Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Chuyện Phiếm Gã Siêu
BÀ XÃ

 

Trong bức thư mới nhất đề ngày 15 tháng 11 năm 1999, cụ chủ nhiệm báo Mục vụ đã than thở cả tiếng “mí” gã như sau :

“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu Mỹ nói chung, các đấng ông chồng mày râu thường về Việt Nam chim chuột…lang chạ hay kiếm đại bà vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm quê hương, vừa đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của xài mà vợ con không mấy khi hay biết. Vì nếu biết, thì gia đình sẽ đi đến chỗ xào xáo và tan vỡ từng mảnh. Chỉ tội nghiệp cho những đứa con vì không còn thấy được cảnh đầm ấm nữa. Các bà thì một số đi làm có tiền, ra ngoài xã hội cũng đua đòi, đi đến chỗ bình quyền, rồi lộng quyền. Kết cục cũng lại là đổ vỡ. Vợ chồng mỗi người một nhà. Những đứa con có hai nhà mà vẫn không có được một mái ấm trong đời…

“Riêng về giới trẻ, thì tình yêu ngày càng xuống dốc một cách thậm tệ. Họ thường hay “thử ngòi” trước khi đi tới kết hôn, coi nhẹ việc trinh trong của người thanh niên nam nữ…

Chẳng hiểu lời than thở trên đây có bi quan lắm không, nhưng chắc hẳn cũng không đến nỗi phóng đại tô màu, đã đen lại bôi thêm cho đen hơn.

Thực vậy, ai cũng biết rằng gia đình hiện nay trên thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Dĩ nhiên, các gia đình Việt Nam ở trong nước và nhất là ngoài nước, cũng không thoát khỏi bị cuốn theo chiều gió, bị  hút vào giòng chảy, mà nảy ra những chuyện lỉnh kỉnh thế này hay thế nọ.

Riêng gã, với cái nhìn méo mó nghề nghiệp, thì đây quả là một mảng đề tài thật phong phú để khai thác. Vì thế, mỗi khi bị chiếu bí, gã bèn tìm về vùng đất này để mà…tán hươu tán vượn cho đầy trang giấy. Hôm nay gã xin phác họa đôi ba nét về dung nhan…hết xảy của các bà vợ.

Tiếng Việt Nam của chúng ta thật là tuyệt vời để diễn đạt những “gam”, những mức độ tình cảm đậm nhạt khác nhau.

Khi mới bắt đầu thương, anh chàng luôn mồm gọi chị chàng với cặp môi dẻo quẹo:

- Em yêu dấu… Người yêu bé... Con mèo nhỏ…

Khi bước vào cuộc sống lứa đôi và tình yêu còn nồng như rượu nếp mới và còn thơm như mật ong rừng, thì anh chồng luôn trìu mến gọi chị vợ với giọng nói ngọt như đường cát, mát như đường phèn :

- Em…Mình…Cưng…Mẹ thằng cu…Đằng ấy…

Rồi hùng hổ giới thiệu  vị “nội tướng” của mình với bà con lối xóm bằng những danh từ thật bùi tai, còn hơn cả đậu phộng rang, chẳng hạn như :

- Nhà tôi…Bà xã…

Nếu là dân ghiền cải lương, thì anh chồng không ngần ngại ca sáu câu vọng cổ có mùi bắt đầu bằng những chữ :

- Hiền thê ơi…Ái khanh lòng ta hỡi.

Nhưng khi tình yêu đã bị xuống cấp, nhất là trong những lúc nóng nảy, thượng cẳng chân hạ cẳng tay mí nhau, thì anh chồng không ngần ngại tuôn ra những lời “hàng tôm hàng cá” để mà phang chị vợ một trận tơi bời hoa lá cành :

- Cái con mẹ mày…Cái con mụ kia…Cái bà chằng lửa…

Từ những kinh nghiệm đời thường ấy mà có kẻ đã hung hăng phát biểu :

- Trong đời anh đờn ông có hai ngày vui. Ngày vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ. Còn ngày vui thứ hai đó là ngày vợ…chết.

Chuyện kể rằng :

Có một anh đờn ông chẳng may qua đời, mon men đến cửa thiên đàng. Ông thánh Phêrô thấy vậy bèn chặn lại và lên tiếng hỏi :

- Ngươi đã làm được những gì để xứng đáng bước vào chốn hạnh phúc muôn đời.

