NHÂN ĐẦU ĐỜI ĐỨC MẸ, LẠI NHỚ CUỐI ĐỜI ĐỨC MẸ. (ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI)
(Suy niệm)
Ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 01-11-1950, qua Tông
hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa vô cùng quảng đại), Tôi tớ
Chúa, Giáo hoàng Pi-ô XII đã long trọng công bố Tín điều Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời như sau: “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là
Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Người trên Trinh Nữ Ma-ri-a, để
tôn kính Con của Người là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi
và sự chết, để Bà Mẹ cao cả của Người Con đó được hiển vinh
hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa
Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm
quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác nhận như là một tín điều được
Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức
Ma-ri-a Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã
được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. Tín
điều mới mẻ ấy như một đóa hoa nở bung từ một niềm tin đã có ngay từ thời Giáo
hội sơ khai, được diễn bày theo dòng thời gian 20 thế kỷ trong
Phụng vụ, trong giáo huấn của các Giáo phụ và các nhà thần
học.
Đức Thánh Cha Pi-ô XII cũng qui định tín
điều thành lễ trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc
tham dự Thánh lễ. Thời điểm ngày 15 tháng 8 thì theo một truyền thống cổ
bắt nguồn từ Giêrusalem trước thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I (tk thứ 4).
Nhờ đâu Mẹ Ma-ri-a được lên trời lập tức và lên
trời cả hồn lẫn xác ngay sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế?
1- Lên trời lập tức, kết quả của các đặc ân từ
Thiên Chúa.
a- Đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội (chuyện mà Thiên Chúa biết
trước lúc tạo dựng họ có tự do, một điều kiện để làm nghĩa tử của Người nhưng
cũng là con dao hai lưỡi), Thiên Chúa thực hiện bước hai của chương trình mình
là sai Đích Tử nhập thế và nhập thể nhằm ở với nhân loại, cứu họ khỏi hố sâu
tội lỗi, đền bù những lỗi lầm họ gây ra, liên kết họ với Người trong Con của
Người. Để thành tựu việc này, hẳn nhiên Thiên Chúa phải chọn cho Đích Tử của
mình một bà mẹ phàm nhân, như Cựu Ước đã tiên báo: “Này đây một
người nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là
Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7,14), ban cho
bà tước hiệu Mẹ Con Thiên Chúa, rồi còn thêm tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, vì Người
Con ấy đồng bản tính và đồng bản thể với Chúa Cha (như tuyên tín của Công đồng
chung Ê-phê-sô năm 431. X. Bộ Nguồn liệu Tín lý Công
giáo Denzinger-Schonmetzer, số 252). Người Con ấy cũng là Đấng Cứu
Chuộc nên thân mẫu của Người sẽ được gọi là Mẹ Đấng Cứu Chuộc (nhưng không
“đồng công cứu chuộc” như sẽ thấy bên dưới). Như thế, tước hiệu Mẹ Con Thiên
Chúa và Mẹ Thiên Chúa là nền tảng và suối nguồn của những gì cao quý và tốt đẹp
mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Ma-ri-a (như lời sứ thần Gáp-ri-en nói trong
ngày Truyền tin: “Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” Lc 1,28) khi
Mẹ bắt đầu hiện hữu trong không gian thời gian và đi vào phục vụ chương trình
cứu chuộc.
b- Đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội
Bắt đầu hiện hữu trong không gian thời gian (nghĩa là từ khi
tượng thai trong lòng mẹ), mọi con cháu Adam-Eva đều lâm vào tình trạng xa cách
Thiên Chúa, mất ơn nghĩa với Người, một hậu quả do tội nguyên tổ mà nhờ phép
Rửa mới khắc phục được. Nhưng sự thương tổn bản tính do nguyên tội thì vẫn còn
(ba bản năng quyền lực, sinh tồn và truyền sinh dễ chệch đường, đi thái quá).
