HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
(15/08)
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab;
1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
I. HỌC LỜI CHÚA
1.
TIN MỪNG : Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà
Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc
Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41)
Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng
nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng
và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con
em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng
em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có
phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với
em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47)
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48)
Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới
đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ
tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa
hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ
đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay
trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa
cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ
phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại
với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý
CHÍNH :
Bài Tin Mừng có thể
được chia thành ba phần như sau :
- PHẦN I (39-40) : Sau
khi trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế do lời thưa “xin vâng”, Đức Ma-ri-a vội
vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đã có thai được 6
tháng, như lời sứ thần cho biết. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì
đã quảng đại đáp lời mời gọi, cộng tác vào chương trình cứu độ
của Thiên Chúa.
- PHẦN II (41-46A) :
Thần Khí tác sinh và hoan lạc đã bao trùm Đức Trinh Nữ, cũng làm cho
con trẻ Gio-an đang ở trong dạ mẹ nhảy mừng, chào đón Đấng Thiên sai trong
lòng Đức Ma-ri-a. Thần Khí ấy cũng tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét
nhận biết cô em họ Ma-ri-a đây, chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai, đã
đến viếng thăm mình. Cũng chính Thần Khí ấy làm cho niềm vui của
Đức Ma-ri-a bộc phát thành bài ca “Ngợi khen” (Magnificat).
- PHẦN III (46B-56) :
Bài ca tóm lại lịch sử của dân Chúa trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Cách riêng Chúa đã làm cho Ma-ri-a những điều trọng đại,
cũng như đã từng làm trong lịch sử dân It-ra-en: Người hạ những kẻ
quyền thế kiêu căng xuống và nâng những người hèn mọn khiêm nhường
lên; ban cho kẻ nghèo khó được no đầy ơn phúc và để người giàu có
bị đuổi về tay không. Người luôn phù trì cho dân tộc Ít-ra-en, đúng
như lời Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ thương xót ông
và con cháu đến muôn đời.
3.
CHÚ THÍCH :
- C
39 : + Lên đường vội vã : Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức
Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng
gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng.
Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. +
Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa : Có lẽ
thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền
Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6
cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây
số.
- C
40-41 : + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét : Cuộc gặp gỡ giữa hai
bà mẹ thật ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị
tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên : Gio-an Tẩy
Giả bắt đầu sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên
Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng
khi ra đón rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu
Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn
Chúa Thánh Thần : Thánh Thần đã tác động khiến bà
Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà
mình.
- C 42-44 : + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và
người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc : Bà Ê-li-sa-bét ca
tụng cô em họ Ma-ri-a thực là diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi
trong lòng Ma-ri-a là Đấng được chúc phúc. + Bởi đâu tôi được
thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? : “Chúa tôi” ở đây là
danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét
đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh
xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. +
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã
nhảy lên vui sướng : Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà
bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi bản thân. Đó cũng chính là lý do khiến bà
nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C
45 : + Em thật có phúc, vì đã tin : Ma-ri-a đã tin vào
những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực
hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược
lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị
câm cho đến ngày các điều đó xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50 : +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa : Sau khi nghe bà
Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về
cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài
này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau
khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại
Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10).
Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa
bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn
và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên để bày tỏ lòng tri ân
của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đến lúc
lời hứa cứu độ của Đức Chúa đã được thực hiện.
- C
51-55 : + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh : Chúa dùng quyền năng
để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì
Người nhớ lại lòng thương xót : Cựu Ước thường ghi là “Thiên
Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi
hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca
cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của Da-ca-ri-a:
“Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56 : + Ở lại
với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng : Ở lại để phục vụ và giúp đỡ cho bà
chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước
khi sinh con, khi bà không thể lao động bình thường được. Nhưng Đức
Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà :
Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và
được chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức
Ma-ri-a đã trở về nhà tại thành Na-da-rét.
4.
CÂU HỎI : 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a phải vội vã lên đường viếng thăm bà
chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được
khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã
gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu nào ? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a
diễm phúc, trái với ông Gia-ca-ri-a là chồng bà ? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên
Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh
những tư tưởng nào ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và
nhằm mục đích gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA : Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức
Ma-ri-a rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a), và “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa
sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ Ma-ri-a
nói : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2.
LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ VÀ CÂU CHUYỆN :
1)
LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI :
+ Từ thuở ban đầu,
các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những
đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung
Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có
những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức
Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ
Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ
An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo
Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng
mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây
Phương.
