Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Chuyện Phiếm Gã Siêu
NĂM QUÍ MÙI NÓI CHUYỆN…DÊ

Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu tại sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng của mấy chú ba Tàu, lại chia vòng thời gian thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài mười hai năm và được gọi là một can hay một con giáp.

Chẳng hạn khi nói :

- Vợ nó hơn nó một con giáp.

Câu nói này  nghĩa là :

- Nó kém vợ nó những mười hai tuổi. Đúng theo cái mốt “vợ già chồng trẻ là duyên con…bò”.

Tất cả có mười can, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí.

Mỗi năm trong một can hay trong một con giáp được gọi là chi. Tất cả có mười hai chi, đó là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Mỗi chi lại được biểu tượng bằng một con vật nào đó.

Thí dụ năm nay là năm Quí Mùi. Quí là can chót, can thứ mười. Còn Mùi là vị thứ tám trong mười hai chi và thuộc về con Dê. Năm tới 2004, sẽ trở lại can đầu là Giáp và chi thứ chín là Thân. Như thế năm 2004 sẽ được gọi là năm Giáp Thân, cầm tinh con khỉ.

Theo tục lệ tốt lành vốn có từ lâu trong nghề viết lách, hôm nay gã xin bàn rộng bàn dài, tán hươu tán vượn về con dê, để bàn dân thiên hạ được xả hơi trong những ngày đầu năm, mà quên đi những căng thẳng của công ăn việc làm và những khủng bố đang xảy ra khắp đó đây trên cả và trái đất.

Sách “ Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau :

Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, bèn sai hết cả nhà đi tìm, lại sang nói với Dương Chu cho mượn một người đi tìm hộ.

Dương Chu nói :

- Ôi ! Sao mất có một con dê mà cho những bao nhiêu người đi tìm.

Người láng giềng đáp :

- Vì đường có lắm ngã ba.

Khi các người tìm dê đã về, Dương Chu hỏi :

- Có tìm thấy dê không ?

Người láng giềng nói :

- Không.

- Sao lại không tìm thấy ?

- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã ba khác. Thành thử không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về không cả.

Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất  không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì  mê muội mà mất cả lương tâm.

Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức, thì :

“Dê là loài thú có sừng, có râu, lông nhiều và hôi, bốn móng thon nhọn, thích chồm phá để kiếm cỏ và dây leo để ăn.”

Khi con dê đực mang nặng tuổi đời và trở về già, lúc bấy giờ râu cằm dài, lông nhiều và mùi hôi thật đậm đặc, người ta gọi nó là dê…xồm.

Riêng những kẻ muốn bắt chước dê, để một chòm râu ở cằm, thì bộ râu ấy liền được bàn dân thiên hạ tặng phong cho danh hiệu là bộ râu dê.

Trong chữ Tàu, dê được gọi là dương. Chẳng hạn cao dương là dê con, sơn dương là dê núi.

Tại Việt Nam có một thời người ta đua nhau nuôi dê để lấy sữa bởi vì theo các nhà phân tích, thì sữa dê có nhiều chất bổ dưỡng. Thậm chí các cụ già thường xuyên uống sữa dê thì sẽ trẻ ra vài chục tuổi, còn quí bà quí cô ấy hở, nếu thường xuyên tắm sữa dê, thì da dẻ lúc nào cũng cứ trắng nuốt như trứng gà bóc vậy !!!

Xem ra các chú ba Tàu, cũng như dân bợm nhậu rất khoái món thịt dê, bộ phận nào của dê cũng được liệt vào hàng quí hiếm và được chiếu cố tận tình, chẳng hạn như : dương trường là ruột dê, dương can là gan dê, dương huyết là máu dê, dương nhục là thịt dê, dương thận là thận dê…Mỗi thứ này được tẩm liệm và chế biến theo một cách thức riêng để trở thành món đặc sản của những nhà hàng tại  Chợ Lớn.