Chỉ duy một con người trong nhân loại thoát khỏi tình trạng thê thảm đó: Đức
Ma-ri-a. Trong sắc lệnh “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa khôn tả, ban
hành ngày 8-12-1854), Chân phước Giáo hoàng Pi-ô
IX đã long trọng công bố: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy
nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin
Công giáo và phát triển đạo Ki-tô; bằng quyền bính của Chúa
Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm
quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận: tín lý cho rằng rất Thánh
Nữ Trinh Ma-ri-a, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc
ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giê-su
Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của
nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều
phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (x. Denzinger-Schonmetzer, số
280). Tuyên bố này cũng là kết quả của một trào lưu thần học, tu đức và
phụng vụ lâu đời. Đặc biệt là dòng Phanxicô với các thần học gia như
chân phước Jean Duns Scot (1266-1308). Quan niệm
“praeredemptio” (tiền cứu chuộc) do họ đưa ra được coi
là nền tảng thần học cho việc Đức Ma-ri-a tượng thai vô nhiễm
nguyên tội. Theo quan niệm này, Mẹ được hưởng công lao cứu
chuộc của Chúa Kitô trước khi Chúa xuống thế làm người bằng một ơn
không phải giải thoát Mẹ khỏi tình trạng tội lỗi nhưng là
dự phòng để Mẹ khỏi sa vào tình trạng ấy. Theo Duns Scot, đây là cách
cứu chuộc hoàn hảo nhất. Chính thánh Augustinô trước đó cũng dùng một hình
ảnh đầy ấn tượng: Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta bằng cách dùng Thánh giá kéo
chúng ta lên khỏi hố sâu tội lỗi, và cứu chuộc Mẹ Ma-ri-a bằng cách dùng Thánh
giá giữ Mẹ khỏi sa xuống hố này.
Nhiều giáo phái Tin Lành, vốn coi Đức Mẹ cũng tầm thường như mọi
phụ nữ khác, đã phản đối định tín đó; họ từng reo “Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh
nộ” khi nghe tin trong đêm tuyên bố tín điều, sấm sét giông bão đã nổi lên tại
Rôma. Công giáo trả lời: “Thiên Chúa từng mạc khải cho Mô-sê tại núi Xi-nai
trong giông bão sấm sét!” Và chỉ 4 năm sau, ngày 25-03-1858, Đức Mẹ đã tự xác
nhận mình là Đấng “Tượng thai Vô nhiễm Nguyên tội” khi hiện ra với thánh nữ
Bê-na-đê-ta ở Lộ Đức.
c- Đặc ân Đồng trinh trọn đời
Năm 649, Công đồng La-tê-ra-nô đã tuyên tín: “Khốn cho
ai không theo các Nghị phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác
đáng rằng Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa mãi mãi trinh nguyên và vô
nhiễm, xưa kia đã đặc biệt và thực sự thụ thai -nhờ
Thánh Thần và không cần hạt giống (loài người)- chính Thiên Chúa Ngôi Lời,
Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước mọi thời gian”
(Denzinger-Schonmetzer, số 503).
Tình trạng đồng trinh của Mẹ không chỉ được hiểu trên phương
diện vật lý, thể xác, mà còn phải được hiểu trên phương diện tâm lý, tinh thần,
ở một mức độ cao nhất, có như thế Mẹ mới được gọi là “Rất thánh Nữ Đồng trinh
trên hết các kẻ đồng trinh” và “Nữ Vương các thánh đồng trinh” (Kinh cầu Đức
Bà). Sự đồng trinh ở đây cũng bao hàm sự trung trinh, nghĩa là chẳng những Mẹ
không bao giờ có những hành vi vợ chồng với Thánh Giuse, luôn giữ mình trong
sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, mà còn trung thành mãi mãi trong tình
yêu đối với Thiên Chúa, chẳng vương chút tội lỗi chống lại Người.
