Trong chu kỳ của cuộc
sống, người cao niên thường trở lại giai đoạn phải lệ thuộc vào gia đình như đã
lệ thuộc vào cha mẹ trong tuổi ấu thơ. Đó là vì khi tới tuổi cao, khả năng làm
việc của họ giảm bớt, lại có thể nẩy sinh ra một số bệnh liên hệ tới tuổi già,
khiến họ mất khả năng tự túc, tự tồn, thậm chí mất cả khả năng hiểu biết.
Đây là một vấn đề mà
các xã hội Đông và Tây có giải pháp khác nhau mặc dầu có chung một mục tiêu là
giúp đỡ người già trong giai đạn khó khăn nhất cuả đời họ.
Xin lần lượt xét về
tình trạng người già trong hai xã hội này.
Xã hội Tây
Phương
Tại các xã hội Tây
phương, điạ vị người già tùy thuộc vào khả năng kiểm soát tài chánh. Khi có khả
năng này, người già không lo bị sống cô đơn với các chứng bệnh kinh niên. Họ có
thể thuê mướn những chuyên viên y tế để chăm sóc tại gia hoặc lựa chọn lối sống
tập thể trong các cơ sở chuyên chăm sóc người già với đầy đủ tiện nghi y tế,
vật chất.
Nhưng đó cũng là thiểu
số. Còn phần đông người già với hạn hẹp tài chánh phải nhờ vả hoặc gia đình
thân thích hoặc các cơ quan chính phủ, cơ sở cộng đồng, các tổ chức từ
thiện.
Tại các quốc gia kỹ
nghệ cao, như Hoa kỳ chẳng hạn, nhu cầu công ăn việc làm đã khiến gia đình phân
cách, trái ngược với tình trạng các gia đình sinh sống gần gũi nhau trong
các trang trại lớn vào đầu thế kỷ 20. Do đó, đa số người già thường sống cô đơn
trong ngôi nhà mà họ đã tạo lập từ thuở trung niên. Con cái họ thường là
ở xa, có khi cách cả hàng ngàn cây số.
Thêm vào đó, đa số
người già ở đây đều trải qua nhiều cuộc hôn nhân trong đời, rất ít người sống
cùng với người phối ngẫu ban đầu. Con cái nhiều dòng, con ông con bà, con chúng
ta, khó có sự đoàn kết trong tình máu mủ ruột thịt.
Nhận thức được sự khó
khăn này, chính phủ Mỹ đã lập ra chương trình An Sinh Xã Hội, chương
trình chăm sóc y tế miễn phí cho người già từ 65 tuổi sắp lên. Chính phủ còn
trợ cấp cho các chương trình giúp đỡ người già do các cộng đồng địa phương thực
hiện. Các cộng đồng này điều hành nhiều trung tâm cao niên, cung cấp bữa ăn
trưa với giá rẻ cho người già, cung cấp vài dịch vụ y tế căn bản như khám sức
khoẻ, đo huyết áp, khám mắt, thử đường, cholesterol trong máu. Nhiều trung tâm
còn tổ chức các cuộc giải trí lành mạnh, như thể dục thể thao, đi bộ, bơi lội,
đi xe đạp v.v.
Các trung tâm cao
niên này đã tạo ra một môi trường làm vơi bớt nỗi cô đơn của họ.Các bữa
cơm tập thể cũng cung cấp cho họ những chất dinh dưỡng căn bản hàng ngày.
Một cuộc khảo sát về
ích lợi của bữa ăn tập thể đối với người cao niên cho thấy họ có khả năng hấp
thụ nhiều chất dinh dưỡng hơn người già dùng bữa ăn cô độc ở nhà. Có thể đây
cũng là một yếu tố tâm lý chứng minh người già cần một môi trường gia đình hay
đoàn thể để tâm hồn được ổn định, đưa đến sự cải thiện các chức năng cơ thể.
Tóm lại, ở Mỹ người
già có thể vừa trông cậy vào sự giúp đỡ của gia đình vừa dựa vào sự trợ giúp
cuả chính phủ và cộng đồng xã hội.
Người già ở
Việt Nam
Ở các xã hội Đông
phương như Việt Nam chẳng hạn, người già căn bản đều nương tựa vào gia đình
trong giai đoạn chót của cuộc đời. Xã hội Việt Nam chưa có những chương trình
giúp đỡ người già hoặc có những trung tâm cao niên có tổ chức như ở Mỹ.
May mắn thay, người
Việt Nam có truyền thống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Người Việt nào
cũng xem mình có bổn phận đền đáp công lao sinh thành dưỡng dục cuả cha mẹ .
“Công cha như nuí Thái Sơn,
Nghiã mẹ như nước
trong nguồn chẩy ra”,
là điều tâm niệm
của con người Việt.
Do truyền thống tốt
đẹp đó mà gia đình trở thành đơn vị gốc của xã hội. Đơn vị đó tồn tại qua nhiều
cuộc xáo trộn kinh tế, chính trị của xã hội. Người già có một chỗ dựa nào đó
trong cái đơn vị gốc này. Những người thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có
thể nhờ vả bà con nội ngoại.
Cũng do truyền thống
tốt đẹp cuả dân tộc mà cuộc sống chung giữa người già và người trẻ dưới mái ấm
của gia đình thường rất hài hòa, ổn định. Trong xã hội Tây phương sự sống chung
này không nhiều vì mỗi bên đều muốn có sự riêng tư.
