Vincent Mai Văn Phấn
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, tôn giáo và văn
chương đã thiết lập mối liên kết thiêng liêng, bền vững và sâu sắc, hòa quyện
giữa khát vọng hướng thượng và cảm thức nghệ thuật. Mối tương liên này không
chỉ xây dựng đức tin và động lực sống mà còn thắp lên trong mỗi con người niềm
hy vọng về một tương lai bình an, nơi những giá trị nhân văn và chân lý được
tôn vinh. Tôn giáo là cuộc hành trình truy cầu chân lý tuyệt đối, ánh sáng vô
biên và nguồn cội của sự sống; trong khi văn chương mở ra những chân trời mới,
giúp người đọc khám phá bản thân mình và thế giới xung quanh. Cảm thức tôn giáo
trong văn học thể hiện khát vọng lớn lao của nhân loại về niềm tin và chân lý,
góp phần hình thành hệ tư tưởng, các giá trị và bản sắc văn hóa bền vững qua
thời gian.
Đạo Công giáo
bắt đầu hiện diện tại Việt Nam từ khoảng thế kỷ XVI. Theo cuốn "Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục" (soạn dưới triều vua Tự Đức từ năm 1856,
quyển 33, phần chính biên, tờ 5-6), vào khoảng năm 1533, một giáo sỹ người Tây
Ban Nha tên là I-nê-khu (Ignacio theo tiếng Tây Ban Nha) đã đến truyền đạo
Giatô tại các làng Ninh Cường, Quần Anh (huyện Nam Chân) và Trà Lũ (huyện Giao
Thủy), thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Năm 1533 được xem là năm khởi đầu đánh dấu
ánh sáng Tin Mừng đến Việt Nam. Đến năm 1615, giai đoạn truyền giáo mới chính
thức được mở ra khi hai tu sĩ Dòng Tên là Francesco Buzomi (người Ý) và Diego
Carvalho (người Bồ Đào Nha) đã tới Đà Nẵng, thiết lập địa điểm truyền giáo tại
xứ Đàng Trong (miền Trung, dưới thời Chúa Nguyễn). Và tại xứ Đàng Ngoài (miền
Bắc, dưới thời Chúa Trịnh), công cuộc loan báo Tin Mừng chính thức và liên tục
chỉ bắt đầu từ năm 1627 với hai vị thừa sai là Pedro Marquez (người Bồ Đào Nha)
và Alexandre de Rhodes (người Pháp). Sứ vụ truyền giáo của các giáo sỹ phương
Tây đã mang lại những ảnh hưởng sâu sắc, mở rộng đức tin Công giáo và đặt nền
móng cho việc hình thành, phát triển chữ Quốc ngữ của Việt Nam.
Từ khi có Đạo Công giáo, đức
tin Kitô giáo đã tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của một bộ phận người
Việt, đặc biệt, góp phần làm phong phú và thay đổi diện mạo văn học Việt Nam. Các tác phẩm văn
học Công giáo, từ thơ ca, văn xuôi đến văn học giáo lý, dần hình thành và phát
triển, mang theo tinh thần và giáo huấn Kitô giáo. Điều này không chỉ tạo nên
một dòng chảy văn học tôn giáo mà còn góp phần làm phong phú nền văn học nước
nhà với các đề tài mới mẻ về đức tin, lòng mến, và niềm hy vọng. Nhân đức tin,
tình yêu thương, sự khiêm nhường và lòng bác ái của đạo Công giáo được thể hiện
rõ nét trong văn học Công giáo, tạo nên những tác phẩm ca ngợi Thiên Chúa và
các giá trị nhân bản. Văn học Công giáo cũng tạo nên những lối viết độc đáo,
kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ giáo lý, khiến cho những giáo huấn
Kitô giáo trở nên gần gũi với người dân Việt Nam. Đồng thời, chữ Quốc ngữ - một
công cụ mà các vị thừa sai đã dày công phát triển - không chỉ là phương tiện truyền
giáo mà còn trở thành nền tảng văn hóa quan trọng, thúc đẩy văn học phát triển
theo hướng mới. Qua đó, đạo Công giáo đã tạo nên một môi trường tinh thần, giúp
con người hướng về sự siêu việt, tìm kiếm chân lý và cảm nhận sự hiện diện của
Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
Từ thế kỷ XVI
đến nay, mối quan hệ giữa tôn giáo và văn chương Việt Nam luôn gắn bó, liên kết
chặt chẽ. Văn chương vừa là phương tiện thể hiện đức tin vừa là cầu nối đưa các
giá trị Kitô giáo hòa nhập vào đời sống và tâm hồn con người. Qua từng thời kỳ,
văn học Công giáo đã phản ánh khát vọng về tình yêu Thiên Chúa, lòng bác ái, và
hy vọng vào cuộc sống đời đời, đồng thời mang đến cho nền văn học nước nhà
những sắc thái độc đáo, chứa đựng chiều sâu tâm linh và sự hướng thiện. Theo
dòng lịch sử, đức tin Công giáo trong văn chương Việt Nam cũng trải qua nhiều
thăng trầm. Từ buổi đầu đón nhận Tin Mừng, văn chương Công giáo đã nảy nở trong
sự giao thoa với văn hóa truyền thống Việt Nam, tạo nên những tác phẩm hài hòa
giữa đức tin và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, có những thời kỳ đầy biến động, đức
tin Công giáo gặp những thử thách, và văn chương Công giáo chịu nhiều áp lực,
thậm chí bị gián đoạn. Dẫu vậy, qua mọi cung bậc, văn chương Công giáo vẫn kiên
trì và lặng lẽ hòa vào dòng chảy văn học nước nhà, tiếp tục truyền tải tinh
thần Kitô giáo qua ngôn ngữ của tình yêu, sự hy sinh, và niềm tin vĩnh cửu vào
Thiên Chúa, vào những giá trị tốt đẹp của thế gian.