Con người khi gặp đau khổ thường dễ oán trách, chống lại Ông
Trời. Đức Ma-ri-a đã phải trả giá cho vinh dự làm Mẹ Con Thiên Chúa bằng cả
cuộc sống đầy khổ đau, như lời tiên báo của cụ già Xi-mê-on tại sân Đền Thờ (Lc
2,35). Trước đó, mối tình với Thánh Giuse suýt tan vỡ khi Thánh nhân định bỏ đi
vì nghĩ rằng mình không còn có quyền động tới vị hôn thê nay trở thành vật
thánh của Thiên Chúa vì đã cưu mang Đích Tử của Người. Mẹ cũng đã sinh con
trong quằn quại xâu xé như bao bà mẹ trần gian, do tất cả hệ lụy của kiếp người
và của việc nhập thể mà Con TC hoàn toàn tôn trọng. Nhưng đang khi hầu hết mọi
thai phụ kêu trời, réo đất, chửi chồng trong cơn đau số một này, thì Mẹ đã hoàn
toàn chấp nhận và hiến dâng nỗi khổ cho Thiên Chúa. Thiết tưởng nên hiểu như
thế khi thần học nói: Mẹ đồng trinh không những trước và sau khi sinh con, mà
cả trong khi sinh con. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 499 dạy: “Hội Thánh
tuyên xưng Đức Ma-ri-a thật sự và trọn đời đồng trinh, cả trong khi sinh hạ Con
Thiên Chúa làm người. Thật vậy, việc sinh hạ Đức Kitô “không làm suy giảm,
nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ”.
Rồi cảnh đoạn trường khi sinh Chúa trong chuồng lừa máng cỏ,
bồng Chúa chạy trốn sang Ai Cập, lạc mất Chúa 3 ngày trong Đền thờ… Kèm theo đó
là việc chiến đấu để giữ mình trong sạch bên cạnh một người chồng trẻ trung,
đáng yêu, đức hạnh (lối vẽ Thánh Giuse như một ông ngoại đang bồng cháu cho con
gái không có nền tảng lịch sử, đồng thời hạ giá nhân đức khiết tịnh của cặp bạn
đời này). Khổ đau tiếp tục chồng chất lên Đức Ma-ri-a khi theo Con trên bước
đường rao giảng Tin Mừng, thấy quanh Con kẻ thù rình rập, thất bại bủa vây, âm
mưu xúi bẩy, và đỉnh điểm là cái chết tức tưởi, ô nhục của một tử tội bị đóng
đinh mà bà mẹ cũng bị nguyền rủa. Nhưng “Mẹ Sầu bi” đã đứng vững dưới chân thập
giá với tất cả tâm hồn chấp nhận! Stabat Mater dolorosa!
Tình yêu trung trinh đối với Thiên Chúa -biểu hiện đức đồng
trinh tuyệt hảo của Mẹ- còn tỏ lộ qua việc Mẹ cộng tác mật thiết với Chúa Giêsu
trong công trình cứu độ của Người, cộng tác như môn đệ rất mực trung thành, như
nữ tỳ hết dạ vâng phục, bắt đầu từ lời gợi ý trong tiệc cưới Cana, sang việc
đón nhận Gioan làm con dưới chân thập giá, đến chuyện cùng cầu nguyện với nhóm
Tông đồ, môn đệ, thân thuộc để chuẩn bị nhận lãnh ơn Thánh Thần (Cv 1,14) rồi
kéo dài cho tới khi giã từ cuộc sống trần gian.
Sự mãn phần này của Mẹ, trước thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I
(280-337), được tín hữu ghi nhớ qua một cuộc lễ trong nhà thờ trên
núi cây dầu tại Giê-ru-sa-lem vào ngày 15 tháng 8 hàng năm. Truyền
thống đã gọi lễ này là lễ Đức Mẹ an giấc (Dormition). Cách gọi này
không phải không có lý. Vì chúng ta biết: cái chết là hành vi nhân linh cuối
cùng của một đời người, bao gồm vừa những tâm tư tình cảm trong hồn vừa những
đổi thay biến chuyển nơi xác. Đối với phàm nhân chúng ta, ngoài việc chấm dứt
hơi thở, phân rã thể xác, phút lâm chung còn kèm theo sự tiếc nuối của tâm hồn
vì bao dứt bỏ đớn đau: những ước vọng thiết tha, những vui thú trần
đời; sự tái tê trong cõi lòng vì phải vĩnh viễn từ giã những thân
thuộc luyến thương, những công trình dang dở; sự hoảng sợ nơi nội tâm
vì các sai lầm đã mắc, các tội lỗi đã phạm, các đền bù chưa xong; sự
lo âu trước tương lai vô định, mai hậu mịt mờ… Ngay cả những bậc
thánh nhân đã thanh luyện cuộc đời, chuẩn bị rời thế cũng không nhiều thì ít,
đều có các tâm tình đó. Tất cả làm nên cái mà người ta gọi
là cái chết, hậu quả của tội lỗi. Đang khi đó thì con vật cũng đi tới
chỗ tiêu vong thân thể nhưng chẳng hề có những tâm tình như vậy, nên các nhà
thần học, chẳng hạn linh mục Karl Rahner, không gọi đó là chết mà chỉ gọi đó là
ngã quỵ, lụi tàn (succomber trong tiếng Pháp. Xem Karl
Rahner + Herbert Vorgrimler, Petit Dictionnaire de Théologie
catholique. Tủ sách Livre de Vie, mục từ Mort).
Nhưng với một người như Đức Mẹ -qua những gì trình bày ở
trên- thì không thể nói như thế. Sự mãn phần của Mẹ chỉ có thể gọi là giấc
ngủ, song không chỉ dừng lại chỗ này… Ở đây có một thắc mắc: phải chăng Chúa
Giêsu cũng đã tuyệt vọng trong giờ chết khi Người thốt lên trên thập giá: “Lạy
Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27,46; Mc
15,34). Hầu hết các nhà chú giải đều cho đó là Chúa chỉ đọc lên câu đầu của
Thánh vịnh 22 (21), bản văn tiên báo và mô tả cuộc khổ nạn của Người, để cho
thấy là Người đang hoàn tất những gì nói lên trong đó. Trước đấy, trong phòng
Tiệc ly, Người đã nói với môn đệ: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với
Thầy” (Ga 16,32). Sáu lời còn lại trên thập giá cũng chỉ tỏa ra một tinh
thần yêu thương, an bình và phó thác.
2- Lên trời hồn xác, kết quả từ cuộc phục sinh
của Chúa Kitô.
Như đã nói, trong những thế kỷ đầu, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Lễ này mặc tất cả sự trang trọng
kể từ năm 1950 khi Đức Giáo hoàng Pi-ô XII định tín việc Mẹ được cất nhắc
về trời cả hồn lẫn xác (xem trên). Tông hiến “Munificentissimus
Deus” còn nói: “Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là
do hậu quả tội Nguyên tổ. Mà Đức Ma-ri-a không hề mắc tội Nguyên tổ,
cũng chẳng hề có tội riêng. Cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Mẹ
được hồn xác về trời.” Ngoài ra, Mẹ Ma-ri-a
luôn luôn kết hợp với Con mình, không giây phút nào Mẹ-Con xa nhau, ngay
cả khi Chúa chịu chết trên thập giá Mẹ cũng đồng hành (Ga 19,25-27).
Vậy thì không lý gì khi Mẹ cùng Con chiến đấu lại không được cùng Con chiến
thắng, khi từ giã cõi trần lại chẳng được Người
Con Chí Thánh Chí Nhân Chí Hiếu rước ngay lên
trời để tiếp tục đồng hành với Người mà hướng dẫn Nhiệm
Thể Người (Giáo Hội) còn trên dương gian. Tuy nhiên, vẫn
có nhiều bè phái đối nghịch (lạc giáo hay ly giáo) phủ nhận vấn
đề này. Họ cho rằng đã có chuyện giấu xác Đức Mẹ (kiểu như cách nghĩ của
Ma-ri-a Mac-đa-la khi đi thăm mộ Chúa mà không thấy xác Đức Giê-su: Ga
20,2), rồi phao lên Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác. Loài người tự cổ chí kim
chẳng có ai được như vậy, vì thân xác chỉ là “cái vỏ bằng đất làm linh hồn
ra nặng” (Kn 9,15) và “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”
(St 3,19) mà thôi. Nhưng với tín điều trên, Giáo hội công bố long
trọng một chân lý đã được Kitô hữu từ ngàn xưa cảm
nhận: Thân xác của Người Phụ nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên
Chúa không phải chịu định luật của sự thối rữa!
