Trần Mỹ Duyệt
Những ngày xa xưa
trong buổi đầu khi Tin Mừng được rao giảng, Chúa Giêsu đã đích thân tuyển chọn
12 người để cộng tác với Ngài gọi là những Tông Đồ. Tin Mừng ghi: “Trong những
ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên
Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông
đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và
Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon
cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản
bội.” (Luca 6:12-16)
Ngoại trừ một vài
Tông Đồ được nhắc đến về số phận và cái chết của họ trong Tin Mừng như Phêrô,
Gioan, ngay cả Giuđa, số còn lại ít ai được biết tới. Điều này dẫn đến câu hỏi
là sau khi Chúa Giêsu về trời thì số phận của họ như thế nào? Theo Thánh Kinh thì
sau khi Chúa chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần
hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không
còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm ra đi để làm chứng
nhân cho Tin Mừng. Vậy họ đã làm gì? Sống và chết ra sao?
Sau khi Chúa Giêsu
về trời, các Tông Đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Chúa Giêsu đã
căn dặn (Acts 1:4). Các ông nhận lãnh Thánh Thần trong lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống (Acts 2). Lịch sử của Giáo Hội đã khai mở, nhưng ngoài những gì được ghi
trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là
những thư của Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các Tông Đồ, mặc dù chúng
ta vẫn tin tưởng rằng các ông đã đi rất xa tận cùng trái đất để rao giảng về
Chúa Giêsu. Các ông đã đau khổ vì đức tin, và đã bị chết một cách đau đớn để
trở thành những chứng nhân sống động cho Tin Mừng mà các ông rao giảng.
Sau đây là 13 trong
số các Tông Đồ gồm Matthias thay thế Giuđa Iscariot trong nhóm 12 theo Luca
6:12-16, và Phaolô, Tông đồ dân ngoại:
1.Simon/Phêrô: Simon sinh tại
Bethsaida thuộc Galilee. Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của
ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jonah. Ông có người em là Andrê cũng
là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum
vào thế kỷ thứ 5 người ta xây một thánh đường bao trên đó.
Sau 3 năm theo Thầy,
và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ
Chúa Thánh Thần hiện xuống (Tông Đồ Công Vụ, Chương 2). Một bài giảng gây tiếng
vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa ngay ngày hôm đó. Ông chuyên
chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị
giam giữ tại Giêrusalem, ông đã tới Rôma, ở đó cùng với Marcô thư ký của ông đã
biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư
xuất hiện trong Tân Ước.
Ông được Chúa Giêsu
đổi tên là Cephas (Phêrô), có nghĩa là đá do lòng nhiệt thành của ông. Đó cũng
là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là
Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus
(c.180A.D) dựa theo truyền thống, cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội
ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.
Phêrô, theo Phaolô
ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm
Antioch (Galatians 2:11) và có thể ở Corinth (1 Corinthians1:12). Cũng trong
Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được
ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).
Theo truyền thuyết,
hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết Phêrô năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời.
Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh
Phêrô hiện nay ở Rôma.
2.Andrê: Ngư phủ từ Galilee,
em của Phêrô. Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mark 1:16-18). Sau
khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa, ông thuộc số những Tông Đồ
đầu tiên của Ngài.
Ông giảng đạo cho
người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patras (Patrae),
thành Achaia (Achaea), Hy Lạp. Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại
Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải (Black Sea) gần Thổ
Nhĩ Kỳ. Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen để xác
định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông
giảng đạo dọc theo Hắc Hải và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển
đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga.
Theo truyền thống, ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul sau này)
năm 38 AD, sau này thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là
Giám Mục. Cả Andrê và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng
Phụ.
Tài liệu trước đó
trong Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours đã cho rằng ông
bị trói chứ không phải bị đóng bằng đinh vào một loại thập giá gọi là thập giá
Latin có hình chữ X vào năm 74 AD. Cái chết của ông, theo nhà sử học, Dorman Newman
thuộc thế kỷ 15, khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, Tổng Đốc Rôma là
Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết
phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị
đánh đòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và
không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia
vẫn còn dấu tích mộ của ông.
Ngoài ra, theo Scots
thì Andrê cũng đã đến giảng đạo tại Picts, vì vậy họ dùng cây thập giá của
Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ.
3.Giacôbê: Con của Zebedee
người làng Bethsaida, và là anh của Gioan. Ông và em ông là anh em họ với Chúa
Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả
hay Giacôbê Tiền. Tên của ông không rời xa tên em ông là Gioan trong Mark
1:19-20; Mt 4:21, và Luca 5:1-11. Ông là Tông Đồ đầu tiên bị tử đạo.