Với Công giáo Việt Nam, cảm thức đức tin Thiên Chúa và
những biến chuyển tinh thần trong văn chương được thể hiện rõ trong diễn trình
thơ Công giáo từ năm 1975 đến nay. Cảm thức ấy biểu hiện qua khát vọng cứu rỗi,
an bình và hy vọng trước những biến động không ngừng của thời cuộc khi các giá
trị xã hội và văn hóa liên tục thay đổi.
Thơ đương đại Việt Nam, qua những biến chuyển trước và
sau năm 1975, đã đón nhận Đạo Công giáo không chỉ như một biểu hiện của niềm
tin vào Thiên Chúa mà còn như một nguồn mạch nghệ thuật phong phú và sinh động,
góp phần định hình sắc thái độc đáo cho thi ca. Những tác phẩm thơ ca đã chuyển
tải sâu sắc các câu hỏi về sự tha thứ, tình yêu thương vô điều kiện, và lòng
tin tuyệt đối vào Thiên Chúa như một điểm tựa tinh thần thiêng liêng, bền vững
trong cuộc sống. Các hình tượng này biểu trưng cho lòng khao khát tìm kiếm chân
lý, ánh sáng, và định hướng cho con người trước mọi nghịch cảnh.
"Bỗng
nghe một tiếng chuông buông
Xa
xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang
lên cao vút tầng mây
Rồi
ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng…"
("Chuông
chiều" – Xuân Ly Băng[1])
Bốn câu thơ trên của nhà thơ Xuân Ly Băng khơi dậy những xúc cảm sâu sắc
về một không gian tâm linh tràn đầy ân thánh. Tiếng chuông mở ra một không gian
vời vợi và thanh tĩnh, dẫn dắt con người tới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Âm
thanh ấy đưa ta về với đức tin Thiên Chúa, về với giá trị tinh thần, khuyên nhủ
con người dừng lại, suy ngẫm và mở lòng đón nhận những điều tốt đẹp; nó kết nối
con người với điều thiêng và cái đẹp, khiến tinh thần con người như được thanh
tẩy, tràn ngập tình yêu và niềm tin Thiên Chúa.
Sau năm 1975, xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng,
với nhiều biến động trong đời sống đức tin. Thời kỳ hậu chiến đưa đến những
thách thức mới trong tư duy và văn hóa, từ đó dẫn đến những hạn chế trong việc
khám phá các thi pháp sáng tác mới hay mở rộng những quan niệm thẩm mỹ vốn được
định hình trước đó. Trong bối cảnh này, những tác phẩm có nội dung liên quan
đến đức tin Thiên Chúa thường được thể hiện qua các biểu tượng, ẩn ý gián tiếp.
Khát vọng bình yên và lời cầu nguyện – những biểu trưng của đức tin – thường
được diễn đạt qua phép ẩn dụ nhằm biểu đạt những cảm xúc phức rối và đa tầng,
như nỗi nhớ, sự trăn trở, và cả nỗi đau do hệ lụy chiến tranh vừa qua.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cảm hứng tôn giáo vẫn luôn là nguồn mạch
tâm linh, là phương tiện cần thiết để các nhà thơ Công giáo khám phá chiều sâu
tâm hồn, phản ánh nỗi đau, sự hoài nghi và niềm hy vọng về một đời sống công
bằng, bác ái... Theo tác giả Nguyễn Vy Khanh, tác phẩm văn chương Công giáo
Việt Nam bao gồm hai loại: Một là, “Sách đạo”, tức các tác phẩm giáo lý, tu đức
và kinh sách về đạo Chúa; hai là, “Văn học đạo”, gồm các tác phẩm văn học và
học thuật có nội dung “tải đạo” hoặc chịu ảnh hưởng của Đạo Công giáo. Nói cách
khác, “văn học đạo” là một hình thức “hội nhập văn hóa” của đức tin. Trong các
tác phẩm thuộc thể loại “văn học đạo” có nhiều bài thơ và lời kinh bổn được
chuyển thể thành thơ, thành diễn ca để truyền bá Tin Mừng, đưa Thiên Chúa đến
gần hơn với tha nhân.