Anh đờn ông gãi đầu gãi tai. Xem ra trong cuộc nơi sống trần gian anh ta đã chẳng làm được việc gì cho ra ngô ra khoai, cho nên trò nên trống, cho nên cơm nên cháo. Sau một hồi suy nghĩ và xét mình, cuối cùng anh ta mới rụt rè thưa lên :

- Bẩm thánh cả, con có vợ ạ.

Ông thánh Phêrô bèn đưa bàn tay vuốt chòm râu bạc, rồi gật đầu ra dáng thông cảm :

- Thôi được. Ta rất hiểu ngươi. Nào, ngươi hãy lẹ lẹ bước vào thiên đàng ngay đi.

Qua câu trả lời trên, có lẽ ông thánh Phêrô đã nhìn thấy rất rõ những khó khăn, những gánh nặng và những bế tắc của những anh đờn ông có vợ. Biết đâu chừng đó cũng chính là những khó khăn, những gánh nặng, những bế tắc của bản thân ông thánh khi nhìn về dĩ vãng xa xưa của mình.

Còn gã, gã cũng xin ăn theo mà chia sẻ và mổ xẻ cái nỗi buồn của những anh đờn ông có vợ.

Người Việt Nam hiện nay thường được nghe đến độ mòn cả lỗ tai và thuộc lòng câu nói sau đây :

- Không có gì quí hơn độc lập và tự do.

Khi còn là “giai tơ”, anh đờn ông lúc nào cũng có được cái kho tàng quí giá ấy là sự tự do. Anh ta muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn nhậu lúc nào thì nhậu. Thế nhưng khi đã đèo bồng cái “rờ mọc”, thì liền mất toi cái kho tàng ấy, vì phải đổi thời và thoát xác.

Có những anh chàng thưở trước thuộc hạng “phá gia chi tử”, đã quậy thì phải quậy tới bờ tới bến, đã nhậu thì phải nhậu cho xỉn vì không xỉn không về, đã chơi thì phải chơi xả láng để sáng còn về sớm, thế mà khi lập gia đình thì bỗng trở nên nghiêm túc, chí thú làm ăn, có lẽ vì nghĩ tới trách nhiệm của mình ở phía trước.

Bởi đó, khi đứng trước những “con ngựa chứng” của hàng “giai tơ”, nhiều cụ đã khuyên :

- Cứ lấy vợ cho nó là xong tuốt luốt…Chỉ có con vợ mới trị được nó mà thôi.

Và thế là nỗi buồn cứ len lén đi vào tâm can tì phế, ám vào lục phủ ngũ tạng của anh đờn ông, hay như một bài hát đã diễn tả :

- Buồn vào hồn không tên…

Để rồi anh đờn ông cứ thở dài thườn thượt mà rằng :

- Ôi, thời oanh liệt nay còn đâu.

Chính vì vậy, các cụ ta ngày xưa cũng đã phát biểu :

- Một là vợ, hai là…nợ.

Hay :

- Trai có vợ như dợ buộc chân.

Còn người Pháp, vốn mang giòng máu “ga lăng” thì đã diễn tả một cách hoa hòe hoa sói hơn :

- Nếu em là trại giam, thì anh sẽ là thằng tù.

Thế mà cũng có lúc đã phải chua chát :

- Đờn bà vừa là niềm vui lại vừa là tai họa cho đờn ông.

- Đờn bà vừa là nữ thần lại vừa là sói cái của đờn ông.

Có những người nhờ vợ mà nổi đình nổi đám, nên cơ đồ nên sự nghiệp :

- Giàu vì bạn sang vì vợ.

Nhưng cũng có những người vì vợ mà tiêu tán đường, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi. Vì thế người xưa đã cho rằng :

- Thứ nhất vợ dại trong nhà,

  Thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.

Sống trên đời, anh đờn ông con giai nào cũng cảm thấy có ba cái bực. Thế nhưng, cái bực vào hạng nhất đó chính là vợ dại, bởi vì nhà dột thì hắn có thể lợp lại, rựa cùn thì hắn có thể mài lại, hay bỏ một nơi, quẳng một xó…chứ còn vợ dại thì vẫn cứ phải chấp nhận, vẫn cứ phải sống chung hòa bình, vẫn cứ phải đeo đẳng bên mình có khi còn dài hơn cả một đời, bởi vì đờn ông thường “ngỏm củ tỉ” trước đờn bà, và tuổi thọ của anh chồng thường vắn hơn chị vợ.

Vậy đâu là những cái nơi chị vợ thường làm cho anh chồng phải bực, phải tức như bị bò đá mà vẫn cứ phải cắn răng chịu vậy ?

Nếu bới lông tìm vết, sợi tóc chẻ làm mười, thì hẳn sẽ tìm thấy nhiều tính mê nết xấu nơi đờn bà con gái. Và nếu viết hết về những thói hư ấy thì chắc chắn gã sẽ bị lây cái thói “rậm nhời” tức là thói nói nhiều của “phe mình”. Vì vậy, phe ta chỉ xin đề cập qua quít một vài chuyện lỉnh kỉnh của phe mình mà thôi.

Trước hết đó là chuyện nói năng.

Tìm được một chị vợ vừa niềm nở tươi tắn lại vừa kín miệng trong lời nói qủa là một sự khó, bởi vì nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt, nói gian, nói dối…vốn là nghề của các nường.

Có những chị vợ thường xuyên càu nhàu với anh chồng. Chúng ta thử tưởng tượng xem một anh chồng làm công chức. Ở sở thì bị bề trên trù dập, bề ngang ganh tị và bề dưới bướng bỉnh.

Về tới nhà những ước mong được nhìn thấy khuôn mặt dễ thương với những lời nói êm dịu của chị vợ, rồi được nghe thấy những tiếng cười trong trẻo đầy vô tư của con cái, để quên đi những mệt mỏi, những buồn tủi và tìm lấy niềm phấn khởi để tiếp tục cuộc dành dựt chén cơm manh áo.

Thế mà cái mong ước thật nhỏ nhoi, thật tầm thường này cũng chẳng có được. Bởi vì hễ thò mặt vào nhà là y như rằng chị vợ bèn càu nhàu :

- Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua người ta thế nọ…người ta kiếm tiền như nước, đem về cho vợ cho con…Còn anh thì lại vô tài bất tướng…Thật khốn nạn cho cái thân tôi…Không hiểu kiếp trước tôi vụng dại thế nào, mà kiếp này lỡ vớ phải một chàng cù lần cù lèo như anh…

Ngay cả những lúc thân mật nhất, chị vợ cũng vẫn sẵn sàng rót vào tai anh chồng những lời nói chua như chanh và cay như ớt hiểm. Ngồi vào bàn ăn mà mặt mày cứ sụ xuống như bánh bao chiều hay lầm lầm lì lì làm thành một đống. Trong tình huống như vậy, làm sao anh chồng có thể chịu đựng cho thấu.

Nhất là mỗi khi có chuyện bất đồng hay có điều chi xích mích, mà sự sai lỗi lại nằm trên phần đất của anh chồng, thì chị vợ liền xả ga, nói cho bằng thích : nói xiên nói xẹo, nói xỉa nói xóc…Lải nhải ngày cũng như đêm, bất cứ lúc nào chị vợ cũng như làu bàu trong miệng một điều gì ấm ức và bực bội.

Tới nước này, thì anh chồng chỉ có hai cách giải quyết : một là yên lặng bỏ nhà ra đi dăm bảy tiếng đồng hồ hay đôi ba ngày, hai là tức nước vỡ bờ, liền nổi máu yêng hùng thượng cẳng chân hạ cẳng tay, cho “cái con mẹ mày một trận” để mà câm miệng lại. Cả hai cách thức giải quyết trên đều bất lợi cho cá nhân và gia đình.

Cũng xin nói thêm tí chút về độc chiêu đấu tranh của đờn bà con gái, nhất là của các chị vợ.

Mỗi khi có một yêu cầu nào đó mà xem ra anh chồng còn chần chừ, lừ khừ không muốn dứt điểm và xem ra như muốn ngâm kíu thêm, rồi ngâm tôm luôn…thì chị vợ thường hay tranh đấu bằng hai phương thế sau đây :

Phương thế tranh đấu thứ nhất là vật mình vật mẩy rồi nhỏ ra dăm ba giọt nước mắt. Về cái khoản muớc mắt thì xem ra phe mình không bao giờ thiếu. Nếu gã là tay “thợ thơ” thì chắc chắn sẽ phệu ra được một bài ca tụng đôi mắt em là như một hồ chứa đầy nước, có thể tuôn chảy bất kỳ lúc nào.

Gã đã từng chứng kiến cảnh hai bà đang ngồi tỉ tê với nhau và trong câu chuyện, một bà nhắc tới chị bạn vừa mới qua đời, thế là cả hai bà cùng mếu máo, bưng mặt khóc rưng rức.

Ở một đám tang, mấy bà con dâu ngồi canh xác mẹ chồng, đang chuyện trò vui như tết, bỗng ngoài sân có tiếng chó sủa và mấy người khách bước vào, thế là anh lê hấp, lập tức mấy bà con dâu liền tru trếu, nghẹn ngào nấc  lên từng cơn mà thương tiếc cho công đức của mẹ chồng.

Nếu chẳng may hồ vị bể đập, nước đổ xuống gây nên cơn lũ, cuốn phăng đi mọi sự. Cũng vậy, một khi nước mắt chị vợ đã vãi ra, thì cũng sẽ làm tan béng  mất cái dũng khí đờn ông, khiến cho anh chồng hóa nên mềm nhũn như con chi chi. Bảo cái gì cũng ừ. Nói cái gì cũng gật. Bởi vì chỉ còn là :

- Chìu thôi…chìu thôi.

Suy gẫm về những giọt nước mắt của đờn bà con gái, người La mã thời xưa đã phải ngán ngẩm mà thốt lên rằng :

- Nước mắt của đờn bà thường ẩn chứa những âm mưu toan tính.

Còn dân Ăng lê thì bảo :

- Trên đời này không có gì mau khô cho bằng nước mắt đờn bà.

- Mưa ban sáng và nước mắt đờn bà thì chẳng mấy chốc mà ráo.

Phương thế thứ hai đó là áp dụng chiến thật bất bạo động, bất hợp của ngài Gandhi. Không phải chỉ tam không, mà còn tới thất bát cửu không ấy chứ.

Này nhé, không nói không rằng, không cười không hỏi, không làm không lụng…thậm chí cả đến lúc leo lên giường cũng không thèm quay mặt ra, mà chỉ “tôi nhìn tôi trên vách”. Đến cái nước này thì thử hỏi bố anh chồng nào chịu nổi.

Có một chị vợ kia đã hiên ngang và anh dũng tuyên bố với anh chồng của mình như sau :

- Liệu anh có thể chịu đựng nổi sự lạnh lùng của tôi không đấy hử ?

Và thế là anh chồng bèn phải xuống ngựa làm một màn năn nỉ ỉ ôi, suýt gẫy cả lưỡi, để rồi yêu sách nào cũng giải quyết, đòi hỏi nào cũng thỏa mãn. Và anh chồng ấy đã vuốt chòm râu lún phún và nhủ thầm :

- Mình nhịn vợ mình chứ có nhịn vợ thiên hạ đâu mà sợ.

Tiếp đến là chuyện tiền nong và chi tiêu. Chúng ta thường bảo :

- Có thực mới vực được đạo.

Tiền bạc tuy là của phù vân giả trá, nhưng lại rất cần thiết để bảo đảm cho một cuộc sống được ấm no và hạnh phúc.

Hơn thế nữa, người xưa cũng thường bảo :

- Lấy vàng nhử đờn bà, lấy đờn bà nhử đờn ông và lấy đờn ông để làm ra vàng.

Phần đông đờn bà con gái đều thích vàng, thích hột soàn…nói chung là thích tiền :

- Có ăn thiếp ở cùng chàng,

  Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui.

- Ví dầu tình có dở dang,

  Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về.

Theo gã nghĩ :

- Tiền bạc là do công lao vất vả, mồ hôi nước mắt của mọi người, nên nó phải được tiêu dùng chung, nhằm bảo đảm những tiện nghi tối thiểu, chứ không được phép tiêu xài hoang phí cho riêng mình.