Là ngư phủ sinh sống
quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng em đã bỏ chài lưới đi theo
Chúa Giêsu khi Người gọi hai ông, lúc hai ông đang vá lưới dưới thuyền với cha
mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.
Tương truyền rằng
ông đã sang tận Tây Ban Nha rao giảng Phúc Âm, nhưng sau về lại Giuđêa. Ông
được cho là Giám Mục Giêrusalem, bị quận vương Herod Agrippa I chém đầu năm 44
AD., và được an táng ở Giuđêa (Tông Đồ Công Vụ 12:2). Hippolytus xác nhận cái
chết của ông. Eusebius cũng cho biết ông chết theo sau Stêphanô, vị phó tế đầu
tiên bị ném đá.
Lý do ông bị chết vì
Herod Agrippa I, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với
người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt
và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm
của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với
Giacôbê. Ông để lại 1 Thánh Thư trong bộ Thánh Kinh Tân Ước.
4.Gioan: Em của Giacôbê con
ông Zebedee. Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có
nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân
làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Luca 9:51-54). Mẹ ông đã có lần xin
Chúa cho anh em ông được ngồi hai bên tả hữu trong nước của Ngài (Mark
10:35-37). Ông là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực Chúa trong bữa
tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ
con.” (Gioan 19:24-27)
Ông là đầu của giáo
hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu.
Theo truyền thống Latin, ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi trước đó khi
ở Rôma.
Trong cuộc bách hại
của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Ông viết Phúc Âm và
viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian lưu đày ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải
Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước. Theo Hippolytus, tuy bị lưu đày tại
đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng năm 100 AD.
5.Philípphê: Philip người
Bethsaida là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ông là
người cùng quê với các ông Andrê và Phêrô (Gioan 1:44). Ông rao giảng Tin Mừng
ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm
80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.
Philip là người thứ
năm trong số 12 tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn: “Hôm sau, Đức Giêsu quyết
định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi.”
(Gioan 1:43) Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu
cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã
bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem.” (Gioan 1:46) Và Nathanael cũng được Chúa tuyển
chọn làm Tông Đồ.
Ông được Phúc Âm
nhắc đến nhiều ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Người muốn thử
xem ông phải làm gì (Gioan 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp
Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ
với Chúa Giêsu (Gioan 12:20-22). Xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa
Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Gioan 14:8-11).
Sau khi Chúa về trời
Tông Đồ Công Vụ ghi, ông đã tới Samaria ở đó rao giảng Tin Mừng và thực hiện
những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts
8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã gặp một người
Ethiopia tại Gaza, vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace và đã
rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8).
Cũng theo Tông Đồ Công Vụ thì Philip có 4 người con gái sống đời đồng trinh và
đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).
6.Nathanael/Barthôlômêô: Ông là người từ
Cana, Galilee với tên gọi Nathanael. Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau
khi Chúa về trời, Barthôlômêô sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền
thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotania,
Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và
sau này đến Greater Armenia.
Theo truyền tụng đại
chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến
truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Nãi năm 60 AD,
Barthôlômêô cũng đã đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến nơi, ông đã mang theo
Phúc Âm của Mátthêu, và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô
tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.
Nhiều tài liệu khác
nhau về cái chết của ông, một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác thì ông
bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do
vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.
7.Mátthêu: Mátthêu cũng còn gọi
là Levi, con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước
khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông viết Phúc Âm cho
người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông
được viết bằng tiếng Do Thái.
Theo một số truyền
thuyết ông đã đến rao giảng tại Ethiopia, và một số khác cho rằng ông cũng đã
đến Persia và Parthia. Ông tử đạo khoảng năm 68 AD tại Ethiopia bằng một lưỡi
gươm đâm thâu. Cũng có truyền thuyết cho rằng ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng
do một tên hành quyết được vua Hertacus cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống
luân lý của vua.
8.Tôma: Thomas cũng gọi là
Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc
Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ trong Bữa Tiệc Ly, ông đã thẳng thắn hỏi Chúa:
“Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường.” (Gioan
14:5) Cũng trong Tin Mừng Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã thấy Chúa
sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những
vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin. Nhưng Chúa
đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này
không được diễm phúc nhìn thấy Chúa như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy
thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin.” (Gioan 20:29) Cũng
do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức
Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.
Theo Hippolytus,
Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm
cho người Parthians, Medes, Persians, Hyrcanians, và người Bactrian-Margianian.
Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Truyền thống cho là ông đã sang tới mãi
tận Ấn Độ, và những Kitô hữu Marthoma xa xưa đón nhận ông như đấng sáng lập.
