Người biệt phái và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện, mỗi người có tâm trạng và thái độ rất khác nhau (x. Luca 18, 9-14)
- Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng : Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người khác : tham lam, bất công, lạm dụng và con đã dâng một phần mười các hoa lợi của con.
- Còn người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời đấm ngực và nguyện rằng : Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội. – Kết quả : người thu thuế được tha tội, còn người biệt phái thì không, tại sao vậy ? Có bất công không ?
Trước hết, xét tới lời cầu nguyện của người biệt phái. Ông cảm tạ Chúa vì những tội ông ta không phạm, về những việc lành ông ta làm, ăn chay một tuần hai lần vào thứ hai và thứ năm trong khi luật chỉ dạy mỗi năm ăn chay một lần trong dịp lễ Đền Tội (Lêvi 16,29), nộp thuế một phần ba hoa lợi trong khi luật dạy nộp một phần mười những gì mình sản xuất được như các loại hoa quả, bạc hà, rau húng hoặc vân hương (xem Đệ Nhị luật 12, 17 ; Mt 23,23 ; Lc 11,42) như vậy có thể ông giữ chay và nộp thuế quá luật dạy. Ông quả là người giữ đúng luật. Ông cảm tạ Chúa vì tội không phạm, vì việc lành đã làm, nhưng ông lại so sánh mình với người khác, với người thu thuế, ông thấy họ có tội, còn ông thì trong sạch. So sánh này, Thánh Vịnh cũng đã làm. Thí dụ, Thánh Vịnh nói : Con không theo ngẫu tượng, (Tv 16,4) lòng dạ không gian tà (Tv 15, 2-5). Tuy nhiên, người biệt phái đã đi ra khỏi tinh thần Thánh Vịnh và mắc tội “công thần” tức là ỷ vào việc lành để đưa mình lên trước mặt Chúa, cho mình có quyền được thưởng, có quyền như người công chính.
Ông vi phạm đức mến. Như thánh Phaolô nói : “Dầu có nói được tiếng lạ, dầu phân phát của cải cho nhiều người mà thiếu Đức Mến thì cũng vô ích”( 1 Cor 13, 2-3) Mà Đức Mến thì Tin, Cậy, khiêm nhường, đại lượng ( 1 Cor 13,4) Người biệt phái nhìn vào công việc của mình để tán dương mình trước mặt Chúa và khinh dễ người thu thuế nên ông thiếu Đức Mến, vì thế, ông không được công chính hóa tức là tội ông không được tha.
Còn người thu thuế, biết tội tham lam, bất công của mình, đấm ngực xin Chúa thương. Anh đã kêu cầu Chúa theo tinh thần Thánh Vịnh 51 : Lạy Chúa xin thương xót con theo lượng nhân nghĩa của Chúa, của lễ anh dâng lên Chúa là tâm hồn thống hối… Vì thế, anh được Chúa tha.
Chúng ta có thể bàu chữa cho người biệt phái : ông cảm tạ Chúa và kể ra những công việc mình làm với thái độ tự mãn, khinh người khác, vì thái độ của ông Chúa không ban ơn thôi chớ sao lại bắt tội. Cầu nguyện mà mang tội, cầu nguyện làm gì ?
Chỉ có thể trả lời : Chúa Kitô là Đấng thẩm phán và chỉ một mình Ngài mới có phán đoán đúng ai là công chính, ai không, ai được Chúa tha, ai không. Chúa đã dạy chúng ta đừng đoán xét vì ta dễ dàng rơi vào chủ quan, đoán xét sẽ sai lầm. Trong bài Phúc âm, Chúa cũng đã nêu lý do người được tha người không : vì tất cả những ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.
Ta cũng có thể nghĩ rằng người biệt phái cầu nguyện với thái độ tự mãn, kiêu căng vì ông đã vẽ ra một hình ảnh Thiên Chúa theo ý của ông, theo tư tưởng của ông, trong khi Thánh Vịnh là kinh đọc cầu nguyện của dân tộc ông dâng lên lời thống hối, xin Chúa tha thứ : của lễ con dâng là tâm hồn thống hối (Tv 51,19) tức là Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Thiên Chúa đích thực là vậy.
Thái độ tự nâng mình lên trước mặt người khác ta thường mắc phải. Nhìn vào kẻ tội lỗi, ta có thể chê bai. Ta mặc nhiên cho mình không như họ. Nói hành, gièm pha để hạ người khác xuống hoặc ghen tỵ vì người khác hơn ta cũng nằm trong cách thế nâng mình lên. Có người bực mình cả với Chúa, với Đức Mẹ vì người khác được Chúa thương mà mình thì đạo đức hơn, sống tốt hơn. Đáng lẽ ta phải cảm tạ Chúa đã thương ta, đã thương kẻ khác, cho kẻ khác hơn ta thì lại đâm ra ghen tuông, muốn hạ
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh