HIỆP SỐNG TIN MỪNG
Ga 6,32-40
TIN MỪNG : Ga 6,32-40
Đức Giê-su
đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi
trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực,33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống,
bánh đem lại sự sống cho thế gian.”34 Họ liền
nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.”35 Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là bánh trường
sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy
tôi mà không tin.37 Tất cả
những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ
không loại ra ngoài,38 vì
tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã
sai tôi.39 Mà ý
của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất
một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những
ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ
sống lại trong ngày sau hết.”
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người
Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết.” (Ga 6,40).
2. CÂU CHUYỆN :
1) NGUỒN GỐC LỄ CẦU HỒN (02/11) :
Thánh
Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Clu-ny. Đan viện này nằm trong phần đất của đế quốc Ger-ma-ny. Ngài
là một người nhân đức, hằng ngày cầu nguyện hi sinh và dâng lễ cầu nguyện cho
các linh hồn đã qua đời.
Một hôm,
một đan sĩ trong đan viện Clu-ny đi viếng Đất thánh. Trên đường trở về Đan viện, tàu chở vị
đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn
sĩ chia sẻ : "Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều
người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện
phụ O-di-lo và
các đan sĩ trong đan viện của ngài rằng : ngày nào họ cũng giải thoát một số
linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh
em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui
cho các thánh trên thiên đàng và làm cho quỉ dữ thêm đau khổ dưới Hỏa ngục".
Sau khi
nghe biết sự việc, cha O-di-lo đã lập lễ Cầu Hồn vào ngày 2 tháng 11 và cử hành trong đan
viện Clu-ny của
ngài vào năm 998. Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa
thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rô-ma. Từ
thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn.
Trong những ngày đó họ đến đất thánh thăm viếng, sửa sang mồ mả của cha ông.
Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn.
Họ hát những bài ca cổ truyền để xin cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.
Tại nước Hun-ga-ry, người
ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta tụ họp các
trẻ mồ côi tới gia đình mình để cho chúng ăn, cho quần áo, quà bánh và đồ chơi…
Tại miền quê nước Ba-lan: nửa đêm lễ các linh hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo
xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu xin được sớm thoát
khỏi luyện ngục. Sau đó các linh hồn sẽ về thăm nhà mình, thăm nơi làm việc khi
họ còn sống, nên các gia đình có người qua đời đều mở cửa sổ suốt đêm ngày 2/11
để đón các linh hồn.
2) CHỨNG TÍCH VỀ LUYỆN NGỤC : Có rất
nhiều chứng tích về các linh hồn từ luyện ngục về xin cầu nguyện. Ở đây xin kể
ra hai chuyện được lưu trữ tại bảo tàng Rô-ma :
- Chứng tích 1 : MẸ HIỆN
VỀ VỚI CON TRAI :
Bà Le-leux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai của
bà là Jo-seph Le-leux ở
Wo-decq (Bỉ).
Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo
con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh. Bà cầm
tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết qủa là anh đã
trở lại sống thánh thiện, đã lập một hội đạo đưc dành cho giáo dân, các hội
viên trong hội này đã thi đua nên thánh. Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày
19-4-1825.
- Chứng tích 2 : MẸ CHỒNG
HIỆN VỀ VỚI CON DÂU :
Nhạc mẫu
của bà Ma-ga-ri-ta Dem-mer-lé thuộc
giáo xứ El-ling-hen,
giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con
dâu. Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì. Bà Ma-ga-ri-ta Dem-mer-lé lên
tiếng hỏi thì được bà mẹ chồng cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện
cho mình bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Ma-ri-en-tal. Người
con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin. Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện
về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục
mà lên Thiên đàng. Bà Ma-ga-ri-ta xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình
lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn…và từ đó bà không còn hiện về nữa.
3. SUY NIỆM : TƯỞNG NHỚ TIỀN NHÂN :
1)
Đức Ki-tô thiết lập Nước Trời : Nước Trời trần gian là Hội
Thánh ở trần gian hôm nay và Nước trời trên Thiên đàng mai sau. Điều kiện để
được gia nhập vào Nước Trời Hội Thánh ở trân gian là phải có lòng sám hối tội
lỗi và tin vào Chúa Giê-su, phải được
tái sinh bởi nước và Thánh Thần như lời Đức Giê-su đã kêu gọi khi ra giảng đạo :
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc
1,15). Người cũng dạy : “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Phải thực hành giới răn bác ái
bằng cách thực thi Tám mối phúc (x. Mt 5,3-12). Ngoài ra, để có được sự sống
vĩnh cửu trên Thiên đàng, đòi người ta phải “chiến đấu để qua được cửa
hẹp mà vào” (Lc 13,24), phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo
chân Chúa” (x. Mc 8,34), và “cùng chết với Chúa để cùng được sống lại với
Người” (Rm 6,8).