Theo thiển nghĩ của tôi, các nhà thơ là tín hữu Công giáo
người Việt không nhiều; trước năm 1975 có thể xướng tên các nhà thơ, Bàng Bá
Lân[2], Hồ Dzếnh[3], Hàn Mặc Tử[4], Quách Thoại[5]...; sau năm 1975 có các nhà
thơ như Lê Quốc Hán[6], Xuân Ly Băng, Lê Đình Bảng[7], Đình Chẩn[8], Trần Vạn Giã[9], Mai Văn Phấn... Ngoài ra, trong cuốn sách
"Những nhà thơ Công giáo Việt Nam hiện nay", tác giả Khải Triều[10]
đã khảo cứu thơ của một số tác giả Công giáo như Trần Mộng Tú[11], Bùi Đức Dung[12],
Dzuy Sơn Tuyền[13], Hàn Lệ Thu[14], Ngọc Tự[15], Thanh Chương[16]...
Sau Đổi Mới
(1986), các nhà thơ được cởi mở hơn trong cách biểu đạt đức tin Thiên Chúa. Thơ
ca giai đoạn này ngày càng phản ánh sâu sắc những trăn trở về vai trò của
Thượng Đế, khi các tác giả không chỉ nhìn nhận Ngài qua hệ thống tín lý mà còn
qua lăng kính của những trải nghiệm cá nhân. Nhiều nhà thơ, kể cả một số nhà thơ không phải người Công giáo đã sử
dụng hình ảnh Thiên Chúa như một biểu tượng của sự cứu rỗi, điểm tựa tinh thần
giúp họ đối diện với những thử thách trong cuộc sống. Thiên Chúa không chỉ xuất
hiện như Đấng-Tối-Cao mà còn đồng hành, gần gũi con người trong những khoảnh
khắc đớn đau, mất phương hướng. Bài thơ "Hạt bụi" dưới đây của nhà
thơ Lê Quốc Hán mang đến cái nhìn sâu sắc về tình yêu, đức tin và sự tồn tại,
qua đó diễn đạt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa, tình yêu và ý nghĩa
cuộc sống.
"Phải ngày xưa chúng mình hai hạt bụi, ở
hai vì tinh tú xa xôi, một ngày kia qua hơi thở Chúa Trời, quằn quại hóa đôi
linh hồn bất diệt.
Hai hạt bụi chẳng thể hòa làm một, nên suốt đời vờ vật ở bên nhau, đôi
linh hồn sinh bởi một phép màu, nên muôn kiếp muốn tan vào một biển...
... Xin Chúa Trời hãy rộng lòng tha thứ, khi
chúng con muốn vươn tới gương Người, dao tình yêu tách hạt bụi làm đôi, thổi
vào đó một linh hồn bé bỏng."
("Hạt bụi" – Lê Quốc Hán)
Hình ảnh "hạt bụi" vừa ẩn dụ sự nhỏ bé, mong
manh của con người trong vũ trụ, vừa biểu tượng cho sự nguyên sơ và mối liên
kết sâu sắc với Đấng-Tạo-Hóa. Sự mâu thuẫn trong tình yêu của hai "hạt
bụi" – dù "chẳng thể hòa làm một" mà vẫn "vờ vật
ở bên nhau" – gợi nỗi khắc khoải, khát vọng gắn bó của hai tâm hồn.
Tình yêu ở đây được nhà thơ nâng lên thành cuộc hành trình tâm linh đầy ý
nghĩa, một phép màu mà đôi lứa khao khát đạt được. Bài thơ khép lại với lòng
biết ơn và ngưỡng vọng, gửi gắm niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa như một phép
lạ màu nhiệm. "Hạt bụi" không chỉ ngợi ca tình yêu đôi lứa mà còn
xưng tụng đức tin Thiên Chúa và mối liên hệ thiêng liêng giữa con người với
Đấng-Tạo-Hóa. Bài thơ khai thác chiều sâu tâm linh, vượt qua những khác biệt và
sự mong manh của kiếp người, từ đó gửi gắm niềm tin vào sự vĩnh cửu, vượt qua
ràng buộc của thời gian.
Thơ ca Công giáo sau Đổi mới không chỉ thể
hiện lòng sùng kính Thiên Chúa mà còn đi sâu khám phá các trăn trở, xung đột
nội tâm trong đời sống tâm linh. Các tác phẩm chú trọng đến ý thức trách nhiệm
cá nhân trong cộng đồng, qua đó truyền tải những dòng thơ mang đậm màu sắc suy
tư và chiêm nghiệm về ý nghĩa sự cứu rỗi. Những biểu tượng như thập giá, thiên
đường, địa ngục, thánh đường, tín hữu,... đã trở thành chất liệu phong phú
trong sáng tạo văn chương, đặc biệt thơ ca. Các biểu tượng này đóng vai trò như
những tấm gương, khung tham chiếu nghệ thuật, giúp thơ ca khai phá chiều sâu
tâm lý và những bí ẩn trong thế giới nội tâm.
Trong thơ đương đại Việt Nam, đạo Công giáo vừa là nguồn
cảm hứng tâm linh vừa là phương tiện mở rộng chiều kích tâm hồn. Qua những vần
thơ nguyện cầu, tụng ca Thiên Chúa, các nhà thơ không chỉ xem tôn giáo là nơi
trú ngụ cho niềm tin và tinh thần, mà còn là hành trình tự vấn, nơi họ đối diện
với những khắc khoải, yếu đuối và khát vọng. Hình ảnh Thiên Chúa trong thơ trở
thành biểu tượng không chỉ của quyền năng mà còn của tình yêu thiêng liêng và
lòng trắc ẩn, phản ánh sự hòa quyện giữa sức mạnh thần thánh và cảm thức nhân
văn.