Những người chuyên nghiệp làm dê, tức là mần thịt dê, cho  hay : 

- Để khử cái mùi hoi của dê, người ta thường phải đuổi cho dê chạy thật lâu, hay cho dê uống rượu cốt để cho dê say  đến toát cả mồ hôi hột, rồi sau đó mới chọc tiết. Thịt sẽ không còn hoi nữa.

Có một thời ở Saigon, dân bợm nhậu rất ghiền  cái món lẩu dê, đi tới chỗ nào cũng thấy những bảng hiệu quảng cáo và mời gọi cho lẩu dê. Thậm chí cả một dẫy phố, nhà nhà đều trở thành quán nhậu với món lẩu dê. Sau thời đại của lẩu dê, tới thời đại của lẩu mắm. Còn bây giờ tại các đám tiệc, cái “mốt” lẩu tươi sống đang rất được  thịnh hành.

Ngày nọ, gã về Saigon và được mấy tên bạn cùng lớp rủ đi nhậu lẩu dê. Quán nhậu chỉ gồm vỏn vẹn mấy chiếc bàn và một ít ghế thấp lè tè được bày ngay trên  lề đường vào ban tối. Khi món nhậu được bưng ra, gã nhận thấy có một cái niêu đựng thịt dê đã được nấu sẵn với chao, đặt trên bếp than và đang sôi sùng sục. Đi kèm với nó là hai đĩa mì vắt và hai đĩa cải đắng. Mì và cải đắng được nhúng vào lẩu trước khi ăn.

Dân nhậu chính hiệu con nai vàng, khi xơi lẩu dê, thì phải uống rượu huyết dê, nghĩa là rượu đế được pha với máu dê. Uống chừng dăm cốc thì bầu khí bỗng trở nên vui vẻ, ai cũng thích nói to và nói dài. Dường như mình là người duy nhất nắm được chân lý trên đời.

Riêng  phần gã, dù bị dị ứng với mùi tanh của máu, cũng phải nhắm mắt nhắm mũi làm vài cốc cho vui lòng bè bạn. Ăn miếng thịt dê mà vẫn cứ phân vân không biết dê hay chó, bởi vì dê đâu mà lắm thế !

Nhậu lẩu dê là một hình thức nhậu bình dân và rẻ tiền nhất. Chẳng thế mà quán lẩu dê nào cũng đông khách. Mấy anh tài xế xe ôm, mấy bác đạp xích lô, sau một ngày lao động cực nhọc, ban tối rủ nhau làm một cái lẩu dê với vài xị rượu huyết dê là sẽ quên tuốt  những vất vả và khốn khổ của mình.

Nhiều khi không có thịt dê, dần ghiền bèn phệu ra món “giả dê”, tương tự như món “giả cầy” để được tưởng nhớ mùi hương. Người ta dùng chân giò heo, nướng lên rồi thái nhỏ và bóp với riềng. Khi thưởng thức, miệng thì ăn nhưng lòng thì phải mường tượng ra đó là thịt dê chính gốc.

Có một điều gã ghi nhận được khi suy gẫm về loài dê, đó là từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người ta đều nhìn dê bằng một cặp mắt khinh bỉ, gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm không ?

Thực vậy, sách Lêvi của Cựu ước đã mô tả về nghi thức của ngày lễ xá tội như sau :

Người ta dẫn tới trước mặt Aaron một con dê đực còn sống. Ông ta sẽ đặt hai tay lên đầu nó mà xưng thú hết mọi sai lầm, hết  mọi phản nghịch, nghĩa là hết mọi tội lỗi của con dân Israel, như thể trút tất tật lên đầu nó, rồi dùng tay một người đang chờ sẵn mà đuổi nó vào sa mạc. Ở đó chẳng có sự hiện diện đầy yêu thương của Đức Giavê, mà chỉ có sự hiện diện của ma quỉ độc dữ mà thôi.

Con dê này được người Do thái gọi là “oan dương”, con dê gánh tội, con vật hy sinh.

Trong Tân ước, gã lại còn thấy rõ điều ấy hơn nữa.

Thực vậy, hoạt cảnh vể ngày phán xét chung đã được Kinh thánh  mô tả như sau :

Bấy giờ các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra, như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái.

Như thế, dê là biểu tượng cho những kẻ đứng bên trái, tức là những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp chẳng cùng. Thật là đại họa và vô phúc cho chúng ta nếu như trong ngày định mệnh ấy chúng ta bị đứng ở bên trái và lầm lũi bước theo dấu chân dê mà đi xuống hỏa ngục.

Chẳng biết có phải vì dê tượng trưng cho tội lỗi và ngoại diện của nó không được bắt mắt  cho lắm mà người ta rất ngại vẽ dê.

Năm ngoái cầm tinh con ngựa, thì hình ảnh về ngựa thật là ê hề, từ hình chụp đến hình vẽ, từ ngựa đực đến ngựa cái, từ ngựa mẹ đến ngưa con, thậm chí có cả ngựa đang mang bầu.

Còn năm nay cầm tinh con dê, gã đã phải chạy đôn chay đáo, chạy ngược chạy xuôi, thậm chí còn vắt cả giò lên cổ mà chạy để tìm cho ra một tấm lịch có hình con dê, hầu làm thiệp đón mừng xuân mới, gửi cho bè bạn khắp bốn phương trời, thế nhưng bạc mắt tìm mà cũng chẳng thấy.

Riêng đối với người Việt Nam, nết xấu nổi bật nhất nơi con dê đực, chính là cái  “tính thích đờn bà con gái”, chính là cái “thói ve vãn, chọc ghẹo đờn bà con gái”.

Cái tính và cái thói này nhiều khi nằm sẵn trong huyết quản vì thế những kẻ mắc phải cái tính và cái thói này thường được gọi là kẻ có…máu dê, hay máu băm nhăm.

Khi cái tính và cái thói này liên tục phát triển và lên tới tột đỉnh của nó, thì kẻ ấy nghiễm nhiên được bàn dân thiên hạ phong cho cái chức…”dê xồm”, tức là kẻ cả gan dám dê một cách trắng trợn, ngay cả giữa ban ngày ban mặt, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng kể gì đến những lời bàn ra tán vào. Kẻ ấy giống như “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, mà Hồ Xuân Hương đã diễn tả.

Ngày xửa ngày xưa, vua Tấn Võ Đế có rất nhiều cung phi mỹ nữ. Ban đêm, nhà vua ngồi trên chiếc xe khảm vàng khảm ngọc, do một đàn dê kéo đi khắp trong cung, tự ý dê muốn đi đâu tùy thích. Xe dừng ở nơi nào, nhà vua sẽ nghỉ đêm tại đó.

Vì thế, các cung phi liền lấy lá dâu treo ở ngoài cửa và dùng nước muối rắc, để cho dê thấy lá dâu và ngửi mùi nước muối thì thèm ăn, mà kéo xe đi vào cửa cung.

Chẳng hiểu có phải vì vậy mà dê bị gán cho cái tác phong  “thiếu đứng đắn” khi giao tiếp với “phe địch” hay không ? Nếu chỉ vì thèm ăn nắm lá dâu mà dê bị kết tội dê, tức là “táy máy với đờn bà con gái”, thì thật hơi oan cho dê một tí.

Cái tội dê này, báo chí phương tây hiện giờ đã mặc cho nó một danh xưng nhẹ nhàng và mỹ miều hơn, đó là cái tội “quấy rối tình dục”. Và theo những nhà tâm lý, thì từ “quấy rối tình dục” đến “lạm dụng tình dục” chỉ cách nhau có một đốt ngón tay. Mấy ông quan tòa bên đó đã dành cho những kẻ quấy rối tình dục những bản án nặng nề, nhưng chẳng biết  có  “sì tốp” được cái tính và cái thói dê ấy chút xíu nào hay không ?

Trong ngôn ngữ, gã ghi nhận được một vài câu tục ngữ, nói lên tính cách giả dối của người đời liên quan tới dê.

