THIÊN CHÚA BA NGÔI LÀ THIÊN CHÚA QUÁ YÊU THẾ GIAN
Sách Giáo lý của Giáo hội
Công giáo, số 234 viết: “Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội
tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là
ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG 43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương
tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mặc khải, để giao hòa và kết hợp với Ngài những ai từ bỏ tội lỗi” (DCG 47).
Trong bối cảnh hôm nay tập trung vào mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy hành động của Thiên Chúa tỏ mình
ra trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16). Vì yêu thế gian, Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến
thế gian để cứu độ thế gian. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Con, chúng
ta đã được ban cho Chúa Thánh Thần. Là Ba Ngôi Vị, Thiên Chúa luôn hành động
như một Thiên Chúa Tình Yêu; Thiên Chúa không lên án thế gian mà yêu thương và hành động để cứu thế gian: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế
gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà
được cứu độ” (Ga 3:17). Đây có lẽ là câu nổi bật nhất trong tất cả Kinh
thánh được Phụng vụ Hội thánh đề ra cho chúng ta
suy ngẫm trong ngày Chủ
nhật trọng kính Chúa Ba Ngôi, một tuần sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, khi
chúng ta tiếp nối mùa phụng vụ thường niên của Hội thánh. Có lẽ không phải ngẫu
nhiên mà câu này được Phụng vụ Hội thánh nhắc đến hôm nay, vì đây được coi như là một bản tóm tắt của
toàn bộ Tin Mừng.
Đó là hành động chính yếu của Thiên Chúa Ba
Ngôi dành cho nhân loại, hành động tột cùng của Thiên Chúa, không có hành động
nào hơn được nữa. Trong thời Cựu ước, qua Môsê, Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài
một bộ luật. Trong thời Tân ước, bằng cách ban chính Con Một của mình, Thiên Chúa ban cho nhân loại ơn cứu độ trọn vẹn, và từ
Người Con ấy Thiên Chúa đổ tràn Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài: “Ai không có Thần Khí của Chúa Kitô, thì
không thuộc về Chúa Kitô. Nhưng nếu Chúa Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác
anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì
anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần
Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa
Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh
em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8: 9-1).
Hành động tối hậu này không còn nhắm đến một
dân tộc cụ thể nào, như Israel trong Cựu ước, dân riêng của Thiên Chúa, được đề
cập trong bài đọc thứ nhất: “Thiên Chúa
nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân
nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ
qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. Ông
Môsê vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa: “Lạy Chúa, nếu quả thật con được
nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm
và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài” (Xh 34:
6-9). Trong thời Tân ước, ơn cứu độ của Thiên Chúa nhắm đến mọi người, bất cứ
ai tin vào Ngài, qua Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và từ Người Con này
Ngài đổ tràn Thánh Thần xuống trên những người ấy.
Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Ơn cứu độ
này không tùy thuộc vào tình trạng của con người. Như Môsê trong Cựu ước đã xin
Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, sự cứng đầu cứng cổ…cho dân
Israel thuở xưa, thì trong Tân ước Ngôi Hai Thiên Chúa, trên thập giá đã cầu
nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha
cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34). Qua cuộc khổ nạn, cái chết
và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được ban cho người giàu cũng như người
nghèo, trẻ em cũng như người già, những người có học thức cũng như những người
không có bằng cấp nào, vì: “Quả vậy, phàm
ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con
cái Thiên Chúa” (Rm 8: 14). Bất cứ ai, nhờ Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn mà
tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa
mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được
sống muôn đời” (Ga 3:14).
Điều này có nghĩa đức tin là điều kiện căn bản
để được cứu độ, được sống muôn đời. Điều này nằm trong tầm tay của mọi người,
tùy vào con người. Điều kiện duy nhất là tin vào Thiên Chúa, qua Người Con của
Ngài là Chúa Giêsu Kitô, và thực thi những điều Ngài truyền dạy, chỉ như thế
con người mới có thể tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong
Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều
răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được
Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”
(Ga 14: 20-21).
Điều đã thách thức dân Israel khi xưa, cũng
đang thách thức chúng ta ngày nay, không phải là mở lòng với Chúa Giêsu với tư
cách là Đấng Mêsia theo ước mong của dân Israel, và của chúng ta hôm nay, một Đấng
Cứu Thế sẽ đáp ứng mọi khát vọng chính trị trần thế của họ. Nhưng là mở lòng với
Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài bị kết án như một tên cướp: “Cùng bị đóng đinh với Ngài, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên
bên trái” (Mt 27: 38), và chịu khổ hình thập giá như những người nô lệ thời
đó, vì Ngài là biểu lộ đích thực của “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4:16). Cái chết ô nhục của Chúa Giêsu là một hành động
yêu thương của Thiên Chúa, chỉ đường dẫn đến sự sống đời đời, và con đường này
quan trọng đến nỗi từ chối hành động đó là từ chối chính Thiên Chúa và chọn cái
chết muôn đời. Và cách duy nhất để đón nhận con đường này là đức tin, vốn hoàn
toàn vô nghĩa, thậm chí điên rồ, theo quan điểm của phàm nhân: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao
giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1: 22-23). Sự mở lòng với Chúa
Giêsu trên thập giá có tác động rất lớn đến ý nghĩa của việc làm người. Hơn nữa,
bước theo con đường của Chúa Giêsu không phải là tùy chọn, mà là vấn đề sinh tử.
Nhưng nếu chúng ta không chấp nhận bằng đức tin thì sự thật này khiến lòng dạ
chúng ta sợ hãi và khiến tâm trí chúng ta né tránh.
Tin Mừng kêu gọi chúng ta có câu trả lời riêng của
mỗi người. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta kêu gọi chúng ta đáp lại
trong đức tin bằng cách tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Con Thiên Chúa là
Chúa Giêsu và ơn cứu độ mà Ngài đã giành được cho chúng ta. Việc tuyên xưng và
sống đức tin này trong mọi sinh hoạt hàng ngày và mọi mối tương giao xã hội của
chúng ta là dấu chỉ hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta, như
Thánh Phaolô kêu mời: “Ngoài ra, thưa anh
em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng
tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình
an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13: 11).
Cụ thể hơn, mỗi
khi tôi ghi dấu Thánh giá trên thân mình tôi, hay khi tôi đọc kinh Sáng danh,
tôi có ý thức đầy đủ về những gì mình đang làm và đang đọc không? Tôi có biết rằng
những khi ấy tôi đang tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu
đang lan tỏa trong trời đất muôn vật, nơi mọi người và nhất là nơi chính tôi không? Thánh Mátthêu kết
thúc sách Tin mừng của mình bằng câu nói về Ba Ngôi: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Tôi
có ý thức sống và công bố Tin mừng Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi cho mọi người
tôi sống cùng và gặp gỡ hàng ngày không? Dù thế nào đi nữa, chúng ta cần ghi nhớ lời mà Thánh Phaolô cầu chúc cho
các tín hữu của ngài, cũng là cho chúng ta, để rồi đến lượt mình, chúng ta cầu
chúc cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa
và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen.” (2 Cr 13: 13).
Phêrô Phạm Văn Trung.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|