Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

Gs. Nguyễn Đăng Trúc
Mục Lục

Chương 1: Ta Là Cây Nho Các Con Là Cành

Chương 2: Tất Cả Là Cành Nho của Một Cây Nho Duy Nhất

Chương 3: Thầy Đã Sai Chúng Con Ra Đi và Mang Lại Kết Quả

Chương 4: Những Người Thợ Trong Vườn Nho của Chúa

Chương 5: Để Chúng Con Mang Lại Hoa Trái

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Nhân quyền và Giáo hội - Những suy tư lịch sử và thần học

Một Cái Nhìn Mới Về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (Quyển Hai)

Một Cái Nhìn Mới Về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (Quyển Một)

Giêsu-Kitô

Thánh Thần, Hơi Thở Sống Động của Giáo Hội

Tông huấn Christifideles Laici

Tông huấn Christifideles Laici
Chương 1: Ta Là Cây Nho Các Con Là Cành

Phẩm giá của ngườí Tín Hữu Giáo Dân

Trong Giáo Hội Mầu Nhiệm

MẦU NHlỆM CÂY NHO

8. Hình ảnh cây nho trong Thánh Kinh được dùng nhiều cách và nhiều ý nghĩa. Đặc biệt nó được dùng để diễn tả mầu nhiệm Dân Chúa. Theo ý nghĩa này, người giáo dân không chỉ là những người thợ làm việc trong vườn nho, nhưng họ là một phần tử cây nho. Chúa nói: "Ta là cây nho, các con là cành" (Jn.15.5).

Trong Cựu ước các tiên tri khi muốn nói đến dân được chọn, cũng đã dùng hình ảnh cây nho. Israel là cây nho của Thiên Chúa, là mềm vui của tâm hồn Ngài: "Ta đã trồng ngươi như một cây nho được chọn lọc" (Jer. 2:21); "Mẹ ngươi giông như một cây nho trồng bên bờ nước. Nó sai trái và um tùm hoa lá nhờ có nhiều nước tràn trề " (Ez.19.10); "Người bạn tôi có một vườn nho trên mợt sườn đồi phì nhiêu. ông cày bừa trở dât lượm đá sỏi để trồng vào đó một cây hảo hạng..." (Is. 5.l-2).

Chính Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh cây nho để mạc khải một số khía cạnh về Nước Thiên Chúa: "Một người kia trồng một vườn nho, ông rào dậu bôn bề, một hầm ép nho, và xây một tháp canh rồi ông cho các người làm nho thuê mướn và ông khởi hành đi xa." (Mk. 2:1 - Mt. 21:2S).

Thánh Sử Gioan còn mời gọi chúng ta đi xa hơn, và đưa chúng ta đến khám phá mầu nhiệm của cây nho: Nó là biểu tượng và hình ảnh không những của dân Thiên Chúa, mà còn là biểu tượng và hình ảnh của chính Đức Giêsu. Ngài là gốc cây nho, còn chúng ta, môn đệ Ngài, chúng ta là cành. Ngài là "Cây Nho thật", các cành phải kết hơp để được s ống (Jn . 15: 1.. )

Công Đồng Vaticanô II lấy lại hình ảnh Thánh kinh để giải thích máu nhiệm Giáo Hội, cũng đưa ra hình ảnh cây nho và cành: "Cây nho thật chính là Chúa Kitô; chính Ngài ban phát sự sống và sức sinh sản cho các cành là chúng ta. Qua Giáo hội chúng ta sông trong Ngài, và không Ngài chúng ta chẳng làm được việc gì." (Jn. 15.1-5) .(12)

Chính Giáo Hội là vườn nho trong Thánh Kinh. Là nhiệm mầu bởi vì tình thương và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là ân huệ tuyệt đối ban nhưng không cho tất cả những ai được sinh ra bởi nước và Thánh-linh (Jn. 3:5), được gọi để sống chính sự hiệp thông của Thiên Chúa, để tỏ bày và thông truyền sứ mệnh hiệp thông này trong lịch sử. Chúa Giêsu nói: "Trong ngày ấy các con sẽ biêt rõ Thầy Ở trong Cha Thầy, và các con Ở trong Thầy và Thầy Ở trong các con" (Jn. 14:20).

Người giáo dân chỉ nhận diện mình, nhận chân bản tính nguyên thủy của mình bên trong mầu nhiệm của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông ơn gọi cũng như sứ mệnh trong Giáo Hội và thế giới của người giáo dân cũng chỉ định nghĩa được bên trong phẩm giá này.

NGUỜl TÍN HỮU GlÁO DÂN LÀ Al?

9. Các Nghị Phụ đã nêu lên một nhận xét chính đáng là phải minh định cách rõ ràng về ơn gọi và sứ mệnh của tín hữu giáo dân, qua việc nghiên cứu sâu xa giáo lý của Công đồng Vaticanô lI, theo ánh sáng của các văn kiện mới của Giáo Hội, và kinh nghiệm sống của Giáo Hội được hướng dẫn do Chúa Thánh Thần. (13)

Để trả lời câu hỏi nguời tín hữu giáo dân là ai. Công Đồng đã đi xa hơn vớí lối giải thích tiêu cực trước đây, bằng một cái nhìn hoàn toàn tích cực. Công Đồng đã đưa ra ý hướng căn bản và đầy đủ thuộc về người giáo dân đối với Giáo Hội và mầu mhiệm của Giáo Hội. Ơn gọi đặc biệt của họ là "Tìm nước Chúa trong khi quản trị các việc trần thế mà họ sắp xếp theo ý Chúa. " (14) Hiến chế ánh Sáng Muôn Dân (Lumengentium) còn thêm: "Danh hiệu Giáo dân có nghĩa là tất cả các Kitô hữul không thuộc thành phần chức thánh hay bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được rửa tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tê, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, họ là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa trần thê theo nhiệm vụ riêng của mình. " (15)

Đức Piô thứ XII đã quả quyết: "Các tín hữu nói một cách rộng hơn, là các giáo dân là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáó Hội mà là Giáo Hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là Đức Giaó Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Họ là Giáo Hội".(16)

Theo hình ảnh Thánh kính về cây nho, người tín hữu giáo dân cũng như tất cả các phần thân thể khác của Giáo Hội, là những cành nho tháp nhập vào Đức Kitô là Cây Nho Thật; chính nhờ Ngài mà họ được sống và trổ sinh hoa trái.