2)
Mầu nhiệm các thánh thông công : Chúa Giê-su chỉ thiết
lập một Hội Thánh duy nhất trên nền đá tảng đức tin của tông đồ Phê-rô đã tuyên
xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Hội thánh
do Đức Giê-su thiết lập gồm ba tình trạng : Một là Hội
Thánh Lữ Hành trần gian gồm các tín hữu đang sống, đang phải chiến đấu
chống lại ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Hai là Hội Thánh Vinh Quang trên Thiên đàng gồm
các thánh nam nữ đang được hưởng hạnh phúc với Chúa. Ba là Hội Thánh Đau Khổ gồm các linh hồn đang được thanh luyện trong chốn
luyện hình, để họ ngày thêm thanh sạch thánh thiện và hy vọng một ngày nào đó
sẽ được về Thiên đàng. Còn những ai chối bỏ Thiên Chúa, nghe theo ma quỷ phạm
các tội ác mà không chịu hồi tâm sám hối, là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh
và sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời, “chung số phận với tên Ác quỷ và các sứ
thần của nó” (Mt 25,41).
3) Bổn
phận đối với các linh hồn trong luyện ngục : Đức Giê-su đã mặc
khải về sự thanh luyện ở đời sau khi nói : "Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra
khỏi nơi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng" (Mt
5,26). Luyện ngục chính là phương cách Chúa dùng để thanh luyện các linh hồn
khi chết vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù những thiệt hại đã gây ra
cho tha nhân khi còn sống ở trần gian. Cầu xin Chúa giúp họ ngày một nên thanh
sạch thánh thiện để sớm được Chúa rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời.
Do đó, trong tháng các linh hồn này, mỗi tín hữu chúng ta cần dọn mình lãnh các ơn đại xá tiểu xá (với các điều
kiện thường lệ), để chuyển các ơn ấy cầu cho các linh hồn trong chốn luyện
hình; Ngoài ra, cần siêng năng lần hạt
Mân Côi, xin lễ và làm những việc bác ái để đền tội thay cho các linh hồn
là thân nhân, hay các linh hồn mồ côi … để họ sớm được về trời. Khi lên trời
chắc họ sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Còn các linh hồn bị sa
hỏa ngục do đã trở thành quỷ dữ, thì không còn thuộc về Hội Thánh nữa, nên
chúng ta không cần cầu nguyện cho họ.
4) Về việc cầu nguyện cho các linh hồn mồ
côi : Thực
ra, Hội thánh từ xưa đến nay không đặt vấn đề “linh hồn mồ côi” trong niềm tin
và trong thực hành. Hội thánh không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn
nào có thân nhân cầu nguyện, nên trong mọi thánh lễ dù có người xin lễ cầu
riêng cho linh hồn thân nhân, thì vẫn có lời cầu chung cho tất cả “các tín hữu
đã ly trần trong tình thương của Chúa”, gồm mọi tín hữu và cả các linh hồn chưa
nhận biết Chúa. Như vậy : Nói linh hồn mồ côi chỉ là nói theo cách suy nghĩ
của loài người chúng ta, nhưng cũng không sai với giáo lý và sự thực hành
của Hội Thánh.
Thật vậy,
trong phụng vụ thánh lễ hay kinh nhật tụng, Hội thánh vẫn khuyến khích việc
cầu nguyện chung cho các linh hồn cũng như riêng từng linh hồn theo ý người xin
lễ để cầu cho linh hồn mới qua đời cũng như cầu chung cho các linh hồn. Việc cầu
nguyện ấy chắc sẽ mang lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Từ đó, có thể
suy ra : những
linh hồn không có thân nhân xin lễ cầu nguyện sẽ bị thua thiệt, nên đức ái buộc
các tín hữu còn sống cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi này. Linh hồn
mồ côi chính là những linh hồn bị quên lãng, vẫn đang được thanh luyện
trong chốn luyện hình, nên rất cần được các tín hữu chúng ta vì đức bác ái hãy
tưởng nhớ, xin lễ và làm các việc lành để cầu cho họ nữa.
4.LỜI
CẦU :
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn đã qua đời
được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
LM ĐAN VINH - HHTM