SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM C (24/4/2022)
[Cv 5, 12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chính
Thánh Gio-an Phao-lô II là Vị Giáo hoàng đã thiết lập Lễ Kính Lòng Chúa Thương
Xót và cổ võ lòng sùng kính này trong Hội Thánh theo mạc khải (tư) mà Thiên
Chúa đã ban cho Thánh nữ Maria Faustina (1905-1938):
“Ta muốn ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn
cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy,
Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở; Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống
các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta.” (Trích nhật ký, số
699).
Việc
Hội Thánh mừng Lễ Lòng Chúa Thương Xót vào Chúa Nhật II Phục Sinh thật vô cùng
ý nghĩa! vì cái chết thập giá và sự sống lại của Chúa Giê-su là biểu hiện cao
nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Chúa Thương Xót dành cho loài người.
Đức
Thánh Cha Phan-xi-cô cũng đã chọn năm 2016 làm Năm Thánh Lòng Thương Xót, để
toàn thể Hội Thánh chiêm ngắm, tôn vinh, rao truyền một cách đặc biệt Lòng Chúa
Thương Xót. Thật ra năm nào, tháng nào cũng đáng được chúng ta cảm tạ và tôn
vinh Lòng Chúa Thương Xót. Các bài Thánh Kinh hôm nay phải được đọc, suy niệm
và áp dụng theo hướng ấy!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1
Lời Chúa trong bài đọc 1 (Cv 5, 12-16): “Số người tin vào Chúa ngày càng gia
tăng” Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường
trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không
một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài.
Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh
nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là
bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Đông đảo dân chúng ở
những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những
người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.
2.2
Lời Chúa trong bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19): “Ta đã chết nhưng đây
Ta vẫn sống đến muôn đời” Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự
gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Đức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô
vì lời Chúa và vì làm chứng Đức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe
phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: "Hãy viết những điều
ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á". Tôi quay lại để
xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và
ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Đấng giống như Con Người, mặc áo
dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã
xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: "Đừng
sợ, Ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, Ta là Đấng hằng sống; Ta đã chết,
nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy
hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy
ra sau này"
2.3
Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-31): “Tám ngày sau, Chúa Giê-su hiện
đến” Vào
buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín,
vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng:
"Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại
phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông:
"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy
được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong
Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa
Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem
thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không
nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu
tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám
ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi
các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho
các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và
hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng
lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa
của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên
con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa
Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép
trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa
Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh
Người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH
THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Cv 5,12-16) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả nét
đặc thù của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi với nhiều dấu lạ điềm thiêng mà Thiên
Chúa thực hiện trong/qua cộng đoàn ấy. Với những phép lạ chữa bệnh và trừ quỉ
của các Tông đồ nói chung và của Tông đồ trưởng Phê-rô nói riêng, cộng đoàn đã
tạo nên một sức hút mạnh mẽ khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Cũng vì thế mà càng
ngày càng có nhiều người gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu mới này.
Trong đoạn sách Cv 5,12-16 trên chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu
thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Bỏ hay đúng hơn là vượt qua
truyền thống tôn giáo ngàn năm, những người Do-thái không dễ gì thực hiện được
việc khó khăn này. Tin vào một con người (Đức Giê-su Na-da-rét) đã sống như bao
người, đã bị nhà cầm quyền tôn giáo (đền thờ) và chính trị (đại diện đế quốc
Rô-ma đô hộ) loại trừ bằng bản án “gây rối phá hoại an ninh quốc gia” (nói theo
kiểu nói ngày nay) và bị giết chết trên thập giá mà nay được các môn đệ công
khai rao giảng là đã sống lại và là Đấng Thiên Chúa thì lại càng là việc khó
khăn hơn bội phần. Hơn ai hết Thiên Chúa của Chúa Giê-su hiểu những khó khăn mà
các tín hữu đầu tiên gặp phải. Chính vì thấu hiểu và cảm thông với họ và với
các môn đệ của Chúa Giê-su trong công trình khó khăn và trọng đại là làm cho
người ta tin theo Chúa, nên Thiên Chúa mới thực hiện nhiều “dấu lạ điềm thiêng”
cho cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Những phép lạ nhãn tiền và kỳ diệu trở thành
những “dấu chỉ” của sự hiện diện và hành động của một Đấng Thiên Chúa đầy lòng
xót thương và từ bi.
3.1.2
Bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19) là lời Thánh Gio-an Tông Đồ kể về một thị kiến tức một mạc khải
mà Thiên Chúa đã ban cho ngài để ngài chuyển lại cho các người/cộng đoàn tin
theo Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Nội dung thị kiến là về chân tướng của Chúa
Giê-su Ki-tô: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã
chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm
phủ.”
Trong
đoạn Sách Kh 1,9-11a.12-13.17-19 trên, chúng ta cũng thấy tấm lòng
yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Nhưng ở đây Thiên Chúa
Cha đáp ứng một nhu cầu rất quan trọng và thực tế của người tín hữu: Chúng ta
biết vào cuối đời của Thánh Gio-an (cuối thế kỷ thứ nhất theo Công Nguyên) thì
Hội Thánh ở nhiều nơi đang phải đương đầu với những cuộc bách hại từ các nhà
cầm quyền tôn giáo và chính trị. Niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và vào giáo lý
của Người cần được củng cố nơi nhiều cá nhân và cộng đoàn. Thị kiến của Thánh
Gio-an có ý nghĩa trấn an và củng cố các tâm hồn.
3.1.3
Bài Tin Mừng (Ga 20,19-31) là tường thuật của Thánh Gio-an về hai cuộc hiện ra
của Chúa Giê-su Phục Sinh. Hai sự kiện ấy xẩy ra, một vào chính ngày thứ nhất
trong tuần (sáng Chúa Nhật Phục Sinh) một vào tám ngày sau.
* Trong lần hiện ra lần đầu Chúa Ki-tô Phục Sinh xuất hiện một
cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà Người vào nhà được). Người ban bình an
cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho các ông xem cạnh
sườn và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người, để các ông nhận ra Người.
Người giao sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Người là tìm đến với nhân loại.
Người thổi hơi thở mới (sức sống và tình yêu) trên họ và mời họ mở lòng đón
nhận Thánh Thần.
* Trong lần hiện ra lần sau Chúa Ki-tô Phục Sinh cũng xuất hiện
một cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà Người vào nhà được). Người cũng
ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho riêng
ông Tô-ma (tông đồ này không có mặt ở lần hiện ra trước và quả quyết với anh em
là chỉ có bằng chứng mắt thấy tai nghe tay sờ thì mới tin) đặt tay vào cạnh
sườn và và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người. Người nói với ông Tô-ma:
“đừng cứng lòng nữa mà hãy tin!” Ông Tô-ma đã tâm phục khẩu phục mà thưa với
Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "
Trong Bài Phúc Âm Ga 20,1-9 chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu thương
của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đối với các môn đệ nói chung và với ông Tô-ma
nói riêng. Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh thấu hiểu tâm trạng, nỗi khó khăn, ngờ
vực và sợ sệt của các tông đồ. Người thấy và biết các ông cần gì và Người đáp
ứng hơn mức cần thiết.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Tin & Làm Chứng cho Thiên
Chúa và cho Chúa Ki-tô Ki-tô Phục Sinh là Đấng Giầu Lòng Thương Xót.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
là Đấng Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, thấu
suốt mọi nhu cầu của con cái loài người và đáp ứng một cách quảng đại sự mong
chờ của các tâm hồn tin cậy phó thác vào Chúa.
Chúng ta sống với Người bằng tâm tình
ngưỡng mộ cảm phục và biết ơn.
Chúng ta còn sống với Người bằng cách noi
gương Người mà thể hiện một tấm lòng quảng đại xót thương với mọi người
chung quanh.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Lời Chúa
Làm chứng hay thể hiện lòng tin vào Thiên
Chúa Giầu Lòng Thương Xót bằng tâm tình, thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm.
Nói cách khác là chẳng những chúng ta thể
hiện lòng tin ấy bằng lời kinh, tiếng hát mà còn bằng cách sống bao dung, quảng
đại và xót thương đối với mọi người trong gia đình và ngoài xã hội.
Cụ thể là chúng ta nỗ lực tân phúc âm hóa
đời sống xã hội là cách sống Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót một cách cụ thể và
thiết thực nhất.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay
Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ» Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho các dân tộc sống trên mặt địa cầu này, để nhiều người khám phá ra Đức
Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa Hằng Sống và là Chủ Tể Muôn Loài!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời
chúng con!
5.2 «Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông
đàn bà rất đông» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất các cả các Ki-tô hữu, cách
riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó
Tế, để mọi tín hữu nhiệt tâm làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô chết và phục sinh
và lôi kéo nhiều người tin theo Chúa và Hội Thánh!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời
chúng con!
5.3 «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những
người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy có được lòng tin mạnh mẽ và luôn có những
tâm tình thích hợp đối với Chúa Ki-tô Phục Sinh!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời
chúng con!
5.4 «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin» Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho những người yếu tin và những người không tin, để những người ấy biết
mở rộng tâm hồn mà đón nhận ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn ban cho mọi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời
chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn
Nội.
Sàigòn ngày 20 tháng 4 năm 2022