Được ghép vào Đức Kitô nhờ Đức Tin và phép Thánh Tẩy, là gốc rễ đầu tiên tạo nên thân phận mới của người Kitô hữu trong mầu nhiệm Giáo Hội, tạo nên sắc thái căn bản, và là nền tảng của tất cả mọi ơn gọi và hoạt động của đời sống Kitô hữu của người tín hữu giáo dân. Trong Đức Kitô chết và sống lại, người đã rửa tội trớ nên một "thụ tạo mới" (Gal. 6.15,2 Cor.5.17), một thụ tạo được thanh tẩy hết tội lỗi và sống ơn nghĩa Chúa.

Như thế "hình ảnh" người giáo dân được phác họa dựa vào kho tàng phong phú nhiệm mầu Thiên Chúa đã ban cho ngườí Kitô hữu trong bí tích Rửa Tội.

PHÉP RỬA TỘl VÀ THÂN PHẬN MỚl CỦA NGƯỜl KlTÔ HỮU"

10. Không phải là quá đáng khi chúng ta quả quyết rằng: toàn cuộc sống của người tín hữu giáo dân chỉ có mục đích là đưa họ đến nhận biết mầu nhiệm chính yếu của họ phát xuất từ phép Rửa Tội, là bí tích Đức Tin, để họ có thể sống nghĩa vụ theo ơn gọi Chúa đã chỉ định. Để phác họa "hình ảnh" người tín hữu giáo dân, chúng ta hãy kiểm xét một cách trực tiếp và rõ ràng các khía cạnh căn bản sau đây: Phép Rửa Tội đã tái sinh chúng ta trong sự sống con Chúa; nó hợp nhất chúng ta với Chúa Giêsu Kltô, với thân thể Ngài là Giáo Hội, xức dầu cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần bằng cách làm cho ehúng ta trở nên những đền thờ thiêng liêng.

Con Chúa trong Người Con Một

11. Chúng ta nhớ lại những Lời của Chúa Giêsu nói với Nícôđêmô: "Ta nói rât thật với ông, hễ ai chẳng sinh lại ỏởi nước và Thánh Linh, thì không được vào nước Thiên Chúa"(Jn. 3. 5). Phép Rửa Tội là một sinh hạ mới, một cuộc tái sinh.

Chính khi nghĩ đến khía cạnh này của phép Rửa Tội mà Thánh Phêrô Tông Đồ đã ca lên: "Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả Ngài đã tái sinh chúng ta nhờ sự sông lại của Đức Giêsu Kitô từ trong kẻ chêt, để chúng ta được hưởng gia tài bất diệt, không tì ố, cũng không tàn héo" (1 Pt. 1:3-4), và Người gọí là Kltô hữu những ai Chúa đã "tái sinh, không phải do hạt giông hay hư nát, nhưng do hạt giông bất diệt là Thiên Chúa hằng sống và tồn tại muôn thuở" (1 Pt.1:23)

Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở nên con cái nam nữ của Thiên Chúa, trong Con Một của Ngài, là Đức Giêsu Kitô. Khi ra khỏi giếng nước Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu đều được nghe tiếng đã phán trước kia trên bờ sông Giođanô: "Con là con ta yêu dấu, rất đẹp lòng ta" (Lk. 3:22). Và như thế họ hiểu là họ được kết hợp với Người Con yêu dấu vì đã trở thành dưỡng tử (Gal. 4:4- 7) và là anh em của Chúa Kitô. Như thế, được thể hiện trong lịch sử cuộc đời của Thiên Chúa: "Những ai Ngài đã nhận biết trước, thì Ngài định cho họ được trở nên hình ảnh Con Ngài, để làm cho Con Ngài trở thành trưởng tử của vô số anh em " (Rom.8:29)

Chính Chúa Thánh Thần làm cho những người đã rửa tội trở nên con cái nam nứ của Thiên Chúa, và đồng thời trở nên chi thể của Thân thể Đức Kitô. Thánh Phaolô đã nhắc lại cho các Kitô hữu thành Cônrintô: "Tất cả chúng ta đã được rửa tội trong một Thánh Thần độc nhất để làm thành một thân thể' (1 Cor. 12:13) đến nỗi vị Tông đồ Cả có thể nói với các tín hữu giáo dân của Ngài: "Anh em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người đều là chi thể " (1 Cor.12:27) ; " Và đây là chứng cớ rõ ràng anh em là con cái, được Thiên Chúa sai đên, Thần Linh của Con Ngài ở trong tâm hồn chúng ta" (Gal.4:6, Rom. 8.15-16).

Một thân thể trong Đức Kitô.

