời kêu gọi này trong một đoạn văn bao gồm một lời giảng dạy
của Chúa Giêsu và một mẻ cá kỳ diệu.
Trong khi Anrê biến mất khỏi hiện trường, nhân vật của Simon-Phêrô đã có
được một vị trí quan trọng. Chúa Giêsu xuống thuyền và Simon thú nhận với ngài
về tình trạng tội lỗi của mình. Trong các câu chuyện song song, thánh sử
Matthêu (Mt 4,18-22) và Marcô (Mc 1,16-20) không ghi nhận lời nào của các môn đệ
và cử chỉ duy nhất của họ là thả lưới.
1. Con thuyền của Lời Ngài
“Một hôm, Chúa Giêsu đang đứng ở bờ hồ Giêdarét, dân chúng
chen lấn nhau đến gần Ngài để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền
đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.
Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền
đó của ông Simon, và Ngài xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi
xuống, và từ trên thuyền Ngài giảng dạy đám đông.” (Luca 5,1-3)
Điều có thể làm chúng ta ngạc nhiên ngay lập tức là mối liên hệ, thậm
chí là sự đồng nhất, giữa Chúa Giêsu và Lời
của Thiên Chúa. Sự háo hức của đám đông không phải do những dấu hiệu và điều
kỳ diệu Chúa Giêsu đã làm trước đó mà là do lời của Thiên Chúa đến từ Chúa
Giêsu. Chúng ta đã đoán được điều đó: Cái ông quê ở Nadarét là người của ngày hôm nay (4,14-21), và sự ứng
nghiệm của Lời thần linh này là Tin mừng
cho một thời kỳ ân sủng.
Trong đoạn văn này, con thuyền
được làm nổi rõ: từ con thuyền được lặp
lại ba lần. Việc chọn con thuyền của Simon nhắc nhở chúng ta rằng ông không phải
là người chúng ta không biết đến kể từ khi mẹ vợ của ông được chữa lành “Chúa
Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông
Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Ngài chữa bà. Chúa Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt,
và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài” (Luca 4,38).
Trong Phúc âm Luca, Chúa Giêsu là Đấng đến để can dự vào cuộc sống của những
người tin Chúa. Chúng ta sẽ gặp lại Ngài trong dịp gặp gỡ Giakêu, là người mà Ngài
mong muốn ở lại nhà ông “Khi Chúa Giêsu tới
chỗ ấy, thì Ngài nhìn lên và nói với ông: "Này ông Giakêu, xuống mau đi,
vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Luca 19.5). Chúa Giêsu thường là người
ở lại nhà của người này và người kia, để thúc đẩy họ trở nên tốt lành hơn. Và
đó thực sự là một sự thay thổi, một sự hoán cải mà Simon sẽ được kêu gọi, trong
một chiếc thuyền, một chiếc thuyền của cuộc sống hàng ngày, đòi hỏi sự gần gũi
của Chúa Giêsu.
2. Hãy ra khơi
“Giảng xong, Ngài bảo ông Simon:
"Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simon đáp: "Thưa
Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy,
tôi sẽ thả lưới." Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu
như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.
Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.”
(Luca 5:4-7)
Hai chiếc thuyền đã vào bờ, và họ đang thu dọn lưới của họ trong vô vọng.
Chuyến đánh cá đã kết thúc. Nhưng không có cá. Rất nhiều công sức mà vẫn công
toi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu yêu cầu họ sửa chữa. Chỉ vậy thôi. Hơn thế nữa, là một
người nhà quê không biết gì về nghề đi biển, thế mà Ngài lại yêu cầu họ, với một
sự mơ hồ nhất định, ra khơi xa hơn vào ban ngày, vốn dĩ là lúc cá lặn xuống tìm
chỗ mát mẻ nghỉ ngơi, để đánh bắt ở một nơi còn sâu hơn…
Đáng ngạc nhiên, Simon- Phêrô chấp nhận. Ở đây một lần nữa lời của Chúa
Giêsu là trọng tâm của câu chuyện. Đó là lời của Ngài, một lời ân sủng, đầy
điên rồ và vô lý trong mắt loài người, một lời của Chúa, mà Simon, một người
đánh cá chuyên nghiệp lại để Người Khác dẫn dắt mình lên thuyền, và để cho bản
thân mình được dẫn dắt.
Nếu việc đánh cá của Simon và những người bạn chài đồng nghiệp của ông
thất bại, bất chấp bí quyết của họ, thì việc đánh cá của Chúa Giêsu là thừa
thãi và vô lý, và Lời của Ngài cũng vậy. Lời Cứu Độ của Ngài không chỉ cho phép
có rất nhiều cá ở trong lưới, mà nó còn buộc cả hai con thuyền phải tập hợp lại.
Chúa Giêsu đã khiến những người đánh cá trong biển hồ này từ “biết làm nghề cho
mình” chuyển thành các sứ đồ tương lai “làm cho người ta biết”, tức là biết nhận
ra dấu chỉ và biết làm chứng tá.