Từ đó về sau nhiều
thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học
được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Vatican I, nhiều nghị phụ cũng yêu
cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc
Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh
và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được
cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời
thánh Phao-lô : “Chúng ta biết rằng : Thiên Chúa làm cho mọi sự đều
sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết
từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng
với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em
đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức
Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư yêu cầu trả lời như sau :
“Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có
xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như
một tín điều không ?” Hầu hết các
thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày
1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn
Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung ngày 15
tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã
xác quyết : “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do
cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô
một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi
làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng
hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết
thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi
bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự
chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài
được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của
mọi thời”.
2)
MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU NGƯỜI :
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas
Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ
bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên
cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy
nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý
của Giáo Hội, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân
lý ấy. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường
từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm
dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông
liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối
nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông
thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi
thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mé trái của cung thánh nhà
thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi
xuống cuối để ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét
mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn âu sầu như khi mới vào
nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt
quyết định thử làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau
này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau : “Tôi không biết
người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy
chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt
đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều
này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của
tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng
lại những gì tôi nói và hầu như tôi đã bật cười khi nhớ lại những
lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !”
Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) ĐƯỢC ƠN CHẾT LÀNH NHỜ
LÒNG CẬY TRÔNG ĐỨC MẸ :
Một hôm trong đám người
hành hương đến nhà thờ xứ Ars có một bà đeo đại tang ông chồng mới qua đời. Bà
vào trong nhà thờ và đứng như trời trồng giữa nhiều người chung quanh. Bà rất
buồn vì ông chồng đã bỏ đạo mới nhảy sông tự tử chết cách đây mấy hôm. Ông chết
khi chưa được lãnh các bí tích sau hết.
Bấy giờ cha Gio-an
Ma-ri-a Vian-ney đi tới gần ghé tai nói nhỏ với bà rằng :
- Ông xã nhà bà đã được
ơn cứu độ rồi.
Thấy vẻ ngạc nhiên của
bà, cha nói thêm lần nữa :
- Tôi cho bà biết là ông
chồng bà đã được Chúa ban ơn cứu rỗi rồi !
Thấy bà vẫn còn hoài
nghi nên cha nhấn mạnh từng tiếng :
- Tôi bảo bà rằng : Ông
nhà bà đã được Chúa ban ơn cứu rỗi và bây giờ đang ở trong chốn luyện hình.
Bà phải cầu nguyện nhiều
cho ông ta. Sở dĩ ông được ơn cứu rỗi vì ông đã có lòng yêu mến Đức Mẹ, nên
Chúa đã cho ông có thời gian ngắn để kip cầu xin Chúa tha thứ tội lỗi trước khi
chết. Bà có nhớ là trong tháng kính Đức Mẹ mới đây, bà đã cho làm một bàn thờ
kính Đức Mẹ tại phòng riêng của hai vợ chồng không ? Ông chồng bà tuy lâu ngày
không đến nhà thờ nhưng thỉnh thoảng cũng hợp ý khi bà đọc kinh trước bàn thờ
kính Đức Mẹ. Nhờ đó mà Đức Mẹ đã xin Chúa ban cho ông được ơn ăn năn sám hối
trước khi chết.
Trường hợp ông này giống
như anh trộm lành trên thập giá đã thưa với Đức
Giê-su : “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” Và
Người nói với anh : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên Đàng.” (Lc 23,42-43).
3.