Trong hầu hết các gia đình, thì chị vợ thường được trao cho chân thủ quĩ để quản lý tiền bạc chi tiêu. Đang lúc anh chồng lo quần quật làm lụng đem tiền về cho gia đình, thì chị vợ sẽ lo quán xuyến, nên phải biết chi tiêu cho hợp tình và hợp lý. Với chức vụ thủ quĩ và quản lý, các chị vợ thường  mắc phải hai thái cực sau đây.

Thái cực thứ nhất đó là quá hà tiện và keo kiệt, mặc dù không đến độ vắt cù chày ra nước, rán sành ra mỡ, đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà mót hạt tấm, nhưng rất sẻn so trong việc chi tiêu, ngay cả những chi tiêu chính đáng, chẳng hạn như không dám mua thức ăn, nên chi bữa nào cũng chỉ là cà ghém mắm tôm và canh cua rau đay…rồi thì lại canh cua rau đay, mắm tôm và cà ghém…

Thái cực thứ hai đó là quá hoang phí, theo kiểu con nhà lính tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, nghèo mà lại thích xài sang. Lương tháng anh chồng ba cọc ba đồng, thế mà chị vợ ở nhà lại vung tay quá trán, nên suốt đời mang công mắc nợ. Từ chỗ thiếu hụt, chẳng bao lâu sẽ dẫn tới chỗ xào xáo lẫn nhau và gia đình cũng…đi đoong luôn.

Trước hết là hoang phí cho việc may mặc.

Nay bộ này, mai bộ khác. Hôm thì uốn cái đầu, hôm thì mua cái bóp, ấy là chưa kể tới son phấn cùng muôn vàn sự lỉnh kỉnh khác nữa. Ở nhà lắm lúc hạt cơm không có để mà bỏ vào bụng, những ra đường thì cứ như bà hoàng bà chúa.

Dĩ nhiên gã không chối cãi : đờn bà con gái cần phải làm đẹp vì làm đẹp cũng là một phương thế, một nghệ thuật để giữ lấy anh chồng và làm cho gia đình được ấm cúng.

Gã thấy có những chị vợ khi đã được một hai nhóc tì là bắt đầu cẩu thả trong việc ăn mặc. Cứ thử tưởng tượng xem anh chồng đi làm mệt nhoài, về tới nhà thì liền nhìn thấy chị vợ lem luốc, đầu bù tóc rối, còn con cái thì bẩn thỉu, thò lò mũi xanh…Rất có thể chỉ vì sự cẩu thả này, mà anh chồng đi tìm những an ủi, thoải mái nơi người khác sạch sẽ, tươm tấp và thơm tho hơn.

Tuy nhiên, làm đẹp không có nghĩa là làm đỏm, xa xỉ và chạy theo thời trang. Nghệ thuật làm đẹp mà chị vợ cần phải nắm chắc và thực hiện, đó là đói cho sạch, rách cho thơm.

Thứ đến là hoang phí cho việc ăn uống.

Nếu mua để cho mọi người cùng xài thì không sao, nhưng mua để cho mình xài riêng lại là chuyện khác. Một trong những thói quen, đôi khi cũng hơi dễ thương một tí, mà đờn bà con gái thường thích mắc phải đó là cái thói ăn hàng, xơi quà vặt. Có những cô nường, nhất là phe nữ sinh kẹp tóc, đã hăng tiết vịt mà phát ngôn :

- Là con gái mà không ăn quà vặt thì không phải là con gái nữa. Đi chợ mà không ghé hàng quà, thì dân buôn bán sẽ chết hết.

Tục ngữ ca dao cũng đã tốn khá nhiều lời để diễn tả về thói tục này như sau :

- Đi chợ,

  Đồng bấc thì quên, đồng quà thì nhớ.

Có những chị vợ đã được liệt vào hàng “top ten” siêu đẳng :

- Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con.

Rồi đưa ra lý do để biện mình cho hành động của mình :

- Đi chợ mất tám tiền quà,

  Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Được nắm hào bào, được quản lý cái ruột tượng, tức là tiền bạc trong gia đình, nên các chị vợ ấy rất lấy làm yên chí nhớn mà rằng :

- Đêm nằm thì ngáy o o,

  Chửa ra đến chợ đã lo ăn quà,

  Hàng bánh, hàng bún bày ra,

  Củ từ khoai nướng lẫn hàng cháo kê,

  Ăn rồi lại rủ ra về,

  Thấy hàng chả nướng lại lê trôn vào,

  Chả này bà bán làm sao,

  Ba đồng một mớ lẽ nào chẳng xơi…

Có chị vợ không thèm ăn quà vặt, mà lợi dụng mỗi khi chồng vắng là mẹ mẹ con con xúm xít bày tiệc tùng bánh trái để xơi cho khoái khầu, cũng như để tập tành nữ công gia chánh con gái.