3. Câu chuyện về cuộc đánh cá này lặp lại sách tiên
tri Êdêkiel:
Êdêkiel 47, 9 “Sông chảy đến đâu
thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy
tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống. Sẽ có
nhiều ngư phủ sinh sốngở trên bờ. Từ Ên Gheđi cho tới Ên Éclagim sẽ toàn là bãi
phơi lưới. Cá ở đây cũng nhiều và đủ loại như cá ở Biển Lớn.”
Tại hồ Giênêdarét, đây là những người đánh cá trên bờ, những tấm lưới để
phơi khô, và vô số cá này. Mẻ cá kỳ diệu phản ánh sự phong phú được mong đợi
nhưng cũng là cuộc phán xét, như phản ứng của Simon Phêrô làm rõ.
4. Lời kêu gọi ra khơi xa.
“Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt
dưới chân Chúa Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội
lỗi! " Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người
có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và
Gioan, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo
ông Simon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." Thế
là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài.”
5. Xin hãy tránh xa tôi.
Người ta có thể mong đợi những tiếng reo vui, những bài ca ngợi sau một
điều kỳ diệu như vậy. Nhưng câu chuyện cho thấy một phản ứng đáng sợ và một bức
tranh khá u ám tương phản với một mẻ cá hào phóng. Chúng ta phải hiểu nỗi sợ
hãi lớn lao của Simon theo nghĩa kinh thánh của nó. Sự sợ hãi thể hiện cảm giác
của một người có lòng tin đang đứng trước mặt Thiên Chúa, là đấng xét xử thánh
thiêng. Phản ứng của Simon rất có ý nghĩa về việc nhận ra sự hiện diện của Thiên
Chúa mà khi đứng trước Ngài người ta cảm thấy không xứng đáng vì tội lỗi của
mình.
Như vậy, trong một câu, Simon thú nhận sự yếu đuối của mình, tình trạng
tội lỗi của mình, đồng thời, ông nhận ra nơi Chúa Giêsu sự hiện diện của chính Thiên
Chúa và của một vị thẩm phán cánh chung.
Phản ứng của Simon gần như là buồn cười. Trên chiếc thuyền nhỏ này, trên
biển hồ này, ngoài khơi xa, không lối thoát, thế mà Simon-Phêrô lại cầu xin
Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin tránh xa con.”
Trong thực tế, không cần phải tránh đi đâu cả. Nước trởi đã đến gần, Chúa Giêsu
loan báo như thế, và Nước trời chưa bao giờ ở gần Simon-Phêrô đến thế. Chúa
Giêsu tự xuống thuyền với ông, hay đúng hơn là Chúa Giêsu bắt người ngư phủ Galilê
này xuống thuyền với Ngài, để ông được ở gần Ngài hơn. Vì vậy, Chúa Giêsu gọi
ông Simon không phải vì khả năng đánh cá của ông mà vì ông Simon nhận mình là một
ngư dân khiêm hạ, đã để cho Lời của Chúa Giêsu chiếm lấy mình.
6. Hướng tới cuộc sống
Không lên án, không trấn áp Simon, Chúa Giêsu mời gọi ông đến với sứ mệnh.
Đây là những người mà ngươi phải chiếm lấy,
hoặc theo đúng nghĩa đen hơn, mà ngươi sẽ
phải đem về còn sống. Lời kêu gọi này lặp lại sách Tiên tri Giêrêmia loan
báo việc giải cứu những người dân của ông bị lưu đày và bạc đãi:
“Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã đưa
con cái Israel lên khỏi đất phương Bắc và khỏi mọi miền đất Ngài đã xua họ đến.
Quả thật, Ta sẽ cho chúng trở về đất chúng sở hữu, đất mà xưa kia Ta đã ban cho
cha ông chúng” (Gr 16, 15).
Vì ở đây, Chúa Giêsu bày tỏ chính mình như một người đem đến Ơn Cứu Độ, một
người đem tới một mẻ cá cần được chia sẻ, một người đem đến một sự sống dồi
dào. Hơn cả mẻ cá kỳ diệu, ở đây Simon là dấu chỉ chính của sứ mệnh Tin Mừng:
kêu gọi tội nhân, lôi kéo họ ra khỏi sự dữ để làm cho họ sống lại. Chúa Giêsu mở
ra cho Simon và những bạn chài của ông không phải một hồ nước đóng kín mà là một
thế giới rộng mở, nơi lời Thiên Chúa sẽ vang lên trong Người Con của Ngài. Để lại
tất cả mọi thứ ở đó, kể cả một mẻ cá dồi dào và béo bở, họ đi theo Chúa Giêsu.
Sách Tin Mừng của Luca kể về nhiều cuộc gặp gỡ cứu độ với tội nhân từ mọi
bờ biển và mọi con thuyền: một phụ nữ tội lỗi tới nhà ông Pharisêu tên là Simon,
với bình bạch ngọc đựng dầu thơm (7,36-50), hai người con trai trong dụ ngôn về
người cha nhân từ (15,11-32), Giakêu (19,1-10) , tên trộm cướp trên thập giá
(23,26-43), nhưng trước nhất là Lêvi, người thu thuế (5,27-32).
Phêrô Phạm Văn Trung
phỏng dịch từ aularge.eu/blog.