Người già Việt
viễn cư
Đối với người Việt
định cư tại nước ngoài, quý vị cao niên vẫn còn thừa hưởng cái truyền thống
hiếu thảo của dân tộc. Các cụ vẫn còn được con cái phụng dưỡng như hồi còn ở
bên nhà. Tuy đã có các chương trình trợ cấp của chính phủ, các cụ vẫn không
chọn lối sống cô độc, lẻ loi.
Ngoại trừ khi quá yếu
đau, sự hiện diện của các cụ còn là một lợi ích cho con, đặc biệt cho cặp vợ
chồng trẻ.
Khi cả hai vợ chồng
đều đi làm thì các cụ trở thành quản gia cho họ. Khi họ có con nhỏ, các cụ kiêm
luôn việc giữ trẻ, đôi khi phụ trách cả công việc bếp núc. Các cụ vui vẻ làm
những công việc đó cho con cái, không than phiền.
Sự xung khắc do khoảng
cách tuổi tác ít khi xẩy ra, chỉ trừ một số rất nhỏ trong đó hoặc dâu, rể đã
tiêm nhiễm nặng chủ nghiã cá nhân Âu Mỹ. Trong trường hợp này, các cụ tuy bị
khổ tâm không ít, nhưng vì thương cháu nên không nỡ đoạn tuyệt với dâu rể.
Sự khổ tâm, chịu đựng này có thể đưa đến những hậu quả tâm thần trầm
trọng.
Một số các cụ cảm thấy
cô đơn vì không có bạn đồng trang lứa để hàn huyên, trao đổi. Các cụ không
thích đến các trung tâm cao niên để giải trí như người địa phương, đôi khi vì
thiếu phương tiện di chuyển. Mà các trung tâm này cũng chỉ có ở các thành phố
có đông người mình định cư, và số người tham dự vẫn ít oi.
Nói tóm lại, môi
trường thích hợp nhất đối với các cụ vẫn là gia đình trong đó các cụ sống thoải
mái giữa đông đảo con cháu. Tâm lý chung là các cụ thường chọn ở với con trai
vì theo quan niệm Đông phương, dâu là con mà rể là khách, các cụ thà nhờ vả
nương tựa con trai và con dâu hơn.
Quan niệm này khác với
quan niệm Tây phương, đặc biệt là người Mỹ. Họ cho rằng con trai chỉ là con cho
tới khi nó lấy vợ, còn con gái thì là con của họ suốt đời ( A son is a son
until he gets a wife, a daughter is a daughter all her life ). Quả thật khi
người con trai Mỹ lấy vợ thì đương sự đặt trọng tâm sinh hoạt vào nhà vợ, tách
khỏi cha mẹ trong nhiều khía cạnh cuả cuộc sống.
Nhưng dù ở với con
nào, các cu ta vẫn được sống thoải mái hơn các cụ Mỹ cùng hoàn cảnh. Lý do là
dù hội nhập vào xã hội Mỹ, người mình vẫn còn giữ truyền thống tốt đối cha mẹ.
Sống dưới mái ấm đại
gia đình, các cụ ta hưởng được sự chăm sóc cả vật chất lẫn tinh thần. Yếu tố
tinh thần lại có ảnh hưởng không ít tới tới sức khoẻ thể xác của các cụ.
Cho nên truyền thống phụng dưỡng cha mẹ không những tốt đẹp về phương diện văn
hoá mà còn tốt về phương diện kinh tế bằng cách giảm thiểu tốn kém về các dịch
vụ y tế dành cho các cụ.
Trong các gia đình
Việt Nam còn giữ được nền nếp cổ truyền, các cụ do tuổi tác được con cháu trọng
nể, đương nhiên trở thành những nhân vật tiêu biểu cho trật tự và tình đoàn kết
của các thành phần trong gia đình. Các cụ giữ vai trò xúc tác cho mọi hoạt động
của các con cháu nhắm thăng tiến, hướng thượng và xây dựng hạnh phúc cho mọi người.
Vai trò của các cụ trong việc tiếp tay giáo dục trẻ con không bị hạn chế, chống
đối như các cụ già trong xã hội Âu Mỹ.
Tuy nhiên, tình trạng
này trong tương lai gần sẽ có một vài biến chuyển. Đám trẻ được trường học dạy
cho lối suy tư và hành động tự lập đối với gia đình thường trở nên ương ngạnh.
Chúng xem các cụ thuộc thế hệ đã qua, không phù hợp với lý tưởng tự do cuả
chúng.
Cho nên nếu các cụ
không cởi mở mà quá khắt khe theo lối sống cổ truyền thì e rằng sớm muộn cũng
mất đi mối quan hệ tình cảm với lũ trẻ.
Các cụ cần thích nghi
với hoàn cảnh mới, với sự hội nhập vào xã hội mới, tìm hiểu tâm tư, ước
mơ, lối suy nghĩ của tuổi trẻ, sẵn sàng chấp nhận những khác biệt,
đặt trọng tâm vào tình thương. Có thế các cụ mới hòa đồng được với sự đổi đời
do hoàn cảnh tạo nên.
Mà có hòa đồng, thích
nghi thì các cụ mới bảo vệ được sức khoẻ tâm thân, nắm được bí
quyết của tiến trình an hưởng tuổi vàng.
Nguyễn Ý-ĐỨC M.D.
Texas-Hoa Kỳ.