12. Được tái sinh trở thành "con trong người Con", những ai đã chịu phép Rửa Tội đều là "chi thể của Đức Kitô và cũng là thành phần trong nhiệm hề của Giáo Hội" theo như giáo huấn của Công Đồng Florence. (17)

Phép Rửa Tội có ý chỉ và đồng thời phát sinh sự tháp nhập mầu nhiệm nhưng thực sự vào Thân Thể bị đóng đinh và vinh hiển của Đức Giêsu. Nhờ Bí Tích ấy, Chúa Giêsu kết hơp người chịu phép Rửa Tội yới cái ehết của Ngài để kết hơp họ với sự sống lại của Ngài (Rom. 6.3-5), lột bỏ "con người cũ" để mặc cho họ "con người mới", nghĩa là chính Ngài: "Tất cả anh em đã được rửa tội trong Đức Kitô, anh em được mặc lấy chính Đức Kitô" (Gal. 3.27, Eph.4:22-24, Col. 3:9-10). Bởi đó "mặc dầu là số đông, chúng ta chỉ là một thân thể trong Đức Kitô" (Rom. 12:5).

Các lời của Thánh Phaolô là những tiếng vọng trung thực giáo huấn của chính Đức Giêsu, nó đã mặc khải cho chúng ta thấy sự hợp nhất nhiệm mầu của các môn đệ với Ngài và giữa họ với nhau, trình bày sự hơp nhất ấý như là hình ảnh và sự nối tiếp của sự thông hiệp nhiệm mầu giữa Chúa Cha với Chúa Con, và Chúa Con với Chúa Cha trong môí giây tình thương của Chúa Thánh Thần (Jn. 17.21). Chính Chúa Giêsu đã đề cập đến sự hơp nhất này khi Ngài dùng hình ảnh cây nho và cành nho: "Ta là cây nho, chúng con là cành " (Jn. 15. 5) . Một hình ảnh nói lên không những sự mật thiết sâu xa của các môn đệ với Chúa Giêsu, mà cũng biểu lộ sự thông hiệp sinh động giữa các môn đệ: tất cả đèu là cành của một Cây Nho duy nhất.

Đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần.

13. Trong một hình ảnh so sánh khác là hình ảnh của một ngôi nhà, Thánh Phêrô Tông Đồ đã định nghĩa các người đã chịu phép Rửa Tội như những "viên đá sống động" xây trên Đức Kitô là "viên đá góc" . Vì thế, các người đã chịu phép Rửa Tội được dành riêng "xây đên thờ thiêng liêng" (1 Pt. 2:5).

Hình ảnh này đưa chúng ta vào một khía cạnh mới lạ khác do phép Rửa Tội đem lại, mà Công đồng Vaticanô II trình bày qua những lờị sau đây: "Vì chưng những kẻ đã rửa tội, nhờ sự táì sinh và ơn xức dầu của Chúa Thánh Thần, họ được hiên dâng để trở nên một tòa nhà thiêng liêng." (18)

Chúa Thánh Thần "xức dầu" kẻ chịu phép Rửa Tội, đóng trên họ ấn tín không thể xóa bỏ (2 Cor. l:21-22), làm cho họ trở thành đên thờ thiêng lìêng, nghĩa là thông ban tràn đầy sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ kết hơp và nên giống Đức Giêsu Kitô.

Người Kitô hữu, nhờ ơn "xức dầư" này làm cho mạnh dạn, có thể lặp lại những lời của Chúa Giêsu theo cách của mình "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài dã xức dầu thánh hiên tôi; sai tôi đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ, loan tìn giải phóng cho kẻ bì cầm tù, đem sự sáng cho kẻ đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức, và loan báo năm Hông ân của Chúa" (Lk. 4:lS-19, Is. 61:1-2).

Như thế, nhờ ơn Chúa đổ tràn xuống qua phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, người đã được rửa tội tham gia vào sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên sai cứu Thế.

THAM GlA VÀO CHỨC TƯ TẾ, RAO GIẢNG VÀ VƯƠNG GIẢ CỦA ĐỨC KITÔ

14. Khi nóí với những ngườl đá chịu phép Rửa Tội, Thánh Phêrô Tông Đồ xem họ như "những người con mới sinh", Người viết: "Chúng con hãy lại gần Ngài, Ngài là tảng đá hằng sống, mà loài người loại bỏ nhưng Thiên Chúa đã chọn vì Thiên Chúa đã thẩm định giá trị. Chúng con cũng thế, chúng con hãy trở nên những viên đá sông động dùng để xây dựng Đền Thờ Thiêng Liêng, dâng lên những của lễ thiêng liêng mà Thiên Chúa có thể chấp nhận nhờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, chính chúng con là dòng dõi dược lựa chọn, và hàng tư tế vương giả, là một dân tộc thánh, một dân thuợc về Thiên Chúa, như thế chúng con có trách nhiệm rao giảng những kỳ vọng của Đấng đã gọi chúng con từ bóng tôí đên ánh sáng lạ lùng của Ngài" (1 Pt. 2:4-5-9)

ĐÓ là một khía cạnh mớí mẻ của ân sủng và của phẩm giá phẻp Rửa Tội. Người tín hữu gíáo dân về phần nêng họ cũng tham gla vào ba chưc vụ cúa Đức Kltô là chức tư tế rao giảng và vương gíả. Đây là khía cạnh mà truyền thống Giáo Hội khống bao giờ lãng quên, như thánh Augustinô đã trình bày khi chú glải Thánh Vịnh 26; "Đavít nhận lãnh nghi lễ xức dầu làm Vua. Trong thời ấy chỉ có Vua và Tư Tế được xức dầu. Hai vị này tiên báo hình ảnh vị Vua Thượng Tế độc nhất - Đức Kitô (tiếng Kitô bởi chữ "Chrisma" có nghĩa là xức dầu). Không chỉ vị thủ lãnh của chúng ta, là thân thể cua Ngài, chúng ta cũng đuợc xức dầu với Ngài... Vì thế mọi Kitô hữu đêu được xưc dầu, trái với thời Cựu Uớc chỉ có hai người được xức dầu. Nêú chúng ta là thân thể Đức Kito, vì tất cả chúng ta được xức dầu trong Ngài và trở thành những Kỉtô, bởi vì đầu và thân thể làm thành một Đửc Kitô toàn vẹn." (19)