"Tôi làm thơ nghĩa
là tôi cầu nguyện
Hồn reo vui trong từng
chữ từng lời
Trong đất mầu đương vỡ
vạc sinh sôi
Trong cây lá vươn sức
dài vai rộng"
("Tôi làm thơ nghĩa
là tôi cầu nguyện" – Lê Đình Bảng);
"Tôi quỳ lạy Chúa
trên cao
Dẫn dìu tôi kẻo sa vào
tối tăm
Thế mà tôi tưởng xa xăm
Hóa ra Người ở âm thầm
trong tôi"
("Chúa ở trong
tôi" – Lê Đình Bảng)
Hai đoạn thơ trên của nhà thơ Lê Đình Bảng đã khắc họa
thơ ca như nhịp cầu giữa Đấng-Tối-Cao và con người, là hành trình thiêng liêng
nơi tâm hồn nhà thơ kết nối với những điều cao cả. Những hình ảnh đất đai, cây
cỏ và nghi thức cầu nguyện đã gợi lên khung cảnh Vườn
Địa đàng, nơi không chỉ có vẻ đẹp tinh khôi mà còn tràn đầy lòng nhân từ và an
nhiên trong mọi tạo vật; chúng giúp người đọc cảm nhận rõ nét sức mạnh và vẻ
đẹp của nhân đức tin khi hòa quyện trong nghệ thuật thơ ca. Từ nghi thức “quỳ lạy Chúa trên cao” đến
nhận thức “Người ở âm thầm
trong tôi”, tác giả đã miêu tả sự chuyển biến từ một nhận thức bên
ngoài về Thượng Đế đến sự giác ngộ sâu sắc bên trong. Nhà thơ nhận ra rằng, Thiên
Chúa luôn trong trái tim mỗi người, một sự hiện hữu gần gũi mà không phải ai
cũng dễ dàng cảm nhận. Hình ảnh này không chỉ biểu đạt chiều sâu tâm linh, mà
còn phản ánh tâm thức con người khi tìm kiếm ánh sáng từ bên trong để vượt qua
những thử thách của cuộc sống.
Trong hành trình đến với Chúa, cái tôi trong thơ được dâng hiến trọn vẹn
cho đức tin, cho nghệ thuật và sáng tạo. Các nhà thơ Công giáo đã liên kết hài
hòa cái tôi thi nhân với cái tôi tín hữu, tìm thấy trong đức tin những phẩm
hạnh đẹp đẽ của giá trị văn hóa, tinh thần – không xa lạ, mà hiện hữu trong
những điều bình dị của cuộc sống thường nhật. Khổ thơ dưới đây của nhà thơ Trần
Vạn Giã bộc lộ niềm tin tôn giáo, tình yêu nơi đời thường và hy vọng vào một
tương lai hứa hẹn.
"Tôi tin nơi bến đợi sông chờ
Nơi tôi sống ngày mai mặt trời vẫn đến
Tin năm con cá và hai chiếc bánh
Sáng lên trong lời kinh Thánh
Ấm lên bên bếp lửa hoàng hôn
Tôi bắt chước Chúa thổi vào xương sườn vợ tôi
...
Đất mới
Trời mới
Em hãy cùng anh tin còn mùa gặt mới.”
("Năm chiếc bánh và hai con
cá" – Trần Vạn Giã)
Hình ảnh "năm con cá và hai
chiếc bánh" gợi nhắc một câu chuyện kỳ diệu trong Kinh Thánh về phép
lạ của Chúa Giê-su, khi Ngài cho một đám đông lớn được ăn no đủ. Câu chuyện này
đã trở thành biểu tượng cho lòng tin, sự sẻ chia và phép màu trong đức tin
Thiên Chúa, nó nhấn mạnh rằng những điều tưởng chừng nhỏ bé cũng có thể tạo ra
kết quả vĩ đại khi được Chúa tác động. Câu thơ “Tôi bắt
chước Chúa thổi vào xương sườn vợ tôi” trong bài chứa đựng ý niệm sâu sắc
về tình yêu và sự gắn bó vợ chồng. Tác giả mượn hình ảnh Thiên Chúa tạo ra bà Eva
từ xương sườn của ông Adam để thể hiện tình yêu bền chặt và thiêng liêng giữa
người nam và người nữ. Cách diễn đạt này nhấn mạnh sự hòa quyện giữa tình cảm
cá nhân và niềm tin tôn giáo, và, tình yêu cũng chính là một phép màu của tạo
hóa. Hình ảnh tôn giáo kết hợp với đời sống thường nhật đã tôn vinh niềm tin
trong những giá trị vĩnh cửu: tình yêu, gia đình và hy vọng về một tương lai
tràn đầy ơn thánh.
