Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
Bài Viết Của
Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
Ý Nghĩa của Hang Đá và Máng Cỏ: Dấu Chỉ Tuyệt Vời
Đức Tin Công Giáo và Thuyết Tiến Hóa
BÊNÊDICTÔ XVI--VỊ GIÁO HOÀNG BẤT NGỜ

 

Chưa đầy một năm trước, vào ngày 19/4/05 Hồng Y Ratzinger được bầu lên ngôi Giáo Hoàng. Trong 24 năm trước đó, ngài lèo lái Thánh Bộ Đức Tin, đã cảnh cáo một số thần học gia xuất sắc của Giáo Hội như Roger Haight (mới năm 2004), hay nghiêm sửa sách vở của Anthony de Mello vào năm 1998, cho dù tác giả đã qua đời từ năm 1987. Đức Cha Ngô Đình Thục cũng có trong danh sách (xin xem Doctrinal và Disciplinary Documents tại http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/).

Vì ngài có lập trường rõ ràng, từng xử sự cứng rắn, và đã 78 tuổi khi nhậm chức Giáo Hoàng, nên nhiều người nghĩ ngài sẽ nhanh chóng và thẳng tay thanh lọc Giáo Hội, loại trừ những thành phần không tuyệt đối trung thành với những giáo huấn mà ngài đã vạch rõ trong 24 năm. Có người thì hớn hở mong ngày Giáo Hội trở lại như xưa. Kẻ khác lại lo lắng việc bách hại và chia rẽ ngay trong Giáo Hội.

Điều bất ngờ là vị Giáo Hoàng lớn tuổi này đã không vội làm gì hết, dù ngài đã lớn tuổi và không biết còn làm được bao lâu nữa. Bất ngờ hơn nữa là ngài có vẻ như đi ngược lại những điều mà đa số mọi người tiên đoán. Sau đây là một vài bằng chứng mà cha Richard McBrien nêu ra trong bài thuyết trình tại Seattle University hôm 24/2/06.

Bài giảng mùa chay 2006 của Đức Thánh Cha bắt đầu từ Phúc Âm Marcô, 6:34, “Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.” Đức Thánh Cha không thay đổi giáo huấn, nhưng ngài không phán xét và loại trừ như nhiều người tưởng, mà lại theo gương Đức Kitô “chạnh lòng thương.”

Ngài còn nói rất rõ ràng và đầy đủ trong thông điệp đầu tay, “Thiên Chúa là Tình Yêu” (http://vietcatholic.net/News/Html/32476.htm). Không ai ngạc nhiên vì ngài viết rất xúc tích và rõ ràng. Tuy nhiên có hai điều làm nhiều ngưòi ngạc nhiên. Thứ nhất, ngài nhấn mạnh tới vấn đề công bằng xã hội, là điều mà hay được coi là mục đích của phe thiên tả, có vẻ kinh tế và chính trị hơn là tôn giáo. Nhưng ai nghĩ vậy là sai lầm. Từ Giáo Hoàng Lêô XIII (qua thông điệp Rerum Novarum năm 1891) đến Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là những người không thiên tả, đã theo gương Chúa Kitô đặt rõ vấn đề công bằng xã hội của mỗi thời đại. Điều ngạc nhiên thứ hai là ngài không nói mấy tới những vấn đề luân lý cá nhân đang gây chia rẽ trong Giáo Hội, những vấn đề mà phe bảo thủ mong ngài sớm giải quyết, dù phải thanh trừng một số giáo dân. Ngài đã không làm thế. Một vài linh mục bảo thủ đã nhắc nhở ngài thẳng mặt, nhưng ngài chỉ im lặng, không trả lời.

Những người theo dõi ngài kỹ lưỡng còn thấy nhiều chi tiết bất ngờ khác, nhất là cho những ai chỉ nghĩ rằng ngài là dân bảo thủ. Thay vì lạnh lùng với Dòng Tên (là nhóm được coi là hơi tự do tư tưởng, như Roger Haight), mới thứ sáu vừa qua ngài nói chuyện với nhân viên toà báo Civita Católica. Ngài nói chuyện gì? Thay vì đả kích Công Đồng Vatican II như là nguyên cớ làm suy sụp Giáo Hội, thì ngài lại đề cao Vatican II như ngọn hải đăng cần thiết cho thời đại này. Ngài cũng dùng chữ "dấu chỉ của thời đại," là câu mà được coi là thường dùng trong phe thiên tả.

Lý thuyết và lời nói quan trọng, nhưng nhân sự còn quan trọng hơn. Khi ngài đặt Giám Mục William Levada từ San Francisco lên kế vị ngài tại thánh Bộ Đức Tin (và sắp phong chức Hồng Y), một số người ngạc nhiên với sự lựa chọn này vì TGM Levada có vẻ nhẹ nhàng chứ không thẳng tay, có khi còn bị coi là nhu nhược. Người kế vị TGM Levada lại là một vị tương đối nhẹ nhàng khác, TGM George H. Niederauer, thân thiện với các tôn giáo khác như Mormon.

Một hành động nữa diễn tả rõ ràng tấm lòng nhân từ, đầy tình thương của Đức Thánh Cha: cuộc nói chuyện với cha Küng. Hans Kung học thần và triết tại đại học Gregorian và chịu chức linh mục năm 1954. Đức Thánh Cha Gioan XXIII mời ngài làm chuyên viên thần học (peritus) cho công đồng Vatican II từ 1962-1965. Một peritus khác chính là cha Ratzinger. Năm 1966, Kung vận động xin cho cha Ratzinger được đến dạy thần học tại đại học Tübingen, nhưng cha Ratzinger không thích luồng tư tưởng tại đây, nên 3 năm sau đi dạy nơi khác. Từ năm 1979, thần học gia Kung bị Tòa Thánh tước quyền giảng dạy như một thần học gia Công Giáo. Suốt từ ngày đó đến 2005, ông nhiều lần xin yết kiến DTC Gioan Phaolô II nhưng không được gặp. Ngay tháng 4/05, ông xin yết kiến tân Giáo Hoàng Benedictô XVI, và được hẹn vào tháng 9. Hai người ăn tối và nói chuyện riêng 4 tiếng đồng hồ, bàn nhiều tới những cái hay của nhau hơn là những điểm dị biệt. Sau đó, DTC tự tay thảo một văn thư bằng tiếng Đức về buổi nói chuyện đó, và dặn nhân viên không được phổ biến văn kiện này cho tới khi được sự chấp thuận của cha Kung. Phần cha Kung, người đã nhiều lần thẳng thắn chỉ trích giáo quyền và hôi đồng giám mục Đức, đã hết lời ca tụng DTC sau cuộc gặp gỡ lịch sử này.

Những điều bất ngờ kể trên có lẽ không còn là bất ngờ nữa nếu ta xét lại Đức cố Giáo Hoàng Benedictô XV, đấng mà vị đương kim Giáo Hoàng muốn nối gót. Benedictô XV nhậm chức khi thế chiến thứ I bùng nổ, và ngài cố hòa hoãn xây dựng hòa bình, cho dù giáo huấn vẫn rõ ràng.

Có lẽ Thiên Chúa đã và đang ban cho nhân loại một vị lãnh đạo sáng suốt nhưng nhân từ, để giúp toàn thể thế giới cùng xây dựng niềm tin, hy vọng, và tình thương. Mỗi người chúng ta, bất kể địa vị, đảng phái hay tôn giáo, đều có thể chung tay góp sức trong lý tưởng đem lại công lý, hòa bình, và yêu thương cho mọi người.

Lê An Hòa, Seattle University, 25/2/2006

Tác giả: Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!