Trước hết các cụ đồ sính chữ nho hay những người thuộc vào hàng nho chùm vốn thường bảo :

- Dương chất hổ bì.

Câu này có nghĩa là :

- Cốt là cốt dê, mà da lại là da cọp.

Từ đó ám chỉ những kẻ dùng thế lực giả tạo bên ngoài để lòe bịp hay hù dọa thiên hạ.

Họ là những kẻ :

- Mượn đầu heo nấu cháo.

Hay :

- Mượn hoa cúng Phật.

Họ giống như :

- Cáo mượn oai hùm.

Chứ thực  chất bên trong của họ chẳng đáng giá một đồng xu cắc bạc nào cả.

Chuyện xưa kể rằng :

Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Còn Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi của Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần vì cớ làm sao ? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng :

- Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được một con cáo. Cáo bảo : Liệu đó! Chớ  đụng chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta, là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân tức khắc… Không tin, thử để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn mau hay không ? Hổ cho là cáo nói thật, bèn đi theo cáo. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách thú sợ hổ vậy.

Câu chuyện trên ám chỉ kẻ dưới thích mượn quyền thế  “bề trên” để hống hách và dọa nạt. Nếu không biết, người ta còn sợ, chứ khi “lừa đã thò tai” thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà còn làm đê nhục để cho bõ ghét.

Tiếp đến, người bình dân trong ngôn ngữ thường ngày vốn thường hay nói :

- Treo đầu dê, bán thịt chó.

Cửa hàng treo bảng hiệu bán thịt dê, nhưng thực chất bên trong chỉ toàn chó với chó.

Cũng giống như gã đã trình bày ở trên : khi ngồi nhậu lẩu dê với bè bạn mà lòng cứ thắc thỏm không hiểu là thịt dê hay thịt chó, bởi vì dê đâu mà nhiều thế.

Câu tục ngữ ngắn gọn này cũng đủ diễn tả tác phong của kẻ giả hình, họ nói vậy mà không phải vậy, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo. 

Kinh thánh đã bảo :

- Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì đầy dòi bọ cùng mọi thứ xú khí.

Tục ngữ Việt Nam đã liệt họ vào hạng :

- Khẩu Phật, tâm xà.

- Miệng na mô, bụng bồ dao băm.

- Ngoài thì thơn thớt nói cười,

  Mà trong nham hiểm giết người không gươm.

Như thế, họ không làm đã đành, mà thậm chí còn làm ngược lại những gì họ đã nói :

- Na mô, một bồ dao găm,

  Một trăm dao mác,

  Một vác dao bầu,

  Một xâu thịt chó.

- Na mô, một bồ dao găm,

  Một trăm con chó,

  Một lọ mắm tôm,

  Một ôm rau húng,

  Một thúng rau răm.

Bàn về hạng người giả nhân giả nghĩa ấy, thiết tưởng còn nhiều điều phải nói. Tuy nhiên để kết thúc những sự việc lỉnh kỉnh về con dê, gã xin mượn một mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu chuyện ấy mang tựa đề là “Người bán thịt dê” :

Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải bỏ chạy.  Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua.

Thời gian sau, vua Chiêu Vương  trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng cho những người chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả người bán thịt dê nữa.

Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người bán thịt dê từ chối và nói :

- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng.

Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng :

- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước, không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.

Vua bảo :

- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.

Người bán thịt dê nói :

- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.

Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử Kỳ rằng :

- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra nhận chức tam công cho ta.

Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :

- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bàn thịt dê.

Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.

Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời bàn như sau :

“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người ta có lòng trung thành với mình. Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán gì.”

“Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắn ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ để lòe đời vậy.”

Theo ý gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ tạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất lên từ lâu.

Và trước khi giã từ để…ăn tết, gã xin :

Long trọng…kính chúc…Quí vị…năm con…dê nhiều…may mắn !!!

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

 

Tác giả:  Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!