Nền tảng của ơn đặc biệt này chính là sự phục
sinh của Chúa Ki-tô, phục sinh với một thân xác đã có từ trước nhưng nay được
hoàn toàn biến đổi, không còn phải chịu các định luật của không gian và thời
gian. Những trình thuật về việc Chúa hiện ra cho tông đồ môn đệ sau khi sống
lại quá nói rõ điều này: vẫn còn có tay chân để thân thuộc sờ mó, vẫn còn mang
khuôn mặt để thân thuộc nhận ra, nhưng thoạt hiện thoạt biến, xuyên cánh cửa đi
vào, lướt ngàn dặm tới ngay. Tê-pha-nô vẫn thấy Người “đứng” bên hữu Thiên Chúa
(x. Cv 7,56). Với cuộc phục sinh, Ngôi Lời nhập thể đã mở ra một cách thức hiện
hữu mới cho mình và cho những ai theo mình, kết hợp với mình trong Nhiệm thể:
thân xác phàm trần sau khi chết sẽ không biến tan nhưng được biến đổi. Tất cả
mọi vật cũng được Thiên Chúa làm mới chứ chẳng tiêu diệt (x. Kh 21,5). Lối
hiện hữu này được dung nạp trong chốn Thiên đàng, nơi thế giới Thiên Chúa.
Vì như lời Thánh Phaolô: “Chúa Ki-tô đã chỗi
dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu... mỗi người theo
thứ tự của mình” (1Cr 15,20). Và Đức Mẹ là người đầu tiên
cũng như là người xứng đáng nhất để hưởng ngay ân huệ đó. Còn mọi kẻ khác thì
phải đợi đến Ngày quang lâm (x. 1Cr 15,23).
Kết luận
Công đồng chung Va-ti-ca-nô II, với Hiến
chế tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium, Ánh sáng Muôn
dân), đã nhắc lại tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời với những kết
luận cho Hội Thánh và cho mỗi tín hữu: “Ngày nay, trên trời Mẹ Đức Giê-su đã
được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn
thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr
3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi
cho dân Chúa đang lữ hành” (số 68). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo (số 966) cũng hợp giọng: “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm, được
Thiên Chúa gìn giữ khỏi nhiễm lây mọi tỳ vết Nguyên tội, đã được đưa lên vinh
quang Thiên quốc cả hồn lẫn xác, sau khi đã hoàn tất cuộc đời dương thế, và
được Thiên Chúa tôn làm Nữ Vương Vũ Trụ, và như vậy Mẹ đã hoàn toàn phù hợp với
Con Mình là Chúa của các chúa, đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Cuộc lên trời
của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự
Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của
các Kitô hữu khác”.
Như đã thấy ban đầu, Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả;
nay Ngài là Mẹ chúng ta để cho tất cả: tất cả những ân sủng đến từ Thiên Chúa,
để chúng ta noi gương Mẹ mà trở nên giống Con của Ngài: điều khiển mọi bản
năng, chống lại mọi tội lỗi, trung trinh trong tình yêu đối với Thiên Chúa, và
luôn ước vọng phục sinh hồn xác chốn Thiên Đàng hạnh phúc, trong
Chúa, bên Mẹ.
Lễ Mẹ Lên Trời Hồn Xác 15-08-2021
Linh mục Phêrô Phan Văn
Lợi, TGP Huế
Tác giả:
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
|