SUY NIỆM :
1)
ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU : Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su : Tin Mừng Lu-ca
thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn
làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật
thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà
vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. Lc
1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê
lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà
và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn
là Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì Ma-ri-a
đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã
bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ
trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2)
KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC : Ma-ri-a đã được đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở
cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì
tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì
đã tin Lời Chúa : Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a : “Em thật
có phúc, vì đã tin rằng : Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói
với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì
cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa làm người : Nên Mẹ đã
được ví giống như Hòm Bia Giao Ước Mới của Thiên Chúa (x. Ga
1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Mẹ có
phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa: Đức Giê-su đã bổ túc lời khen
của một phụ nữ ca khen công cưu mang nuôi dưỡng Chúa của Mẹ như sau : “Đúng
hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a
là “người môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3)
ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH :
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt
Đức Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an là đại diện của
Hội Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin
Mừng Gio-an thuật lại : “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu
Người, chị của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà
Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên
cạnh, Đức Giê-su nói với mẹ rằng : “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi
Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ
rước Bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ
của Hội Thánh vì là mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của
Hội Thánh là thân thể Người, trong Hội Thánh đó có các tín hữu
chúng ta, như thánh Phao-lô dạy : “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn
thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn
của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người
cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
+ Đức Ma-ri-a nêu gương
các nhân đức cho các tín hữu học tập như sau :
Nêu gương tin cậy
mến qua việc lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn
xin vâng (x. Lc 1,30-36);
Nêu gương bác ái
khi chủ động đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui ơn
cứu độ, và cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng” trong dạ mẹ vì được khỏi tội
tổ tông truyền. Đức bác ái nơi Mẹ còn thể hiện qua việc sẵn sàng ở lại
ba tháng để phục vụ bà Ê-li-sa-bét cho tới khi bà sinh con, rồi mới
trở về nhà (x. Lc 1,39-56).
Mẹ cũng nêu gương cầu
nguyện tín thác khi cầu xin Đức Giê-su giúp đôi tân hôn và để Người
toàn quyền quyết định phải làm gì, làm khi nào và làm thế nào. Dù chưa tới
“Giờ” hành động, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên, là biến nước
lã thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn theo lời cầu bầu của Mẹ (x. Ga
2,1-11).
4)
ĐỨC MA-RI-A HỒN XÁC LÊN TRỜI :
Ngoài dựa trên Thánh
Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn
Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức Giê-su Đấng
Cứu Độ như sau :
+ “Dòng giống
người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15) : Câu này có ba cách
hiểu : Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên
dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ
đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ
Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là
“Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy Mươi tiếng Hy Lạp), hiểu
về Đức Giê-su là Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân
sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28) : Đầy ơn phúc
và luôn có Chúa là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không
phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai
và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31) : Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng
Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại
Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là
E-và Mới : Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng
phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với
Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào
sự phục sinh vinh quang với Người. Đức Giê-su là A-đam Mới đã qua đau khổ
thập giá để phục sinh và lên trời, thì tiếp theo là Đức Ma-ri-a là E-và Mới
cũng được Thiên Chúa triệu hồi về trời hồn xác.
5) ĐỂ
CÙNG MẸ ĐI THEO CHÚA LÊN TRỜI :
+ Việc Hội Thánh
tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy các tín hữu chúng ta
ý thức rằng : “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi đó chúng ta
sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên
chúng ta chỉ được lên trời nếu biết tin yêu Chúa, phải bỏ ý riêng và tội
lỗi của mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa noi gương Mẹ xưa.
+ Ngày nay tuy Mẹ
Ma-ri-a đã lên Trời, nhưng Mẹ vẫn luôn cầu bầu cùng Chúa Giê-su cho
chúng ta là con cái Mẹ đang còn ở trần gian. Chúng ta hãy xin ơn
chết lành trong tay Đức Mẹ.
+ “Đến với Chúa
Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam) : Hãy năng cầu nguyện kết
hiệp với Mẹ Ma-ri-a, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14).
Hãy hiệp cùng Mẹ xin Chúa Giê-su giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, giống như
đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na đã được Chúa biến nước lã thành rượu ngon
nhờ lời Đức Mẹ chuyển bầu (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin,
Cậy, Mến noi gương Đức Mẹ: Hãy năng nghe Lời Chúa phán, suy niệm
để tìm hiểu ý Chúa và sẵn sàng xin vâng, chấp nhận mọi may rủi xảy
đến với lòng tín thác vào Chúa như Mẹ đã làm được Tin Mừng thuật lại : “Còn
bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc
2,19.51).
4.
THẢO LUẬN :
So sánh giữa việc lên
trời của Đức Mẹ hôm nay giống và khác với việc thăng thiên của Chúa
Giê-su thế nào ? Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để được Chúa
ban hưởng hạnh phúc Thiên Đàng như Mẹ ?
5.
NGUYỆN CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay
cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn
Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian
nan thử thách như bị thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không
biết phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn gặp phải... Trong
những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình
dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ ủi an che chở, để được Mẹ cầu bầu cùng
Chúa ban các ơn lành hồn xác. Nhất là xin Chúa đừng để khi nào chúng
con đi theo con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời
Chúa Giê-su, như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại bữa tiệc cưới thành Ca-na xưa
: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga
2,5)- AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM