HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN C
Xh
32,7-11.13-14 ; 1 Tm 1,12-17 ; Lc 15,1-32
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc
15,1-32
(1) Tất
cả những người Thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức
Giê-su mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và các
kinh sư thì lẩm bẩm : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi
và ăn uống với chúng”. (3) Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này : (4)
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại
không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ
được con chiên bị mất ? (5) Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên
vai. (6) Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói : “Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị
mất đó”. (7) Vậy, tôi nói cho các ông hay : “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ
vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi
chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. (8) Hoặc người
phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại
không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? (9) Tìm được
rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói : “Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”. (10)
Cũng thế, tôi bảo cho các ông hay : “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai
nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (11) Rồi Đức
Giê-su nói tiếp : “Một người kia có hai con trai. (12)
Người con thứ nói với cha rằng : “Thưa cha, xin cho con phần tài sản
con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít
ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó
anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã
ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng
khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho
một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh
ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai
cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : “Biết bao nhiêu người làm công cho
cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! (18) Thôi, ta
đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người : “Thưa cha, con thật đắc tội với
Trời và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con
như một người làm công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về
cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh
lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ
người con nói rằng : “Thưa cha, con thật đắc tội với
Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. (22) Nhưng người
cha liền bảo các đầy tớ rằng : “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc
cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, (23) rồi đi bắt
con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! (24)
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của ông đang ở
ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy
múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
(27) Người ấy trả lời : “Em cậu đã về, và cha cậu đã
làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh
cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29)
Cậu trả lời cha : “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con
hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho
lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con
của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay
trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. (31) Nhưng người cha nói với
anh ta : “Con à, lúc nào con cũng ở với
cha, tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải
ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất
mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH :
Thấy
Đức Giê-su gần gũi với những người thu thuế và tội lỗi, nhóm
Pha-ri-sêu và kinh sư lên tiếng trách cứ Người. Bấy giờ Người đã dùng
ba dụ ngôn diễn tả lòng thương xót và niềm vui của Thiên Chúa đối
với những tội nhân biết hối cải là : “Con chiên bị lạc”, “Đồng bạc bị
đánh mất” và “Người Cha nhân hậu”.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-3 : + Tất cả những người thu thuế
và những người tội lỗi : Trong
xã hội Do thái, những người thu thuế bị coi như tội nhân công khai.
Người thu thuế và gái điếm là hai hạng người thường bị nhóm Pha-ri-sêu
và kinh sư lên án (x. Lc 5,30; 7,34). Ở đây Lu-ca ghi nhận những người
thu thuế và tội lỗi thường đến nghe lời Đức Giê-su giảng. Điều này
cho thấy Đức Giê-su không khinh dể xa lánh tội nhân, nhưng sẵn sàng đón
tiếp để cứu độ họ.
- C 4-7 : + Người nào trong các ông có
một trăm con chiên mà bị mất một con... : Hình
ảnh người mục tử với đàn chiên là một đề tài cổ điển của Cựu
ước, nói lên quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Lc 12,32). Con
chiên tìm lại được là biểu tượng về ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. Mt
4,6-7). Lu-ca cho thấy tình thương của Thiên Chúa là Đấng luôn đi tìm và
đưa các tội nhân trở về đàn chiên (x. Lc 15,4-7). + Để chín mươi
chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất : Ở đây
phải hiểu ngầm là chín mươi chín con chiên trong đàn đã được mục tử
nhốt ở một nơi an tòan trong hoang địa, trước khi đi tìm con chiên lạc.
Tuy chỉ là một con chiên, nhưng đối với mục tử cũng là một số lớn,
đến nỗi ông quyết tâm đi tìm bằng được. Điều này cho thấy lòng nhân
từ của Thiên Chúa đối với kẻ có tội thật lớn lao.
- C 8-10 : + Người phụ nữ nào có mười
đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng... : Đồng
quan là một đơn vị tiền tệ của Hy-lạp. Đơn vị tiền tệ này tương
đương với quan tiền Rô-ma (x. Lc 7,41), là tiền công nhật của một nông
nhân làm việc đồng áng (x. Mt 20,2). + Lại không thắp đèn, rồi
quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? : Nhà
của người dân Pha-lét-tin làm bằng đất sét và có ít cửa nên bị tối.
Do đó, dù giữa ban ngày, để tìm kiếm một vật nhỏ như một quan tiền,
người ta cũng phải thắp đèn cầy lên. Trong dụ ngôn này, một phụ nữ
vốn liếng chỉ có mười quan tiền, nên phải vất vả tìm kiếm cho bằng
được đồng quan bị mất... Điều này ám chỉ tình thương của Thiên Chúa
đối với tội nhân. Người không muốn bất cứ ai bị hư mất, nhưng muốn họ
ăn năn sám hối và được sống. + Giữa triều thần Thiên Chúa, ai
nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối : Thiên
Chúa vui mừng và chia sẻ niềm vui với cả triều thần thánh trên trời
khi thấy một người tội lỗi ăn năn hối cải trở về.
4. CÂU HỎI : 1) Những ai bị người Pha-ri-sêu và
kinh sư khinh dể, nhưng được Đức Giê-su sẵn sàng đón tiếp ? 2) Thánh kinh
thường dùng hình ảnh nào để diễn tả tương quan giữa Đức Chúa với
Ít-ra-en là con dân của Người ? 3) Phải chăng người mục tử bỏ mặc 99 con
chiên giữa hoang địa cho sói dữ cắn xé, để đi tìm một con chiên bị
lạc ? 4) Hai dụ ngôn nào diễn tả tình thương của Thiên Chúa luôn quan
tâm đi tìm các tội nhân, và dụ ngôn nào cho thấy tình thương của
Người sẵn sàng tha thứ và đón nhận tội nhân sám hối trở về ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Trên
trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám
hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn
năn” (Lc 15,7).
2. CÂU CHUYỆN :
1) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA SỰ THA THỨ :
Ngày
13-5-1981, giữa lúc hàng chục ngàn người chen chúc nhau tại quảng trường thánh
Phê-rô để đón đức thánh cha Gio-an Phao-lô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang
lên làm mọi người đứng tim. Đức thánh cha đã bị ngã gục trên chiếc xe mui trần,
máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị
mưu sát. A-li A-ga-ca, hung thủ tội ác, đã bị bắt ngay tại chỗ. Sau đó hung thủ
người Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam tại nhà tù Re-bi-bli-a ở Rô-ma. Cả thế giới đều
kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa khi
Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II, là người đã bị ám sát trước đó, đã đến thăm và
nói chuyện với kẻ sát hại mình tại nhà tù. Không ai biết hai bên nói gì với
nhau, nhưng qua hệ thống truyền thông, mọi người đều rất cảm động khi thấy Đức
Thánh Cha bắt tay A-li A-ga-ca, với nụ cười trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh
sống động nhất về tình yêu của Đức Giê-su khi Người niềm nở đón tiếp các tội
nhân.
Ít lâu
sau, vợ của kẻ sát nhân đã đến Rô-ma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh
Cha, vì ngài đã sẵn sàng tha thứ cho chồng của mình. Còn chính hung thủ A-li
A-ga-ca sau khi mãn hạn tù, đã xin được nhập vào quốc tịch Va-ti-can và được trở
thành em nuôi của Đức Thánh Cha.
2) LOÀI
NGƯỜI THÍCH KẾT ÁN HƠN LÀ CẢM THÔNG VỚI TỘI NHÂN :
Bệnh
HIV AIDS (hay SI-DA) ngày nay đã trở thành một vấn đề lớn của nhân
loại, một “căn bệnh của thế kỷ” mà đến nay loài người vẫn chưa tìm ra
phương thế chữa trị hữu hiệu. Cách đây ít lâu, trên đài VTV3 có chiếu
một bộ phim nhiều tập khá hay, nhan đề là “Gió qua miền tối sáng”.
Bộ phim đề cập đến số phận của nhiều nhân vật bị lây nhiễm vi-rút liệt
kháng (HIV-AIDS). Thái độ của các bệnh nhân đầu tiên thường là bàng
hoàng, không tin là mình lại bị mắc chứng bệnh quái ác này. Rồi sau
khi đã chấp nhận thực tế, một mặt họ tìm xem ai đã lây bệnh cho
mình, mặt khác họ vẫn cố che giấu không để người chung quanh biết
mình đã bị mắc bệnh. Rồi trong số những người mắc bệnh, người thì
chấp nhận hoàn cảnh để cố sống tốt đẹp và tránh lây bệnh cho tha
nhân. Nhưng cũng có kẻ hận đời và sống buông thả, quan hệ tình dục
bừa bãi, nhằm truyền bệnh cho nhiều người khác cùng chết với mình cho
hả dạ. Còn quần chúng nói chung, do chưa hiểu về phương cách lây lan,
nên khi vừa nghe người nào mắc phải thứ bệnh quái ác này là bắt đầu bàn
tán xầm xì to nhỏ và cảnh giác cao độ, thể hiện qua thái độ xa lánh bệnh
nhân... khiến người mắc bệnh cảm thấy cô đơn và tủi hổ. Cuối cùng
người bệnh đành phải dời chỗ đến nơi không ai biết mình bị mắc chứng
bệnh này.
Gần đây ở Phi-líp-pin cũng có chiếu một bộ phim
tài liệu về việc phòng chống HIV AIDS. Phóng viên đã hỏi một thanh
niên bị mắc bệnh AIDS thời kỳ chót : “Anh dự định thế nào về tương lai của
anh ?” Chàng thanh niên đã thành thật cho biết như sau : “Tôi
hy vọng sau khi tôi chết, hãng bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho tôi một số
tiền để nuôi chú chó cưng của tôi. Vì từ khi tôi công khai thừa nhận chứng
bệnh này, tôi đã bị mọi người khinh dể xa lánh, kể cả những người thân
trong gia đình ruột thịt của tôi. Chỉ có chú chó cưng là không thay
lòng đổi dạ. Nó vẫn tiếp tục vẫy đuôi mừng rỡ mỗi khi gặp mặt tôi như
trước”.
3) LÒNG THƯƠNG XÓT SẼ CHIẾN THẮNG SỰ THÙ
HẬN :
Cha PI-Ô
là một vị linh mục nổi tiếng thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Ro-ton-do và tình
cờ gặp Ce-sa-re Fes-ta, một kẻ đứng đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài,
ông ta ngạc nhiên và nói :
- Ngài
cũng ở đây với chúng tôi, những người theo phái Tam Điểm hay sao ?
Cha Pi-ô
đáp lại :
- Phải,
thế mục đích của các anh là gì ?
Ông ta
trả lời :
- Chúng
tôi chống lại Giáo hội.
Cha Pi-ô
liền cầm lấy tay ông ta, nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông
ta nghe dụ ngôn đứa con hoang đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ
sau, ông ta đã quì gối xưng tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta
sẵn sàng tuyên xưng lòng khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Còn
chúng ta hôm nay có sẵn sàng sám hối ăn năn trở về cùng Thiên Chúa để được ơn
tha thứ không ? Vì tâm tình sám hối ăn năn chính là phương thế để được Chúa
thứ tha.
4) NOI
GƯƠNG CHÚA ĐỂ XÓT THƯƠNG NGƯỜI TỘI LỖI :
Một lần
kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục An-mô-na một thiếu nữ mang bầu
xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh
ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói :
- Tại
sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn
tồn bảo :
- Anh em
thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa ?
Nói thế
rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
3. SUY NIỆM :
1) Đặc
tính của lòng thương xót của Thiên Chúa :
a) Không
bỏ rơi nhưng quyết tâm đi tìm chiên lạc :
Đức
Giê-su là mục tử tốt lành biết rõ và gọi tên từng con chiên (x Ga 10,14), đến để
cho chiên được sống và sống dồi dào (x Ga 10,10). Con người thật đáng quí trước
mặt Người. Người tìm kiếm con người và không muốn một người nào bị hư mất. Như
người mục tử tốt lành không đành bỏ rơi một con chiên lạc, nhưng quyết tâm đi
tìm cho tới khi tìm thấy (x Lc 15,4); Như người đàn bà có mười quan tiền bị rớt
một đồng, đã không bỏ mặc, nhưng đốt đèn, quét nhà quyết tìm lại bằng được (x
Lc 15,8); Như người cha có hai đứa con trai, đã không bỏ mặc đứa con thứ bất hiếu
đi hoang, nhưng hằng ngày mong chờ nó hồi tâm sám hối trở về (x Lc 15,20).
b) Vui mừng
khi tìm lại những gì đã hư mất :
Đức
Giê-su là hiện thân lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Người không muốn tội
nhân phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. Người vui mừng đón
tiếp tội nhân trở về giống như mục tử tốt lành đi tìm một con chiên lạc, khi
tìm được rồi liền vui mừng vác nó trên vai và đưa về đàn. Về đến nhà, người
ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói : “Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị
mất đó” (Lc 15,5-6);
Thiên
Chúa cũng giàu lòng từ bi nhân hậu như người đàn bà kia có 10 đồng bạc đã bỏ
công tìm kiếm một đồng bị mất. Khi tìm thấy rồi liền nói với người xung quanh : “Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được quan tiền tôi đã đánh mất” (Lc
15,9);
Thiên
Chúa còn hành xử bao dung như người cha nhân lành, hằng ngày chờ mong đứa con
đi hoang trở về, và khi thấy bóng nó từ đàng xa, đã chạnh lòng thương, chạy
ra ôm cổ nó và hôn lấy hôn để. Rồi không để nó nói hết câu thú tội, đã sẵn
sàng tha thứ và trả lại mọi quyền lợi mà nó đã mất khi bỏ nhà đi hoang : “Mau
đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép
vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở
tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay
lại tìm thấy” (Lc 15,20-24).
2) Đối xử thế nào với tội nhân noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su ?
a)
Cảm thông
với tội nhân :
Trong cuộc
sống, chúng ta thường có thái độ giống như các biệt phái và Kinh sư khi thích
xét đoán và kết án tha nhân. Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Đức
Giê-su đầy lòng thương xót : Người cảm thông
khi ngồi đồng bàn với các người thu thuế tội lỗi; Người chọn một người thu thuế tên là Lê-vi
vào số mười hai Tông đồ; Người bênh
vực và cứu người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình khỏi
bị ném đá chết… Sở dĩ Người ưu ái gần gũi tội nhân là vì muốn chữa lành cho
họ như Người đã nói: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần.
Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.
Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”
(Mt 9.13).
Chỉ có
một tội không bao giờ được tha là tội
kiêu ngạo của ma quỷ khi “xúc phạm đến Chúa Thánh Thần”. Đó là tội chết mất
linh hồn mà các người Pha-ri-sêu và Kinh sư Do thái đã lỗi phạm, khi cố chấp
không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, mượn tay Phi-la-tô kết án tử hình thập
giá cho Người, và từ chối gia nhập Nước Trời do Người thiết lập.
b) Đi tìm kiếm tội nhân
và vui mừng đón nhận họ trở về :
Thiên Chúa luôn yêu
thương mọi người là con cái của Ngài. Ngài đã sai Con Một đến trần gian là Đức
Giê-su để ban ơn cứu độ cho loài người. Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su muốn cho mọi người đều gia nhập Nước Trời
để được cứu độ. Đặc biệt Người ưu ái đối
với các tội nhân: bênh vực người đàn bà ngoại tình khỏi bị kết án, tha thứ
cho người trôm lành thật lòng sám hối ăn năn, đi tìm các con chiên lạc và vui mừng
tiếp nhận họ, sẵn sàng kêu gọi người thu thuế Mát-thêu vào nhóm 12 tông đồ, cho
cô gái tội lỗi Ma-ri-a Ma-đa-le-na theo làm môn đệ của Người… Việc đi tìm và đưa những tội nhân sám hối trở về
với Chúa cũng chính là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay.
c) Quảng
đại tha thứ những xúc phạm của kẻ khác đối với chúng ta :
- Nếu
Thiên Chúa đã tỏ lòng từ bi tha thứ tội lỗi chúng ta, thì Người muốn
chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ
các xúc phạm của tha nhân đối với chúng ta, như người cha trong dụ ngôn
đã yêu cầu người anh cả tiếp nhận đứa em đi hoang trở về. Trong thực tế,
người ta chỉ dễ tha thứ lỗi lầm của kẻ khác khi ý thức được tình trạng
tội lỗi của mình. Có nhận mình là tội nhân, chúng ta mới cảm thông và
dễ tha thứ cho kẻ khác.
- Đừng đòi kẻ có tội phải bị trừng phạt
mới vừa lòng : Mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther King) đã nói
như sau : “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì chắc mọi
người đều đã trở thành những kẻ mù lòa từ lâu rồi !”. Một phóng viên
đã hỏi Tổng thống LANH-CÔN (A Lincoln) là ông sẽ làm gì đối với dân
Miền Nam sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ ? Ông
liền trả lời : “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ bỏ nhà
đi hoang”.
- Đây
cũng chính là cách đối xử của Đức Giê-su đối với các tội nhân. Người
sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, “phục hồi trọn vẹn” cho ông Phê-rô,
như thể ông chưa bao giờ phạm tội chối Thầy. Đây cũng chính là cách chúng
ta phải cư xử với kẻ xúc phạm đến chúng ta : Phải
sẵn sàng tha thứ với một tình thương bao dung giống như Thiên Chúa đã bao
dung với chúng ta, như lời cầu trong kinh Lạy Cha : “Và
tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Vì nếu
chúng ta đối xử với tha nhân thế nào, thì Thiên Chúa công minh cũng sẽ xử với
ta như thế: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu
ấy” (Mt 7,2).
- Thánh Phao-lô dạy các
tín hữu chúng ta sống đức mến như sau : “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm
tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mùng khi thấy sự gian
ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả;
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7).
4. THẢO
LUẬN :
Giả như
bạn là người anh cả trong dụ ngôn hôm nay thì bạn sẽ làm gì : vào
nhà cha để cùng tham dự bữa tiệc vui đón đứa em đi hoang trở về, hay đứng
bên ngoài kêu trách lòng nhân hậu của Cha, như các người Pha-ri-sêu và
kinh sư xưa đã làm ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHA. Xin dẫn dắt chúng con mau
quay về với Cha, giúp chúng con điều chỉnh những sai lỗi. Xin giúp
chúng con sớm trỗi dậy, vì tin rằng tình thương của cha còn lớn hơn muôn
ngàn lần những tội lỗi của chúng con. Ước gì vấp ngã sẽ làm chúng con
trưởng thành hơn, thấy được sự mỏng dòn yếu đuối của mình và cảm
nghiệm được lòng Cha bao dung nhân hậu. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha
thứ, chúng con cũng biết đối xử từ bi thương xót đối với những kẻ đã
xúc phạm đến chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM