HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT
16
THƯỜNG NIÊN C
St 18,1-10a ; Cl
1,24-28 ; Lc 10,38-42
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc
10,38-42
(38) Trong khi
Thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên
là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. (39)
Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mác-ta
thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con
để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó
giúp con một tay !” (41) Chúa đáp: “Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị lo lắng và
lăng xăng nhiều việc quá ! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
2. Ý CHÍNH:
Câu
chuyện trong Tin mừng hôm nay có 3 nhân vật chính: Đức Giê-su và hai chị
em Mác-ta Ma-ri-a. Hai chị em này phục vụ Đức Giê-su mỗi người một
cách: Mác-ta thì bận rộn lo việc cơm nước, đang khi Ma-ri-a lại ngồi
bên chân Thầy và nghe Lời Người. Mác-ta khó chịu với cô em và xin Thầy
can thiệp bảo Ma-ri-a giúp đỡ mình. Nhưng Người lại cho biết việc nghe
Lời Chúa mà Ma-ri-a đang làm mới là điều quan trọng và cần thiết hơn
cả.
3. CHÚ THÍCH:
- C 38-39: +
Trong khi Thầy trò đi đường
vào làng kia: Đức Giê-su vào làng Bê-ta-ni-a, cách Thủ đô
Giê-ru-sa-lem 3 cây số. + Có một người phụ nữ tên là Mác-ta:
Đây là chị cả trong một gia đình có ba chị em. Mác-ta chưa lập gia
đình, vì nếu đã có chồng thì người chồng đã phải đứng ra tiếp đón
Đức Giê-su. Là chị cả nên Mác-ta phải đảm đương mọi việc. Bà lo dọn
bữa ăn phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ. + Đón Người vào nhà:
Người Do thái vốn hiếu khách. Đức Giê-su không những là khách mà
còn là bạn thân của gia đình (x. Ga 11,5). Thái độ tiếp đón này trái
với thái độ dân làng Sa-ma-ri trước đó đã từ chối đón tiếp Người (x.
Lc 9,53). Trong thời điểm những ngày cuối đời, việc đón tiếp Đức
Giê-su của Mácta còn là hành động can đảm. Vì khi ấy Người đang bị các
đầu mục Do thái theo dõi, ai đón tiếp Người sẽ bị coi là đồng đảng
và có thể bị khai trừ ra khỏi hội đường nữa (x. Ga 9,22 ; 12,10.42).
+ Người em gái tên là Ma-ri-a: Đây là Ma-ri-a làng Bê-ta-ni-a,
khác với Ma-ri-a làng Mác-đa-la (x. Lc 8,2), cũng không phải là Ma-ri-a
thân mẫu Gia-cô-bê và Giô-sép (x. Mt 27,56), không phải Ma-ri-a mẹ của
Gio-an (x. Cv 12,12). Cô Ma-ri-a là em của Mác-ta,
là chị của La-da-rô. Chính cô Ma-ri-a này đã hy sinh bình dầu đắt tiền
để xức chân Đức Giê-su (x Ga 12,3). Cần phân biệt cô Ma-ri-a này với
người phụ nữ tội lỗi cũng xức dầu thơm trên chân Đức Giê-su (x Lc
7,38). Cả 3 chị em nhà này đều được Đức Giê-su yêu mến (x. Ga 11,5).
+ Ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy: Trong Lu-ca, ngồi
dưới chân là thái độ của người môn đệ (x. Lc 8,35 ; Cv 22,3)
- C 40-42: + Em
con để mình con phục vụ...: Mác-ta luôn tỏ lòng quí mến
Đức Giê-su và quan tâm phục vụ Người (x. Ga 12,2). Cô không hài lòng khi
thấy cô em Ma-ri-a nhàn nhã ngồi bên chân và nghe Thầy dạy đang khi cô phải vất
vả lo làm bữa cho Người. Do đó cô đã yêu cầu Đức Giê-su cho Ma-ri-a xuống
bếp giúp cô một tay. + Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi:
Chuyện cần thiết duy nhất này là gì ? Đó là điều cô em Ma-ri-a đang
làm: “Ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. Đức Giê-su không đánh
giá thấp việc bếp núc của Mác-ta. Nhưng việc tìm biết thánh ý Thiên
Chúa lại là điều duy nhất cần thiết. Hơn nữa, Lời Chúa là của ăn
tinh thần nên có giá trị cao hơn của ăn vật chất như Người đã nói:
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4) và “Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
4. CÂU HỎI:
1) Tin mừng đã kể ra mấy phụ nữ tên Ma-ri-a và các bà này liên quan
thế nào với Đức Giê-su ? 2) Có mấy người phụ nữ đã xức dầu thơm cho
chân Đức Giê-su ? 3) Đức Giê-su đã cho biết quan điểm thế nào giữa hai
việc phục vụ: Một là phục vụ bàn ăn của Mác-ta và hai là ngồi bên
chân Chúa mà nghe Lời Người của Ma-ri-a?
II.SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Cô
Ma-ri-a cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì
tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10,39-40).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG CẦU
NGUYỆN CỦA MỘT NHÀ BÁC HỌC.
PHÊ-ĐÊ-RIC Ô-DA-NAM
(Federic Ozanam), một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội
Pháp vào cuối thế kỷ 19, khi còn là sinh viên đại học đã trải qua một
cơn khủng hoảng về đức tin. Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho
tâm hồn, anh vào một ngôi thánh đường ở Pa-ri. Từ cuối nhà thờ, anh
nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện ở hàng ghế đầu gần gian
cung thánh. Đến gần, chàng sinh viên nhận ra đó không ai khác hơn là
nhà bác học ĂM-PE (Ampère), vị giáo sư của anh, một nhân vật nổi tiếng
lúc bấy giờ. Anh đứng lặng lẽ một hồi để quan sát nhà bác học khi
ông đang cầu nguyện rất sốt sắng. Sau đó, anh theo gót thầy trở về
phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng thập thò ngòai cửa,
nhà bác học liền mở lời hỏi: “Này anh bạn trẻ, anh cần gì ? Tôi có
thể giúp gì được cho anh đây ?” Chàng thanh niên nhỏ nhẹ thưa: “Thưa
giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Hôm
nay con xin hỏi thầy một vấn đề về đức tin !” Nhà bác học mỉm cười
khiêm tốn đáp: “Anh lầm rồi. Đức tin là môn yếu nhất của tôi đấy.
Nhưng nếu giúp được anh điều gì thì tôi cũng sẵn sàng”. Chàng sinh
viên liền hỏi: “Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là một nhà bác học
vĩ đại, vừa là một tín hữu đạo đức siêng năng cầu nguyện hay không?”
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh học trò. Sau một lát im
lặng, ông trả lời bằng một giọng run run đầy cảm xúc: “Con ơi ! Chúng
ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi !”.
2) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT VỊ
TỔNG THỐNG :
Trong tác phẩm SỐNG HẠNH PHÚC của
Tổng Gíam Mục Fulton J. Sheen có một nhân chứng đương thời với Tổng thống Hoa Kỳ
Áp-bra-ham Lanh-côn, kể lại rằng ông ta đã có thời gian ba tuần sống chung với
A. Lincoln sau khi trận đánh Bull Rull kết thúc :
“Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn
thử dợt lại những gì sẽ phải nói trước công chúng vào sáng hôm sau. Bấy giờ đã
quá nửa đêm, hay đúng hơn là gần đến hừng đông. Và tôi nghe có tiếng thầm thì
trong phòng ngủ của Tổng Thống. Cửa phòng còn hé mở. Tôi bước lại gần và thấy
một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống quì bên một cuốn Kinh
Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Ngài quay lưng về phía tôi. Tôi
đứng lặng một lúc quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu
nguyện :
“Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn
của Sa-lô-mon trong đêm khuya, để xin được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con
đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là
kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Sa-lô-mon, xin
hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!”
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CẦU
NGUYỆN KHI GẶP GIAN NGUY :
Trong cuộc khảo thí tại trường sĩ
quan trẻ, vị Thiếu tá giám khảo hỏi một chuẩn uý :
- Trong một cuộc hành quân, đơn vị do
anh chỉ huy rơi vào tình huống này: Phía trước và hai bên đơn vị của anh đều bị
quân địch vây chặt, chúng chặn cả lối rút lui của anh, có nghĩa là đơn vị anh bị
bao vây gọn, lúc đó anh sẽ xử trí thế nào?
Mọi con mắt của Ban Giám Khảo đều đổ
dồn về phía anh sĩ quan trẻ, anh suy nghĩ một lát rồi đứng nghiêm trả lời :
- Thưa Thiếu tá và Ban Giám Khảo, tôi
sẽ hạ lệnh: “Cầu nguyện”.
Tất cả Ban Giám Khảo nhìn nhau bỡ
ngỡ, vì không ai nghĩ tới một câu trả lời như thế. Viên Thiếu tá liền vỗ vai anh
sĩ quan trẻ và nói:
- Anh hãy nhớ xử lý đúng như lời anh
vừa nói nhé !
3.
THẢO LUẬN:
1) Qua Lời Chúa dạy hôm nay, bạn thấy cầu nguyện có cần không ? Mỗi
ngày bạn thường cầu nguyện vào những lúc nào ? Bạn thường cầu
nguyện như thế nào ? 2) Có khi nào bạn cầu nguyện bằng cách đọc một
đoạn Tin mừng, sau đó suy nghĩ và cầu nguyện dựa theo ý tưởng mà Lời
Chúa gợi ra hay không ? 3) Bạn có thể dùng cách nào để biến các việc làm
hằng ngày trở thành lời cầu nguyện liên lỉ dâng lên Thiên Chúa không ?
4. SUY NIỆM:
1)
TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN TRONG CUỘC SỐNG:
Trong cuộc hành
trình lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn,
Đức Giê-su
đã ghé làng Bê-ta-ni-a và vào trọ trong nhà người bạn thân là anh La-gia-rô (x
Lc 13,22).
Chính
trong
ngôi nhà này Đức Giê-su đã cho thấy tầm quan trọng của sự cầu nguyện, là noi
gương Ma-ria ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người.
-
“Thầy
không để ý tới sao ?”:
Mác-ta đã tỏ thái độ không hài lòng trước sự thờ ơ của Đức Giê-su và của cô em
Ma-ri-a khi để mặc cô phải phục vụ nấu ăn một mình.
Cô nhờ Đức Giê-su nhắc
cho Ma-ri-a hãy xuống bếp phụ giúp cô. Trong câu trả
lời, Đức Giê-su không bác bỏ
việc vất vả làm bữa phục vụ Người của Mác-ta, nhưng Người muốn cô nhận ra đâu là
điều tốt nhất và cần nhất để có Nước Trời làm gia nghiệp. Khi nhận xét về thái
độ của Mác-ta, Đức Giê-su dùng từ “nhiều chuyện”, nghĩa là quá chú trọng
về món ăn vật chất
mà quên đi sự cần thiết của món ăn tinh thần là Lời Chúa.
- “Chỉ có một
chuyện cần mà thôi” : Đức Giê-su không chê thái độ phục vụ của Mác-ta, vì đó
là cách biểu lộ lòng mến cô dành cho Người.
Nhưng Người lại
đánh giá cao tâm tình của
Ma-ri-a, khi cô đặt
Người làm trung tâm cuộc đời của cô. Qua đó,
Người muốn dạy chúng ta rằng:
Tuy hằng ngày phải vất vả lo toan tìm kiếm cái ăn cái mặc như Mác-ta, nhưng
chúng ta cũng cần dành ra thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa và tâm sự
với Người như Ma-ri-a.
2) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC
GIÊ-SU:
Sách Tin Mừng đã ghi nhận gương Đức
Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha như sau :
- Sau khi chịu phép rửa tại sông
Gio-đan, Đức Giê-su đã khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng cách lên núi ăn
chay và cầu nguyện suốt 40 ngày đêm (x. Mt 4,2b), để xin Cha chúc lành cho công
việc Người sắp thực hiện. Người cũng dạy môn đệ tránh thái độ phô trương, nhưng
hãy cầu nguyện nơi kín đáo (x. Mt 5,4-6). Tránh cầu nguyện dài dòng như dân
ngoại nhưng hãy nói vắn gọn như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 4,7-14).
- Đức Giê-su đã nêu gương cầu nguyện
với Chúa Cha trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều: “Người cầm lấy năm cái
bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho
môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông” (Mt 14,19). Người khuyên các môn đệ hãy
hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh
em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.
Vì ở đâu có hai ba người họp nhau lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa
họ” (Mt 18,19-20).
- Trước cuộc tử nạn, Đức Giê-su đã
cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mt 26,36-46). Tin Mừng Gio-an đã ghi lại lời cầu
nguyện của Đức Giê-su gồm 26 câu trong đoạn 17. Trong vườn ghết-sê-ma-ni Người
đã cầu xin Chúa Cha: “ Lạy
Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm
theo ý con mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42).