Sau cùng là hoang phí cho bài bạc, đỏ đen.

Trong khi các anh chồng tới nhà máy hay công sở, thì các chị vợ ở nhà, tụm năm tụm ba, dở bài cào tứ sắc, hay số đề số đuôi…Thua thì nhiều, mà được chẳng bao nhiêu. Nếu có được thì cũng đãi đằng. Tiền chưa kịp nóng tay, thì đã vội bay hơi lúc nào không biết.

Những hoang phí trong việc chi tiêu như thế, chắc chắn sẽ tạo nên một lỗ hổng, mà anh chồng, suốt đời làm thân trâu ngựa, cũng không thể lấp đầy cho nổi.

Trong phạm vi tiền bạc cũng còn có một sự lợm cợm khác nữa. Đó là hiện nay vì hoàn cảnh đổi thay, tại nhiều gia đình, ở Việt Nam và nhất là ở phương tây, chị vợ cũng phải chen chân ra ngoài xã hội, kiếm thêm phần thu nhập, từ đó phát sinh ra những tình huống dở cười dở khóc.

Nếu chị vợ gặt hái được những thành công, tiền lương có phần trội hơn anh chồng, thì phần thắng sẽ thuộc về người nắm được nguồn kinh tế và tài chánh. Và nếu chẳng may, anh chồng lâm vào cảnh thất nghiệp thì bèn phải cúi đầu xuống như muông chim  và trật tự trong  gia đình sẽ bị đảo lộn :

- Làm trai rửa bát quét nhà,

  Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây.

Còn nếu như thu nhập đồng đều, thì tiền ai người ấy tiêu. Anh chồng có một tài khoản trong ngân hàng và chị vợ cũng có một tài khoản khác. Có được tài khoản trong tay, chị vợ bèn ngước mặt lên, quắc mắt nhìn đời, cảm thấy như mình được giải phóng và bình đẳng với anh chồng vì không còn bị lệ thuộc vào kinh tế và tài chánh nữa.

Từ chỗ bình quyền, chị vợ chỉ cần nhảy thêm một tí nữa là sẽ tót ngay lên chỗ lộng quyền cái một. Chỉ tội nghiệp cho con cái khi cần tiền, chẳng biết ngửa tay xin ai.

Anh chồng hì hục kéo cày và chị vợ cũng hì hục kéo cày. Con cái không còn được chăm sóc. Gia đình biến thành quán trọ. Gặp nhau thoáng chốc rồi đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm. Thậm chí như cụ chủ nhiệm đã nhận xét :

- Ông một nhà, bà một nhà, con cái có hai nhà những lại chẳng có được một mái ấm yêu thương.

Nếu cứ tố khổ như thế, thì không biết tán đến bao giờ mới hết. Nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ khiến cho quí bà quí cô nổi máu tam bành. Thôi thì lần khác gã sẽ phải làm việc đền tội mà tố khổ phe ta, phe đờn ông con giai, nhất là những đấng làm chồng.

Để kết luận, gã xin ghi lại một bài thơ vui mà gã đã thuổng được ở một tờ báo. Bài thơ mang tựa đề là : Vợ.

- Vợ là tình cảm sâu xa,

  Vợ là gió mát, vợ là bão giông.

  Vợ như một đóa hoa hồng,

  Vợ là sư tử Hà đông kinh người.

  Vợ là êm ái tuyệt vời,

  Vợ là bão táp rụng rời chân tay.

  Vợ là một chất men say,

  Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.

  Có người nhờ vợ nên ông,

Nhiều người vì vợ mất không cơ đồ….

Rồi tác giả bài thơ đã kết luận :

- Tốt số lấy được vợ hiền,

  Vô duyên vớ phải bà điên, bà khùng.

Đọc xong bài thơ trên, gã cảm thấy như còn đọng lại trong miệng một vị đăng đắng.

Tác giả:  Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!