Đức tin Thiên Chúa không chỉ là tín ngưỡng, mà còn là
nguồn cảm hứng vô tận. Niềm tin ấy được khắc họa như một hành trình tinh thần, phản
ánh sự đấu tranh giữa khát vọng và đau khổ, lòng cậy trông và sự cứu rỗi. Nhiều
tác phẩm đã vẽ nên bức tranh đa chiều về con người trong diễn trình tìm kiếm
chân lý và sự bình an giữa những biến cải thế gian, khắc họa hình ảnh Thiên
Chúa vừa là ánh sáng dẫn lối vừa là tình yêu vô bờ bến dành cho nhân loại. Chính
những hình ảnh này đã tạo ra một cầu nối vững bền giữa tôn giáo và văn chương,
giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về đức tin và thấy được giá trị của chính
mình trong bức tranh lớn của cuộc sống.
"...Tôi đứng mãi đàng
xa, tít tắp
Chờ bầy chim trắng thoáng
bay qua
Chúa ôi, ai nấy đều tăm
tắp
Như suối, như sông chảy
thật thà..."
(“Ngày mai, Lễ khấn dòng”
– Lê Đình Bảng)
Đoạn thơ trên của nhà thơ Lê Đình Bảng vẽ nên cảnh tượng
mang tính tượng trưng về hành trình tinh thần, nơi mà lòng thành kính và đức
tin Thiên Chúa được phác họa qua hình ảnh "bầy chim trắng" –
biểu trưng cho sự thanh khiết, hồn nhiên và khát vọng hướng về cõi thiêng. Hình
ảnh ấy được sử dụng như một biểu tượng của tâm hồn thanh sạch và khao khát
thăng hoa tinh thần. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế để biểu đạt niềm tin
sâu sắc và bền bỉ vào Thiên Chúa, đồng thời mở ra một không gian tinh thần vô
biên, nơi đức tin được hình dung là nguồn sáng và nơi an bình vững bền.
Bài thơ này nằm trong tập thơ "Và Em, Lễ khấn
dòng" (Tủ sách Tuổi hoa, 2024), đây là thi tập ca ngợi tình yêu thế tục trong không gian của đạo Chúa, nơi hòa
quyện hương sắc trần gian với cõi thiêng. Thơ của Lê Đình Bảng trong thi tập
này phảng phất giữa đạo và đời, với những câu thơ vương vất mối tình nam nữ mà
kết lại trong tình yêu Thiên Chúa:
"Lệ mùa rơi đoá Thu phong ấy
Hương ngọc lan ủ dưới gối nằm
Chợt nửa khuya, mơ hồ tỉnh giấc
Đêm thơm như là đoá từ tâm."
("Ngọc
lan hương" – Lê
Đình Bảng)
Dấu ấn Đạo Công giáo trong thơ đương đại Việt Nam
từ 1975 đến nay cho thấy các nhà thơ đã thay đổi cách tiếp cận đức tin và các
giá trị văn hóa tôn giáo. Sau Đổi mới, thơ Công giáo không chỉ miêu tả sự sùng
kính Thiên Chúa mà còn phản ánh những trăn trở nội
tâm trước thực tại đời sống. Các tác phẩm nhấn mạnh ý thức trách nhiệm cá nhân
trong cộng đồng, qua các dòng thơ đậm chất suy tư, chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc
sống và sự cứu rỗi. Những chuyển biến trong đời sống văn hóa và
xã hội đã làm phong phú thêm dòng thơ về đức tin Thiên Chúa, mở rộng không gian
sáng tạo. Giai đoạn này, đức tin, nội tâm và những suy tư của các nhà thơ về
Thiên Chúa, không chỉ qua hình ảnh của một Thượng Đế thiêng liêng, mà Ngài còn
hiện thân như một Người bạn đồng hành trong cuộc sống thường nhật của con
người. Với lý trí, ý chí và tự do, con
người được mời gọi hiệp hành cùng Thiên Chúa, kiến tạo một mối quan hệ sâu sắc
hơn để khám phá những giá trị cao quý, thiêng liêng. Dòng thơ về đức tin Thiên
Chúa từ đó được cá nhân hóa hơn, phản ánh khát vọng tâm linh một cách đa dạng
và sâu sắc hơn. Thơ ca không chỉ tôn vinh niềm tin theo truyền thống mà còn kết
hợp với triết lý Đông phương, mở rộng tầm nhìn. Thiên Chúa hiện ra trong thơ,
vừa là Đấng-Toàn-Năng vừa biểu tượng cho sự hòa hợp, bình an và tự do nội tại,
dẫn dắt con người trên hành trình tìm về nơi bình yên, hạnh phúc. Các chủ
đề về hiệp hành, tha
thứ, hòa giải đã làm cho hình ảnh Thiên Chúa trở nên gần gũi và thiêng liêng,
đồng thời mở ra nhãn quan mới mẻ, đa chiều cho không gian thơ.
"Có ai thương con bằng khối tình muôn
thuở
Khi kiếp nhân sinh hơi thở vô thường
Từ ngàn xưa khi chưa có trời đất
Rồi đến ngàn sau...
Nào ai trọn tình thương?"
("Muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương" – Đình Chẩn)
Đoạn
thơ trên của dịch giả, nhà thơ Đình Chẩn vừa
ngợi ca tình yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa, vừa suy tưởng sâu sắc về kiếp người
vô thường theo tư tưởng Á Đông; từ đó mở ra một không gian thơ lành thánh, nơi
tâm hồn con người được ôm ấp trong tình thương bao la, trường tồn của Thiên
Chúa. Câu thơ "Có ai thương con bằng khối tình
muôn thuở" ngợi ca, tôn vinh tình thương vô biên của Thiên Chúa, vượt
qua mọi giới hạn thời gian và không gian. Quan niệm của tác giả về "kiếp
nhân sinh hơi thở vô thường" phản ánh rõ triết lý Á Đông, cho rằng đời sống ngắn ngủi,
mọi thứ đều trôi qua và thay đổi.
Cũng cần phải nói thêm, Đình Chẩn là bút
danh của Linh mục Giuse Trần Văn Đỉnh, người công giáo đầu tiên đã chuyển ngữ
bản “Thần khúc” của nhà thơ kiệt xuất Dante Alighieri (1265-1321, của nước Ý)
từ nguyên tác tiếng Ý sang tiếng Việt.
Mặc dù trước ông đã có một số bản dịch tác phẩm này, nhưng cho đến nay bản dịch
của ông là bản dịch đầy đủ và trung thành nhất với nguyên tác "Thần
khúc" của Dante. Đình Chẩn không chỉ chuyển ngữ mà còn chú giải tỉ mỉ các
đoạn khó hiểu hoặc xa lạ với văn hóa Việt Nam, đồng thời ông ghi chú chi tiết
từng điển tích, tên riêng, những ám chỉ, ẩn dụ trong kiệt tác này. Đình
Chẩn sinh năm 1982. Năm 2009, ông được bề trên cử sang Ý tu học tại Đại học
Giáo hoàng Urbaniana ở Rôma. Sau tám năm học tập ở Ý, ông đã thực hiện một số
bản dịch, trong đó có tập thơ của Thánh nữ Teresa. Với kiến thức sâu rộng về
Kinh thánh và văn chương Đông – Tây, Đình Chẩn đã giúp độc giả cảm nhận được
cái đẹp của nguyên tác gần như trực tiếp, và vượt qua được những khác biệt về văn hóa. Bản dịch
"Thần khúc" của Đình Chẩn đã đóng góp ý nghĩa lớn lao vào kho tàng
văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học Công giáo.
* * *
Tôn giáo và nghệ thuật, đặc biệt là văn chương, có mối
quan hệ khăng khít, lâu đời, tạo nên một dòng chảy tinh thần và tư tưởng phong
phú trong lịch sử văn hóa nhân loại. Từ xưa đến này, tôn giáo luôn là nguồn cảm
hứng bất tận cho tác phẩm nghệ thuật, trong đó có thơ, khi con người tìm cách
diễn đạt đức tin, những câu hỏi về sự tồn tại, và ước vọng về một thế giới lý
tưởng. Ngày 4/4/1999, trong Tông thư của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II gửi các
văn nghệ sĩ toàn cầu đã viết: “Tôi mời gọi anh chị em hãy khám phá lại chiều
sâu tâm linh và tôn giáo, vốn là nét điển hình của nghệ thuật từ xưa tới nay
dưới những hình thức cao quý nhất. Nghĩ như thế, nên tôi kêu gọi anh chị em
nghệ sĩ: nghệ sĩ của chữ viết và lời nói, của sân khấu và âm nhạc của tạo hình
và thông tin theo các kỹ thuật tiên tiến nhất. Còn các nghệ sĩ Kitô giáo, tôi
cũng xin có lời hiệu triệu đặc biệt đối với các bạn: tôi muốn nhắc anh chị em
nhớ rằng, ngoài những suy nghĩ nặng tính chức năng trên đây, ta còn thấy có một
sự liên minh chặt chẽ và luôn luôn giữa Tin Mừng và nghệ thuật, nghĩa là các
bạn được mời sử dụng trực giác sáng tạo của mình để đi sâu vào mầu nhiệm Thiên
Chúa Nhập Thể và đồng thời, đi sâu vào mầu nhiệm con người"[17].
Như thế, ta thấy
chính Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã đề cao vai trò của văn chương nghệ
thuật trong việc biểu đạt đức tin tôn giáo. Lời dạy của Đức Giáo Hoàng chính là
sự khích lệ các văn nghệ sĩ trải nghiệm đức tin thông qua nghệ thuật.
Thơ Công giáo
Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay đã trải qua giai đoạn dè dặt và bước ra cánh
cửa mở rộng sau Đổi mới, thơ đã mang những đặc tính thiêng liêng của đức tin,
kết hợp sâu sắc giữa đức tin và đời sống con người. Sự lan tỏa đức tin Thiên
Chúa trong thơ đương đại cho thấy sức hút và sự đa dạng của chủ đề này; nó minh
chứng cho khả năng biểu đạt phong phú và rộng mở của thơ ca về tâm linh và niềm
tin tôn giáo. Đức tin Thiên Chúa không chỉ mang ý
nghĩa thiêng liêng mà còn mở ra một không gian lành thánh để con người hiện đại
khám phá và trải nghiệm. Thơ ca về đức tin trước hết dẫn dắt con người đến với
niềm tin tôn giáo, con người có đức tin sẽ được sống cuộc sống thiện lành hơn,
tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Như vậy, thơ ca Công giáo góp phần vào lan tỏa tinh
thần nhân văn, khơi gợi tình yêu thương, lòng khoan dung, và mang đến niềm tin
vào những giá trị tốt đẹp. Đức tin Thiên Chúa trong thơ đương đại được
thể hiện như một diễn trình tìm kiếm hạnh phúc, bình an và sự hòa hợp giữa đời
sống tâm linh với cuộc sống thế tục. Thông qua nghệ thuật thơ ca, các nhà thơ
Công giáo biểu đạt khát vọng sống trọn vẹn với đức tin, đồng thời phản ánh
những trăn trở và hoài nghi của con người hiện đại trước sự tha hóa và suy
thoái của các giá trị đạo đức và văn hóa hiện nay.