Theo đường lốl của Công đồng Vaticanô II,(20) ngay từ khi mới bắt đầu công việc mục vụ, Ta đã lưu ý ca tụng phẩm chức tư tế rao giảng và vương giả của toan dân Thiên Chúa. Ta nói: "Đâng đã sinh ra bởi Trinh Nữ María, Con của bác thợ mộc theo người đời ấy nghĩ tưởng, nhưng là Con Thlên Chúa Hằng Sống như Thánh Phêro tuyên bố, đã đến để làm cho chúng ta tất cả trở nên "một vương quốc lình mục". Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm của quyền bính này, và về sứ mệnh của Đưc Kltô là Linh Mục, là Thầy rao gìảng, là Vua vẫn tiếp tục trong Gíao Hôi. Tát cả mọi ngườỉ, toàn dân Thíên Chúa tham gia vào ba sứ mệnh nay" (21)

Với bưc Tông Huấn này, Ta muốn kêu mời một lần nữa tất cả mọi tỉn hữu gỉáo dân đọc lạỉ và suy ngắm, để lãnh hội một cách tường tận và yêu mến say mê giáo huấn súc tích và phong phú của Công Đồng đề cập đến việc họ tham gia vào ba chức vụ của Đức Kitô.(22). Và đây là một tổng hợp những căn bản của giáo huấn ấy.

Các tín hứu giáo dân tham gia vào trách vụ tư tê, đó là trách vụ Chúa Giêsu đã dùng để hiến tế mình trên Thánh Giá và còn tiếp tục hiến tế mình trong nghi lễ Phép Thánh Thể để làm vinh danh Đức Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại. Được ghép vào Đức Giêsu Kitô, những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được kết hợp với Ngài bằng việc dâng hiến chính mình và các hoạt động của mình (Rom. 12:l-2). Khi nói đến người tín hữu giáo dân, Công Đồng tuyên bố. "Tât cả những hoạt động của họ, nhữg lời cầu nguyện cũng như các hoạt động tông đồ, đời sông hôn nhân, gia đình, những công việc lao động hằng ngày, cả việc giải trí, tinh thần thể xác, nêú tất cả đều dược hướng dẫn do Thần Linh Thiên Chúa, ngay cả những thử thách của cuộc đời, miễn là chịu đựng một cách nhẫn nại, tất cả trở thành của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô (1 Phêrô.2:5). Trong Thánh Lễ, các của lễ này hiêp với Mình Chúa được dâng lên cho Đức Chúa Cha với tâm hồn sất sắng. Như thế người giáo dân thánh hiến cho Thiên Chúa chính cả trần thê này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng một đời sống thánh thiện." (23)

Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Kitô "là Đấng lấy cả cuộc sông mình cũng như lấy sức mạnh của lời nới để tuyên bố vương quốc Chúa Cha", (24) sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng-cách và dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Kitô "vị Đại Tiên Tri" (Lk. 7.16) và được đặt làm "chứng nhân" của Đức Kitô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo Hội "không thể sai lầm trong Đức Tin" (25) cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2:17-18, Ap. 19:10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang "ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thê ' (L.G. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại. (26)

Người tín hữu giáo dân thuộc về Đức Kitô là Chúa tể là Vua vũ trụ, nhờ đó họ được tham gia vào trách vụ vương giả của Ngài, và được Ngài kêu gọi để phục vụ và phổ biến Ngài trong hch sử. Họ sống vương quyền Kìtô hữu trước tiên bằng cách chiến đấu để chiến thắng thế gian tội lỗi (Rom 6. 12) ngay trong chính mình họ, rồi hiến dâng mình để phục vụ trong đức bác ái và trong công bằng. Chính Đức Kitô hiện diện trong mọi người anh em, nhất là trong những người thấp hèn nhất (Mt. 25.40).

Nhưng người tín hữu giáo dân được gọi đặc biệt để đem lại cho các tạo vật những giá trị nguyên thủy của nó. Khi hoạt động trong ơn nghĩa Chúa, người giáo dân liên kết mọi thụ tạo vào lợi ích chân thật của con người. Làm như thế, họ được tham gia vào việc thi hành quyền bính của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng đã lôi kéo mọi sự về Ngài, và đặt mọi sự và chính mình dưới quyền Đức Chúa Cha, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (Jn. 12:32, 1Co r. 18: 28).

Sự tham gia của giáo dân vào ba chức vụ của Chúa Giêsu Linh Mục, rao giảng và Vua bắt nguồn từ việc xức dầu của phép Rửa Tội, được phát triển nhờ phép Thêm Sức, được nâng đỡ và kiện toàn trong phép Thánh Thể. Đây là một sự tham gia ban cho mỗi tín hữu giáo dân, nhưng với tư cách là họ tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô. Bởi vì Chúa Giêsu làm cho Giáo Hội được sung túc bằng các ân huệ của mình, vì Giáo Hội là Thân thể và là Hiền thê của Ngài. Như thế mỗi người được tham gia vào ba sứ vụ của Đức Kitô chỉ vì họ là phần thân thể của Giáo Hội, như Thánh Phêrô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội "là dòng giông được lựa chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, là dân tộc thuợc về Thiên Chúa" (1 Pt. 2:9). Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Kitô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Augustinô viết: "Cũng như chúng ta tât cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể ủa Linh Mục duy nhât." (27)

NGƯỜl TÍN HỮU GlÁO DÂN VÀ TÍNH CÁCH TRẦN THẾ

15. Tính chất mới lạ của đời sống Kitô-hữu là nền tảng và tước hiệu của sự bình đẳng giữa tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội trong Đức Kitô, giữa tất cả những thành phần của Dân Chúa: "Phẩm giá của tât cả mọi thành phần đều giống nhau vì mọi thành phần đều cùng được tái sinh trong Đức Kitô; ơn làm nghĩa tử cũng như nhau; mọi người cùng (đêu được kêu gọi đên sự trọn lành, chỉ có một ơn cứu rỗi, một đức cậy trông, một đức ái không phân chia" (28). Nhờ phẩm giá chung do phép Rửa Tội này, người tín hữu giáo dân là người đồng trách nhiệm với tất cả các vị thừa-tác-viên đã được phong chức thánh, với các tu sĩ nam nữ, đối với sứ mệnh của Giáo Hội.

Nhưng phẩm giá chung do phép Rửa Tội nơi người tín hữu giáo dân có một hình thái làm cho họ khác biệt, nhưng không chia cách họ khỏi linh-mục và tu-sĩ nam nứ. Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả hình thái này chủ tại trong tính cách trần thế. "tính cách trần thế là đặc tính riêng biệt của giáo dân." (29)

Muốn hiểu rõ một cách đầy đủ vị trí chuyên biệt của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội, phải đào sâu tầm mức thần học của tính cách trần thế theo ánh sáng của chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, và mầu nhiệm của Giáo Hội.

Như Đức Phaolô VI quả quyết, Giáo Hội "mang tính chất trần thế chính tông, bẫm sinh trong bản tính thâm sâu và sứ mệnh của mình, gơc rễ nó nằm trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau đôí với các thành phần của mình." (30)

Tuy Giáo Hội sống giữa trần thế, mà không thuộc về trán thế (Jn. 17.16). Giáo Hội được sai đi để tiếp nôi công trình Cứu Chuộc của Đức Giêsu Kitô; công trình này "chính là lo cứu rỗi con người, nhưng cũng bao gồm việc canh tân những trật tự thế giới." (31)

Dĩ nhiên mọi thành phần của Giáo Hội đều phải tham gia vào lãnh vực trần thế của Giáo Hội, nhưng bằng những cách thế khác nhau. Đặc biệt sự tham gia của người giáo dân có một hình thái thực hiện và chức vụ "riêng rẽ và đặc biệt" theo như Công Đồng phân tích. Chính những hình thái này đã được gọi là "tính cách trần thế." (32) Trong thực tế, khi Công Đồng nói về thân thế của các tín hứu giáo dân, thì trước tiên chỉ thân thế ấy như nơi chỗ họ được Thiên Chúa gọi: "Đó là nơi họ được gọi" .(33)  Đó là "nơi" được trình bày với từ ngữ có nghĩa hoạt động, các tín hứu giáo dân "sống giữa đời, nghĩa là dấn thân vào đủ mọi nghĩa vụ và công tác của trần thế, trong những điều kiện thường nhật của đời sống gia đình và xã hội đã tạo nên." (34). Đó là những con người đang sống một đời sống thông thường giữa thế giới, đang học hành, đang làm việc, đang tạo nên những tình bạn, những tương giao xã hội, nghề nghiệp, văn hóa. Công Đồng không nhìn thân phận của họ một cách đơn giản do khuôn mẫu những điều kiện và môi trường bên ngoài, nhưng tìm gặp đầy đủ ý nghĩa của nó trong Đức Giêsu Kitô. (35) Công Đồng lại qủa quyết: "Ngôi Lời nhập thể đã muốn đích thân chia xẻ tình liên đới nhân loại. Người thánh hóa những môi liên hệ của con người, nhất là những liên hệ gia đình là ngưồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội. Người đã tự nguyện tuân theo luật lệ quốc gia của Người . Người đã muôn sống cuộc sống thợ thuyền với người đương thời trong quê hương mình." (36)

Như vậy, "thế giới ", đã trở nên môi trường và phương thế cho ơn gọi Kitô-hữu của người tín hữu giáo dân, vì chính trần thế được chỉ định để tôn vính Chúa Cha trong Đức Kitô. Với ý nghĩ này, Công Đồng có thể giải thích ý nghĩa nêng tư và đặc biệt ơn gọi của Thiên Chúa muốn kêu mời các tín hữu giáo dân. Họ không phải được kêu gọi để bỏ vị trí của mình giữa thế giới. V phép Rửa Tội không kéo họ ra khỏi thế giới như Thánh Phaolô Tông Đồ đã nhấn mạnh: "Hơĩ; anh chị em, mỗi người hãy ở trươc mặt Chúa, trong vị thế mình đang ở khi được kêu gọi" (1 Cor. 7.24). Trái lại, phép Rửa Tội trao phó cho họ một ơn gọi liên quan mật thiết với tình trạng của họ giữa thế giới. Các tín hữu giáo dân "được gọi, để nhờ sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, họ hành động như men dậy từ bên trong, để thánh hóa thế giới bằng việc thực thi các nhiệm vụ của mình. Như thế họ có thể đem Chúa Kitô đến cho kẻ khác bằng chứng tá của một đời sông sáng chói Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến." (37). Vì Vậy, sống và hành động giữa thế giới đôí với các tín hữu giáo dán, không chỉ là một thực tại nhân-sinh-xã-hội, mà còn là một thực tạí chuyên-biệt-thần-học giữa trần thê. Thiên Chúa muốn biểu lộ ý định của Ngài và thông ban cho họ ơn gọi đặc biệt là "tìm nước Thiên Chúa bằng cách quản lý các thực tại trần thế mà họ phải sắp xếp theo ý Thiên Chúa." (38)

Theo ý hướng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tuyên bố. "Tính cách trần thế của người tín hữu giáo dân không chỉ được định nghĩa theo quan niệm xã hội, mà theo ý nghĩa thần học. Tính cách trần thế phải hiểu theo ánh sáng của tác động tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Đâng đã trao phó trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia vào việc tạo dựng, dể họ giải thoát thụ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ tự thánh hóa mình trong đối sông hôn nhân hoặc độc thân, trong gia đình, trong chức nghiêp và trong các hoạt động xã hội". (39)

Vị trí của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội được minh định rõ ràng từ gốc rễ, bắt nguồn từ những mới lạ của đời sống Kitô-hữu và đặc tính trần thế của nó. (40)

Các hình ảnh trong Phúc âm nói về muôi mặn, ánh sáng và men bột, mặc dầu có ý nói về tất cả mọi tín đồ của Đức Giêsu , nhưng áp dụng cách nêng cho người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang nặng ý nghĩa tuyệt vời, bởi vì không những nó diễn tả việc hội nhập sâu xa và tham gia toàn diện của các người tín hữu giáo dân trên mặt đất, vào sự sống của thế giới, của cộng đồng nhân loại, nhưng nhất là nói lên nét mới mẻ và độc đáo của một sự hội nhập và tham gia để phổ biến Tin Mừng Cứu Độ.

ĐUỢC KÊU GỌl ĐỂ NÊN THÁNH

16. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng trọn vẹn phẩm giá của người tín hữu giáo dân nếu chúng ta khảo sát ơn gọi đầu tiên và căn bản mà Chúa Cha kêu mời mỗi người trong Đức Giêsu Kitô qua trung gian của Chúa Thánh Thần: ơn gọi nên Thánh nghĩa là ơn gọi đạt đến sự trọn lành của Đức ái. Thánh nhân là người đã sống cuộc đời làm chứng nhân phẩm giá của tín hữu Đức Kitô một cách sáng lạn.

Công Đồng Vaticanô II đã nói rất rõ ràng về ơn gọi mọi người phải nên Thánh. Có thể qủa quyết đó là đường hướng chính đã được vạch ra cho con cái nam nứ của Giáo Hội do Công Đồng, một Công Đồng đã được triệu tập để canh tân đời sống Kitô hữu theo ánh sáng Phúc âm.(41) Đường hướng này không chỉ đơn giản là một lời khích lệ luân lý, nhưng đó là một đòi hỏi mầu nhiệm của Giáo Hội: Giáo Hội là một cây nho được tuyển chọn, nhờ Giáo Hội các cành nho sinh trưởng nhờ nhựa sống của chính Đức Kitô, nhựa sống vừa thánh thiện vừa có sức thánh hóa; Giáo Hội là Nhiệm Thể, các phần thân thể của Giáo Hội thông phần sự sống thánh thiện của đầu là Đức Kitô; Giáo Hội là Hiền thê khả aí của Chúa Giêsu, là Đầng đã hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (Eph. 5. 25). Chúa Thánh Thần là Đấng đã thánh hóa nhân-tính Chúa Giêsu trong lòng Trinh Nứ Maria (Lk. 1:35) thì cũng chính Chúa Thánh Thần ấy cư ngu và hoạt động trong Giáo Hội để thông ban cho Giáo Hội sự thánh thiện của Con Thiên Chúa làm người.

Ngày nay hơn bao giờ hết, mọi người Kitô-hữu phải đi lại con đường canh tân theo tinh thần Phúc âm, đại độ chấp nhận lời mời của vị Tông Đồ "phải nên thánh trong mọi tác phong của mình" (1 Pt. 1:15). Thượng Hội Đồng ngoại lệ năm 1985, hai chục năm sau Công Đồng, đã nhấn mạnh kịp thời về tình trạng khẩn cấp này: "Giáo Hội trong Đức Kitô là mầu nhiệm, vì thế Giáo Hội phải được xem như là dấu chỉ, và phương thế của sự thánh thiện. Các vị Thánh nam, nữ, đã luôn luôn là nguồn gốc canh tân trong Giáo Hội và những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử Giáo Hội. Ngày hôm nay chúng ta cần có những vị Thánh lớn, chúng ta hãy khẩn khoản cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta những vị Thánh như vậy." (42)

Mọi người trong Giáo Hội, vì là phần thân thể Giáo Hội, nên nhận được và chia sẻ ơn gọi nên thánh chung của mọi người. Ngườl tín hữu giáo dán được mời gọi nên thánh, và họ có quyền được gọi giống như mọi thành phần khác của Giáo Hội: "Tất cả những ai tin vào Đức Kitô, không phân biêt bậc sống, địa vị, đều được kêu gọi tiên đến sự sung mãn của đời sống Kitô hữu và sự trọn lành của Đức ái" .(43) "Tất cả những tín hữu của Đức Kitô đều được mời gọi và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo địa vị của mình .(44)

Ơn gọi nên thánh bắt ngùôn từ phép Rửa Tội và được các bí tích khác thêm sinh lực, nhất là phép Thánh Thể. Được mặc lấy Chúa Kitô và được hướng dẫn bởl Thánh Linh Ngài, các Kitô hữu là những "thánh nhân" và vì thế, có năng cách để dấn thân hầu biểu lộ sự thánh thiện của hành động mình. Thánh Phaolô Tông ĐỒ luốn luôn khuyến khích các Kỉtô hữu sống "như những vị thanh" (Eph.5. 3).

Sống theo Thảnh Linh đem lại kết qủa là sự thánh thiện (Rom. 6.22, Gal. 5.22). Sự sống này khởi dậy trong tầm hồn mọi ngườl và mỗi ngươi đã chịu phép Rửa Tội, ước muốn và đòi hỏỉ phải theo và bắt chước Đức Giêsu Kitô, bằng cách chấp nhận các Mốt Phúc Thật của Ngài, bằng việc lắng nghe và suy niệm Lờì Chúa, bằng cách tham gia mốt cách ý thức và linh động vào đời sống phụng vụ và bí tích của Gỉáo Hộỉ, bằng việc cầu nguyện cá nhần, trong gia đình hay trong cộng đồng, bằng tâm hồn đói khát sự công chính, bằng việc thực hành giới răn yêu thương trong mọi hoàn cảnh của đời sống, và bằng việc phục vụ anh em, đặc bíệt nhưng người khó hèn, nghèo túng và đau khồ.

Thánh Hóa bản thân giứa thế giới.

17. ơn gọi nên thánh của người tín hữu giáo dán đòi hỏi sống theo tác động của Thánh Linh một cách đặc biệt trong việc hội nhập của họ vao thực tại trần thế, và trong việc tham gia vào các hoat động trần gian. Chính vị Tông Đồ Cả đã khuyên khích chúng ta như vậy: "Những gì chúng ta nóí, những gì chúng ta làm đêu phải thực hiện với danh nghĩa Đức Giêsu Kitô, nhờ Ngài để cảm tạ Thiên Chúa Cha" (Col. 3:17). Áp dụng lời của Thánh Tông Đồ cho tín hữu gíáo dân, Công Đồng qủa quyết một cách cứng rắn: "Họ không được để cho việc gia đình việc trần thế lấn át đời sống thiêng liêng của mình".(45)

Sau Công Đồng, các Nghí Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố. "Sự thống nhất đời sống của người tín hữu giáo dân rất quan trọng: vì họ phải tự thánh hóa trong cuộc sống hằng ngày, cuộc sống nghề nghiệp và xã hội. Để đáp lại ơn gọi của mình, người tín hữu giáo dân phải xem đời sông thường nhật như một cơ hội kêt hiệp với Chúa và thực hiện ý muôn của Ngài, như một cơ hội phục vụ tha nhân bằng cách đưa họ tới hiệp thông với Thiên Chúa trong Đức Kitô" (46)

Ơn gọi nên thánh phải được người tín hữu giáo dân nhận thức và sống, không phải như một bổn phận đòi hỏi và không thể lẫn tránh, nhưng một dấu chỉ chói sáng của tình yêu vô biên của Chúa Cha là Đấng đã tái sinh họ trong đời sống thánh thiện. Một ơn gọi như thế, trong những điều kiện ấy, phải được định nghĩa như yêú tố căn bản và không thể phân lìa của đởi sống mới do phép Rửa Tội, và vì thế, như một yếu tố cấu tạo nên phẩm giá của họ. Đồng thời, ơn gọi nên thánh lại được líên kết mật thiết với sứ mệnh và trách nhiệm được trao phó cho người tín giáo dân trong Giáo Hội và giữa thế giới. Bởi vì, sự thánh thiện đang sống trong tín hữu phát xuất từ việc tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, tự nó cũng biểu tượng sự đóng góp tiên khởi và căn bản vào việc xây dựng Giáo Hội như là "việc các thánh thông công". Trước cặp mắt Đức Tin đang mở ra một cảnh tượng lạ lùng: đó là bao nhiêu tín hữu giáo dân, nam và nữ trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, không ai hay biết tới họ, đôi khi cũng không ai hiểu được họ, các kẻ quyền hành trần thế không đếm xỉa tới họ nhưng Chúa Cha nhìn họ đầy vẻ trìu mến, họ là nhưng người thợ đang mài miệt làm việc t.rong vườn nho của Chúa, là những kẻ thấp hèn nhưng cao sang vì nhờ sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa, họ đang mở rộng Nước Thiên Chúa trong dòng lịch sử.

Phải nhìn nhận sự thánh thiện cũng là nền tảng căn bản và là điều kìện tuyệt đôí không thay thế được để hoàn thành sứ mệnh của Giáo Hội. Chính sự thánh thiện của Giáo Hội là nguồn gốc sâu nhiệm và là mực thước không sai lầm của hoạt động tông đồ, và nghị lực truyền giáo của Giáo hội. Giáo hội Hìên thê của Đức Kitô càng được Ngàì yêu mến và đáp lạỉ Tình yêu Ngài bao nhiêu, thì Giáo Hội càng trở nên người Mẹ phong phú trong Thánh Linh bấy nhiêu.

Một lần nữa, chúng ta hãy lấy lại hình ảnh của Thánh Kính: sự sinh trưởng của cành nho tùy thuộc vào việc kết hơp với cây nho: "Cũng như cành nho không tụ nó sinh hoa kêt qủa nếu nó khồng ở trong cây nho, cũng thế chúng con sẽ không đem lại hoa trái nêú chúng con không ở trong Thầy, Thầy là Cây Nho, chúng con là cành. Aí ở trong Thầy và Thầy ở trong ngươì ấy, họ sẽ mang lại nhiều hoa trái, bởi vì, ngoài Thầy, chúng con không làm gì được" (Jn. 15. 4-5).