Ông bị đâm bằng một
lưỡi đòng trong lúc đang cầu nguyện tại Chennai, Ấn Độ ngày 3 tháng Bảy năm 72
AD., và được an táng tại Mylapore, bờ biển đông Ấn Độ. Truyền thống Giáo Hội
Latin cho rằng ông tử đạo ngày 21 tháng Mười Hai. Ông đã để lại một cộng đoàn ở
đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.
9.Giacôbê: Con của Alphaeus chứ
không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với
Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mark 3:14-19, Luca 6:13-16,
và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu
và thấy mộ trống trong buổi sáng Phục Sinh. Ông được gọi là Giacôbê Trẻ hay
Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan. Cũng
vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Matthêu.
Sau khi Chúa về
trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những
vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi.
Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá. Sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy.
Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và
ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.
10.Simon Nhiệt
Thành: Giám mục Giêrusalem sau Giacôbê. Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi
là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành. Ông không thuộc những người
Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma. Ông là con của Clopas. Theo
Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh
Demetrius thành Rostov cũng xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.
Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị
Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria.
Các tài liệu không
đồng nhất về những nơi ông đã rao giảng Tin Mừng. Có tài liệu nói là ông đã đi
tới tận Anh quốc. Tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì cho rằng ông giảng đạo tại Hắc
Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng theo tài liệu Latin “Passio Simonis
et Judae”, ông sống tại Persia và tử đạo tại Suanir, còn nơi an táng của ông
không ai biết. Theo những người Kitô giáo Ethiopians thì ông bị đóng đinh tại
Samaria, trong khi Justus Lipsius viết rằng ông bị cưa đôi tại Suanir, Persia.
Ông bị giết vì đã từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời.
Ông cũng được cho
rằng cùng với Jude (Thaddaeus) giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut,
Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD. Một tài liệu khác lại cho rằng, ông bị
đóng đanh thập giá năm 74 AD. Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude
(Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông là bổn mạng
những người thuộc da.
11.Giuđa/Thaddaeus: Con của Giacôbê. Rao
giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực
Mesopotamian (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng
tên tại Ararat.
Thánh Giêrônimô gọi
Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Mark 3:18 ông được gọi
là Thaddeus. Trong Mátthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái
tim được sưởi ấm). Trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như
Juda anh em của Giacôbê.
Theo Hippolytus, sau
khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên
Mesopotamia) và cả vùng Mesopotania. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và
Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.
Trong Tân Ước (John
14:22). Ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho
chúng con mà không cho thế giới”. Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được
biết Chúa Kitô. Ông cũng để lại 1 thư trong số các Thánh Thư của Tân Ước.
12.Mátthia: Theo tiếng Hy
Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa
Giêsu từ đầu, lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến
khi Ngài về trời (Acts 1:21-22).
Sau khi Chúa về
trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa
Matthias và Giuse còn gọi là Barsabus, người có tên họ là Justus. Matthias được
chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để giữ con số Tông Đồ là 12 như lúc ban đầu,
nhưng ông không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.
Ông được cho là đã
tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu
tiên giảng Tin Mừng ở Judea, rồi sau đó ở Aethiopia (miền Colchis, thuộc
Georgia ngày nay), và bị ném đá chết. Một truyền thống khác cho rằng ông bị
người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sau đó bị chém đầu. (cf. Tillemont,
Mémoires pour servir à l'histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I,
406-7). Ông cũng được cho là đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và
Cappadocia. Theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám
Mục Giêrusalem.
Những tin tức liên
quan đến cuộc sống và cái chết của ông không rõ ràng. Theo Nicephorus (Lịch Sử
Giáo Hội II.40) cho rằng đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới
Ethiopia và ông bị đóng đinh ở đó. Nhưng theo Dorotheus thì Matthias rao giảng
Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển
Hyssus tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis và được an táng gần
Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.
13.Phaolô – Tông Đồ Dân
Ngoại. Ông được Chúa Giêsu gọi khi đang trên đường ông đến Damas bắt bớ các
Kitô hữu. Ông đã tự giới thiệu mình là Tông Đồ với giáo đoàn Êphêsô: “Tôi,
Phaolô, tông đồ của Chúa Giêsu Kitô theo thánh ý của Thiên Chúa.” (Ephesians
1:1; 1 Corinthians 1:1; 2 Corinthians 1:1; Galatians 1:1)
Ông tên là Saul
(Saulê). Ông sinh năm c.5 AD. Tại Tarsus, Cilicia thuộc Đế Quốc Rôma, ngày nay
là Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tử đạo năm c. 64/65 AD., tại Roma, Ý, thuộc Đế Quốc
Roma. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành được xây trên nơi ông đã
bị chém đầu.
Phaolô bị chặt đầu
bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàng đế Neron
năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, việc trở lại diệu kỳ
của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của
ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và 13 thư do ông viết trong Tân Ước.