Cảm thức tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo trong thơ
đương đại Việt Nam sau 1975, không chỉ kế thừa truyền thống văn chương Công
giáo trước đó, mà còn mở rộng các hình thức biểu đạt, thể hiện mối liên kết bền
chặt và màu nhiệm giữa Thiên Chúa và con người. Thông qua các biểu tượng và cảm
thức tôn giáo, người đọc có thể cảm nhận những xúc cảm thiêng liêng, sâu lắng
cùng khát vọng tìm kiếm ánh sáng Thiên Chúa và sự cứu rỗi. Thơ ca, bên cạnh
chức năng là nghệ thuật ngôn từ, còn đóng vai trò như một nhịp cầu kết nối đời
sống thế tục với thế giới tâm linh, giúp con người khám phá sự giao hòa giữa
ánh sáng của đức tin và những trải nghiệm sống, nơi phản chiếu niềm vui và ân
sủng từ đức tin.
(Do hạn chế nguồn
tài liệu, bài viết này có thể chưa bao quát hết các tác phẩm của các nhà thơ
Công giáo Việt Nam, nên rất mong nhận được những ý kiến góp ý từ bạn đọc.)
Hải Phòng, 30/10/2024
M.V.P
________________
[1] Xuân Ly Băng là bút danh của Đức Ông G.B Lê Xuân Hoa
(1926-2017). Ngài thụ phong linh mục năm 1959 tại Gia Định, từng là Giáo sư
Tiểu Chủng viện Chân Phước Tự, Thủ Đức-Gia Định, Tiểu Chủng viện Sao Biển, Nha
Trang, Tổng Đại diện giáo phận Phan Thiết. Đã xuất bản hơn 20 cuốn sách, trong
đó: "Thơ kinh", "Hương kinh", "Trầm tư",
"Nỗi niềm", "Bài ca thương khó", "Dụ ngôn Phúc
âm", "Như trầm hương", "Kinh trong thời gian",
"Khúc hát ân tình", "Một vùng châu lệ", "Kinh sầu trên
quê hương"…
[2] Nhà thơ Bàng Bá Lân (1912-1988) tên thật là Nguyễn
Xuân Lân, là một tín hữu Công giáo. Sinh tại Tân Minh, Lạng Thương, Bắc Giang.
Đã xuất bản các tập thơ: "Tiếng thông reo" (1934), "Xưa"
(1941), "Tiếng sáo diều" (1939 - 1945), "Để hiểu thơ"
(1956, "Thơ Bàng Bá Lân" (1957), "Tiếng võng đưa"
(1957),... Và các tập truyện: "Người vợ câm", "Vực xoáy",
"Gàn bát sách" (phiếm luận). Từ 1977 viết thêm "Kỷ niệm văn",
"Thi sĩ hiện đại quyển 3", "Hồi ký Trọn đời cho thơ"...
[3] Nhà thơ Hồ Dzếnh (1916-1991), tên thật là Hà Triệu
Anh, là một tín hữu Công giáo. Sinh tại làng Đông Bích, xã Quảng Trường, huyện
Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Tác phẩm đã xuất bản: "Dĩ vãng" (truyện
vừa, 1940), "Quê ngoại" (tập thơ, 1942), "Những vành khăn
trắng" (truyện dài, 1942), "Tiếng kêu trong máu" (truyện dài,
1942), "Một chuyện tình 15 năm về trước" (1943), "Chân trời
cũ"(truyện ngắn, 1943), "Hoa Xuân Đất Việt" (tập thơ,1946),
"Cô gái Bình Xuyên" (truyện vừa, 1946), Cuốn sách không tên (tiểu thuyết
tự truyện, xuất bản sau khi mất).
[4] Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên thật là Nguyễn
Trọng Trí, là một tín hữu Công giáo. Sinh tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình.
Đã xuất bản: "Lệ Thanh thi tập", "Gái Quê" (1936),
"Thơ Điên" (hay "Đau Thương", 1938), "Xuân như
ý", "Thượng Thanh Khí" (thơ), "Cẩm Châu Duyên",
"Duyên kỳ ngộ" (kịch thơ-1939), "Quần tiên hội" (kịch thơ,
1940), "Chơi Giữa Mùa Trăng" (tập thơ-văn xuôi).
[5] Nhà thơ Quách Thoại (1930-1957) tên thật là Đoàn
Thoại, là một tín hữu Công giáo. Thơ của ông thường đăng rải rác trên các báo
xuất bản ở Sài Gòn. Đã xuất bản tập thơ “Giữa Lòng Cuộc Đời” (1963).
[6] Nhà thơ Lê Quốc Hán (1949), là một tín hữu Công giáo,
đồng thời là phó giáo sư, tiến sĩ Toán học. Đã xuất bản: “Lời khấn nguyện”,“Bến
vô cùng”, “Mạc khải”, “Bất biến”, “May”, “Thơ trong ký ức”, “Giao cảm thơ”...
[7] Nhà
thơ Lê Đình Bảng (1942), là một tín hữu Công giáo. Sinh tại làng Đình Bảng, Từ
Sơn, Bắc Ninh. Là một tín hữu Công giáo. Đã xuất bản: "Bước chân giao
chỉ" (Sài gòn 1967), "Hành
hương" (2006), "Quỳ trước đền
vàng" (2010), "Lời tự tình của bến trần
gian" (2012), "Ơn đời một cõi mênh
mang" (2014), "Kinh buồn" (2014), và các bài thơ
được phổ nhạc: "Đội ơn lòng Chúa bao dung" (2012), "Lời
khấn nhỏ chiều Chúa nhật" (2012), "Về cõi trời mênh
mang" (2012). Ngoài ra ông còn là nhà nghiên cứu lịch sử văn học Công
giáo Việt Nam. Đã in “Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường” (2010), và
bộ sách gồm 6 cuốn, 4.088 trang in: “Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam” (2009) do ông sưu tầm, nghiên cứu… Gần đây ông xuất bản tập thơ "Và
em, Lễ khấn dòng", và "Hành hương với hành hương".
[8] Đình Chẩn (1982) là bút danh của Linh mục Giuse Trần
Văn Đỉnh. Ngoài sáng tác thơ, ông còn dịch tập thơ của Thánh nữ Teresa và “Thần
Khúc” của Dante (Nxb. Hồng Đức, 2022)...
(https://phatdiem.org/van-chuong-tho-ca/gioi-thieu-van-hoc-cong-giao-duong-dai-tho-giao-phan-phat-diem.html)
[9] Nhà thơ Trần Vạn Giã (1945) tên thật là Trần Ngọc Ẩn,
là một tín hữu Công giáo. Đã xuất bản các tập thơ: "Tiếng hát những người
đi tới " (1993), "Tuyển tập văn chương viết về lao tù" (1973),
"Hào khí quê ta" (1970), "Miên ca hòa bình" (1971),
"Tình yêu đẹp như bài thơ" (1996), "Gió đưa khói bếp lên
trời" (2004), "Trầm tư với lá" (2006), "Trên chặng đường
thánh giá" (2006), "Lục bát Trần Vạn Giã" (2007), "Lục bát
nhà quê" (2008)...
[10] Nhà thơ-nhà văn Khải Triều (1936) tên thật là Nguyễn
Văn Tùy, là một tín hữu Công giáo. Tác phẩm đã xuất bản bao gồm một số tập thơ,
truyện ngắn, truyện ký, biên khảo, tiểu luận...
(https://vietvanmoi.fr/KHAITRIEU-saigon.html).
[11] Nhà thơ-nhà văn Trần Mộng Tú (1943), là một tín hữu
Công giáo. Sinh tại Hà Đông năm 1943. Là một tín hữu Công giáo. Tác phẩm đã
xuất bản: "Thơ Trần Mộng Tú" (1990), "Câu chuyện của lá phong
(truyện ngắn, 1994), "Để em làm gió (thơ, 1996), "Cô Rơm và những
truyện ngắn khác" (truyện ngắn, 1999), "Ngọn nến muộn màng"
(thơ, 2005), "Mưa Sài Gòn mưa Seattle" (tạp văn, 2006), "Thơ
tuyển Trần Mộng Tú" (2009)...
[12] Nhà thơ Bùi Đức Dung (1942-2021), sáng tác với bút
danh Bùi Kim Phượng, Bùi Thụy. Là một tín hữu Công giáo. Ông đã xuất bản một số
tập thơ và sáng tác nhạc.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
[13] Nhà thơ Dzuy Sơn Tuyền (1946-2021) tên thật là Đinh
Thế Tuyền, là một tín hữu Công giáo. Ông đã xuất bản một thi tập và bài nói
chuyện về đề tài Thi ca và Cầu nguyện.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
[14] Nhà thơ Hàn Lệ Thu (1940-2007) tên thật là Nguyễn
Thị Thu Cúc, là một tín hữu Công giáo. Bà có một số bài thơ in trong cuốn
"Góp nhặt thơ Công giáo Việt Nam" (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1999) và
trong cuốn "Những bài thơ Việt Nam hay lạ xưa nay" (Nxb Văn Nghệ,
2009).
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
[15] Nhà thơ Ngọc Tự (bút danh khác: Ninh Văn, Trần Ninh
Bình), sinh 1948, tên thật là Trần Ngọc Tự, là một tín hữu Công giáo. Đã xuất
bản một số thi tập.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
[16] Nhà thơ Thanh
Chương (bút danh khác: Thạch Ngữ, Hoài Nhân, Châu Huy Quang... 1939-2021) tên
thật là Trần Quang Tịnh, là một tín hữu Công giáo. Đã xuất bản một số thi tập.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
[17] Nguồn: Nhà thờ Chính tòa Giáo phận TP. Hồ Chí Minh.