Ở đây cần phải nhắc lại việc tôn phong chân phúc hay hiển thánh cho các tín hữu nam, nữ trong thởi gian Thượng Hội Đồng. Toàn dân Thiên Chúa, nhất là các tín hữu gìáo dân có thể tìm ở họ, những vị mô phạm mới cho việc nên thánh, những chứng nhân mới của các nhân đức anh hùng, được thực hiện trong những hoàn cảnh thông thường hằng ngày. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quả quyết: "Các Gián Hội địa phương nhất là các Gíáo Hộỉ trẻ trung phải lưu ý tìm xem trong con cái mình, những giáo dân nam nử gìữa những cánh đông như thê (cảnh sống thường nhật ở trần thế và bậc sống vợ chồng) đã sông chứng nhân thánh thiện và có thể trở nên gương mẫu cho người khác, để đề nghị phong Chân Phườc hoặc Hiển Thánh". (47)

Suy nghĩ đên đây, để định vai trò người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội, Ta nhớ lại lời kêu mời của Thánh Lêô Cả: "Hỡi người tín hữu hãy nhận chân phẩm giá của mình" (48). Đó cũng là điều mà Thánh Maxime, Giám Mục thành Turin nói với những người đã chịu phép Rửa Tội: "Anh em hãy nhìn nhận vình dự anh em đã được trong mầu nhiệm này". (49) Tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội đêu được mời gọi lắng nghe một lần nữa những lời của Thánh Augustinô: "Chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn: Không những chúng ta đã được trở nên những Kitô-hữu, mà là trở nên Chúa Kitô... Chúng ta hãy vui sướng hân hoan, chúng ta đã trở nên Chúa Kitô!" (50)

Phẩm giá người Kitô hữu, nguồn phát sinh sự bình đẳng của mọi thành phần Giáo Hội, bảo đảm và cổ võ tinh thần hiệp thông và huynh đệ, và đồng thời trở nên nguồn sức mạnh âm thầm của nghị lực tông đồ truyền giáo của người tín hữu giáo dân. Tuy nhiên là một phẩm giá đòi hỏi nhiều tước vị khác nhau của những người thợ được Chúa gọi vào làm vườn nho của Ngài, Công Đồng nói: "Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tđi tât cả mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại ". (51)

CHÚ THÍCH

12- Vaticanô II - Hiến chếLumen Gentium, số 6.

13- Xem Propositio, số 8.

14- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 81.

15- tld

16- Piô XII - Diễn văn đọc trước các Hồng Y mới nhậm chức (20-02-1946) - AAS. 38 (1946) 149.

17- Công đồng Florentiô, Sắc lệnh Pro Armentis - DS 1314.

18- Vaticanô II - Hiến Chế Lumen Gentium, số 10.

19- Thánh Augustinô - Ennar-in PS XXVI, II,2.

20- Xem Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 10.

21- Gioan-Phaolô II - Bài giảng ngày nhậm chức Giáo Hoàng (22-10-1978)- AAS 70 (1978) 946.

22- Xem lại giáo huấn này trong Instrumentum laboris "ơn gọi và sứ mạng...", số 25.

23- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 34.

24- tld - 35

25- tld - 12

26- tld - 35

27- Thánh Augustinô - De Civitate Dei - XX, 10.

28- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 32.

29- tld - 31

30- Phaolô VI . Bài giảng trước các Bề trên và Hội viên của các Tu hội đời (02-02-1972). AAS. 64 (1972) 208.

31- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuasitatem, 5.

32- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 31.

33- tld - 31

34- tld - 31

35- Xem tld 48.

36- Vaticanô II - Hiến chế Gaudium et Spes, số 32.

37- Vaticanô II - Hiến chế Lumen Gentium, số 31.

38- tld -

39- Propositio, 4.

40- "Là thành phần của Dân Chúa và Thân thể Mâu nhiệm, qua Bí tích Thánh tẩy tham dự vào ba chức vụ Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả của Chúa Kitô, gìáo dân diễn tả và thể hiện những kho tàng của phẩm giá đó khi sống giữa trần thế. Đôí với những ai có chức thừa tác vụ được phong chức thánh, đó là một phận vu bổ sung hoặc đặc biệt khác thường, thì đôí với người giáo dân lại là một sứ mệnh đặc loại của họ, Ơn gọi riêng cửa họ là "tìm Nước Chúa trong việc quản iý thế sự theo ý Chúa" (Lumen Gentium, số 31), (Gioan-Phaolo II  Kinh Truyền tin (15-3-1987), Insegnamenti. X,1 (1957), 566)."

41- Xem Chương V - Hiến chế Lumen Gentium, số 39-42. - "Ơn gọi nên thánh của mọi người trong Giáo hội".

42- Buổi họp lần II Thượng Hội Đồng Giám mục (1985) Relatio finalis II. A,4.

43- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 40.

44- tld - 42 - Những xác quyết của Công đồng, nói lên một cách long trọng và rõ rệt, nhắc lại một chân lý nền tảng của Đức tin Kitô giáo. Chẳng hạn, Đức Piô XI trong Thông điệp Casti Connubii nói với vợ chồng Kitô giáo như sau: "Bất cứ ở hoàn cảnh nào, ở bậc sống nào tùy ý mình chọn, mọi người có thể và phải bắt chước mẫu mực hoàn hảo về sự thánh thiện mà Chúa muốn con người thực hiện, mẫu mực đó là Chúa Giêsu Kitô; và với ơn Chúa giúp họ có thể và phải đạt đến mức sống trọn lành của Kitô giáo, như các Thánh đã làm gương cho chúng ta" AAS - 22 (1980), 548.

45- Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, 4.

46- Propositio, 5.

47- Propositio, 8.

48- Thánh Lêo Cả - Bài giảng XXI

49- Thánh Maximô - Luận giải III về Bí tích Rửa tội.

50- Thánh Augustinô - Luận giải về Phúc âm Thánh Gioan - 21,8.

51- Vaticanô II - Hiên chế Lumen Gentium, số 33



Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!