Trên thánh giá trước khi tắt thở, Đức Giê-su đã cầu nguyện: “Xin Cha tha cho
chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34)…
3) TẦM QUAN TRỌNG
CỦA SỰ CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI TÍN HỮU:
- Các mẫu gương
cầu nguyện :
Đầu tiên là nhà bác học AM-PE, tên đầy đủ là
André Marie Ampère (1775–1836),
một
nhà
vật lý lừng danh
người
Pháp,
đã để lại
nhiều thành quả nghiên cứu khoa học như điện học, nam châm điện... mang
lại ích lợi cho nền văn minh nhân loại. Thế nhưng, Am-pe không coi những
thành quả đó là lớn lao khi nói với một anh sinh viên rằng : “Chúng ta chỉ
vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi”. Tiếp đến là Thánh TÊ-RÊ-SA thành
Can-quýt-ta, một nữ tu sống thánh thiện giữa đời thường. Mỗi ngày
trước khi bước xuống “địa ngục Can-quýt-ta” để chăm sóc những người
cùng khổ, hoặc đến “nhà hấp hối” để an ủi những kẻ đau liệt, Mẹ
Tê-rê-sa đều cùng chị em trong cộng đoàn đến quì chầu Thánh Thể tại nhà
nguyện một giờ đồng hồ.
- Ích lợi của sự
cầu nguyện :
Ngày nay, trong một thế giới thực dụng coi trọng hiệu quả bề ngoài,
Hội thánh đang có nhiều Mác-ta nhưng lại có ít Ma-ri-a. Nhiều người đã
coi việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện là việc vô ích vì mất thời giờ và
thụ động.
Nhưng thực ra có
hành động nào hiệu quả cho bằng nghe và thực hành Lời Chúa ? Làm việc
tông đồ là mang Chúa đến cho tha nhân. Vậy tại sao chúng ta lại không
múc đầy tình yêu nơi Chúa Giê-su là suối nguồn yêu thương vô tận. Hãy ý
thức tầm quan trọng của sự kết hiệp với Chúa như lời Người dạy: “Thầy là cây
nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm
gì được” (Ga 15,5). Đôi tay của cô Mác-ta lo bữa ăn cho Đức Giê-su là một
việc quan trọng và không thể thiếu về phần thể xác. Nhưng đôi chân quì bên
Chúa và đôi tai lắng nghe Lời Người của Ma-ri-a lại càng quan trọng và
cần thiết hơn như Lời Chúa đã khẳng định: “Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất”
(Lc 10,42).
4) THÁI ĐỘ QUÂN
BÌNH GIỮA CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ:
Trong một ngày,
chúng ta thường chỉ dành ít phút buổi sáng cho việc cầu nguyện dâng lễ,
còn phần lớn thời gian còn lại là dành cho các sinh hoạt khác. Tuy
vậy, chúng ta vẫn có thể biến mọi sinh hoạt đời thường như: ăn uống,
ngủ nghỉ, học tập, làm việc... trở thành lời cầu nguyện, bằng cách
dâng ngày mỗi sáng khi vừa thức giấc. Rồi trong ngày hãy năng thưa với Chúa
lời nguyện tắt trước mỗi công việc “Lạy Chúa, con làm việc này để biểu lộ
lòng con yêu mến Chúa,… để cầu xin cho một người đang lạc xa Chúa được sớm trở
về với Chúa”… Nhờ đó, chúng ta sẽ biến những việc làm hằng ngày của mình
trở thành lễ vật, kết hiệp với lễ vật cao trọng là Mình Máu Chúa
Giê-su luôn được dâng trên các bàn thờ khắp nơi trên thế giới.
Một tín hữu sẽ có
nếp sống đạo đức quân bình khi vừa lo chu tòan việc bổn phận phục vụ Chúa và
tha nhân như Mác-ta, nhưng đồng thời không quên kết hiệp với Chúa như Ma-ri-a.
Đừng đợi đến khi xong việc mới nhớ đến Chúa. Vì chính khi đang bận rộn
phục vụ tha nhân, là lúc chúng ta cần được Chúa ban ơn trợ giúp bằng sự cầu
nguyện.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Khi con bị bao vây bởi những tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng bên Chúa. Khi con vất vả với trăm công nghìn việc,
xin cho con biết quý trọng những phút giây được an nghỉ bên lòng Chúa. Khi
con bị kéo ghì bởi những đam mê dục vọng, xin cho con được ơn giải thoát
và hướng lòng trí lên cao nhờ kêu cầu Danh Thánh Chúa. Ước gì tinh thần
cầu nguyện thấm nhuần trong cuộc sống đời thường của con, để con có thể
cầu nguyện không ngừng như lời dạy của thánh Phao-lô:
"Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm
việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM