NỢ TRĂM NĂM BAO GIỜ TRẢ ĐƯỢC?
● Francis
Assisi Lê Đình Bảng .
1. Alexandre de Rhodes (1591-1660) trước hết là
một nhà truyền giáo đến từ phương Tây - có cái tên rất đỗi Việt Nam là Đắc Lộ - người mà xưa nay vẫn được vinh
danh là “ông tổ
khai sinh ra chữ Quốc ngữ”. Nhưng, bên cạnh hào quang ấy, vẫn là kẻ
hàm oan, vì chính ông
đã bị một bộ phận nào đó trong dư luận không đồng tình, gắt gao kết án là kẻ đi dưới bóng cờ thực dân của đoàn quân
viễn chinh? Như thế, khác gì bảo, Quốc ngữ -
đứa con tinh thần ông đã cưu mang và sinh thành - chỉ là công cụ của một ý đồ
thực dân, xâm lược, không hơn không kém? Cứ lấy năm
chào đời 1591 của Đắc Lộ làm dấu mốc thì đến nay, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 432 của ông. Thời gian đằng đẵng ấy, như đã lùi
xa dặm dài mấy trăm năm, còn hơn cả
nỗi lo xa bất tri tam bách dư niên hậu.... của tác giả
Truyện Kiều! Vâng, đúng thế, sao không để cho gió cuốn đi cho nó thoáng? Nghĩ
lại, chạnh xót xa ngẫm ngợi, nếu biết ơn là thước đo phẩm hạnh của một con
người tử tế, của một dân tộc có truyền thống hiếu đạo, thuỷ chung và văn minh
thì không lý gì chúng ta lại hẹp lòng không hái được một bông hồng, thơm thảo
làm quà tặng riêng ông, tạm coi như là chút gì để nhớ, để thương? Đâu
cần phải đợi đến thời điểm quá muộn mằn này của thế kỷ 21, câu chuyện chẳng
đặng đừng trên mới được khơi gợi, gọi là đốt điếu thuốc để
chiêu hồn quá khứ. Bởi, ngay từ năm 1961 - nhân kỷ niệm 310 năm ra đời
của Từ điển Việt Bồ La, quyển từ điển tiếng Việt đầu tiên, do Đắc
Lộ biên tập và Bộ Truyền giáo Roma ấn hành năm 1651, Nguyệt san Missi(1) đã
dành trọn số phát hành tháng 5 viết về chủ đề tưởng niệm Alexandre
de Rhodes. Theo quan điểm của tờ báo, giáo sĩ Đắc Lộ là người
mở đường về mặt ngôn ngữ cho người Việt mình: “Với sáng kiến sử
dụng các mẫu tự La Tinh để ghi ký phát âm và tiếng nói của người Việt,tức là
Đắc Lộ đã làm công việc giải phóng ngôn ngữ,đưa ngôn ngữ Việt Nam đi trước
những quốc gia trong vùng đến 3 thế kỷ.”(2)
Vẫn biết rằng không phải chỉ một mình Đắc Lộ có công
khởi xướng như trên. Mà đó là cả
một quá trình, có góp công
góp sức của nhiều người, nhiều thời. Trong đó, phần chủ lực
thuộc về giáo sĩ Đắc Lộ cùng tập thể các nhà truyền giáo Dòng Tên - không ngoại
trừ của cả một số cộng tác viên là nho sĩ, trí thức, thầy giảng
và chức việc trong cộng đồng lương giáo bản địa - đã toàn tâm toàn ý, sống và
chết ở vùng đất thân yêu này. Cụ thể, là: Francisco de
Pina (1585-1625) tác
giả Ngữ Pháp Tiếng Việt - Manductio ad
Linguam Tunckinenseum; Gaspar
d’Amaral (1592-1640)
với Tự Điển Việt Bồ -Dictionarium Annamiticum -Lusitanum; Antonio Barbosa với Tự Điển Bồ Việt - Dictionarium Lusitanum - Annamiticum; Christoforo Bori (1583-1632) với Relatio della Nuova Missione Cocincina; Pedro Marques (1577-1657); Fillipo Marini (1608-1664); Girolamo Majorica (1591-1656)... Vâng,tất cả họ đều là những người có công trực tiếp hoặc gián tiếp trong
việc đặt nền móng và điển chế hoá rất căn cơ cho Quốc ngữ của chúng ta từ buổi
hừng đông lịch sử ấy, mở đường cho tiếng nói và chữ viết Việt Nam thoát khỏi
vòng lệ thuộc văn hoá nghìn năm của chữ Hán, của Hán văn, của Trung Hoa, tạo
sức mạnh về bản lĩnh tinh thần cho hàng trăm triệu con dân dòng giống người
Việt chúng ta, dù ở nước trong lẫn nước ngoài, có quyền ngẩng cao đầu,
sánh vai cùng năm châu bốn biển đến tận hôm nay và mãi mãi về sau. Công ơn khai
sáng trời biển ấy - ở một tầm mức khoa học, lịch sử và ngôn ngữ - trộm nghĩ -
không hề thua kém gì, nếu không muốn nói là sáng tạo độc đáo, ngang tầm với chữ
Nôm của Hàn Thuyên, đời Trần ở thế kỷ 13?
Đặc biệt với Đắc Lộ,người đã tự chọn cho mình một
cái tên cúng cơm đầy ý nghĩa và đặc sệt âm điệu Việt Nam - Đắc Lộ -
hiểu như là kẻ đi tìm đường và đã gặp,đã thấy đường đi. Như thế, rõ ràng
chẳng phải ngẫu nhiên hay đơm đặt. Cũng chẳng phải chuyện trời ơi đất hỡi từ
đẩu đâu, hay là vẽ vời , hư cấu, dàn dựng, gán ghép, khiên cưỡng cho vui
chuyện. Mà đã là một sự kiện mang tính phát nguyện, một thành tâm; hơn thế, một
định mệnh, một duyên nợ, một ơn gọi truyền giáo và văn hoá đối
với đất nước, dân tộc mình rồi còn gì? Thử nêu ra một câu hỏi rất vô tư rằng,
tại sao bến bờ ấy không phải là đất nước mặt trời mọc và tại sao sợi dây vô
hình ấy lại không phải là se kết với dân tộc Phù Tang, như dự kiến ban đầu của
chuyến hải hành? Bởi vì sử sách còn ghi rành rành, những ngày lênh đênh vượt
biển sang phương Đông, tàu thuyền của Đắc Lộ bỗng nhiên bị sóng gió đánh bạt,
trôi dạt, phải chạy vào trú bão trong Cửa Bạng, Thanh Hoá, đúng vào ngày lễ
kính thánh Giuse 19.3.1627. Để rồi sau đó, chẳng hẹn mà nên, nhận
nơi đây làm quê hương ,ròng rã 20 năm lặn ngòi ngoi nước, cùng ăn,
cùng ở, cùng sống chan hoà giữa cộng đồng người Việt, như người Việt. Từ
ấy, kỳ diệu thay, Cửa Bạng còn mang thêm một tên gọi mới trong dân gian
là Cửa biển Thánh Giuse và vô tình, đã mở ra một cánh đồng
truyền giáo bao la bát ngát về phía Đàng Ngoài.
Vậy mới có câu ca dao nhà đạo:
“Thứ nhất,đền thánh Phapha
Thứ nhì, Cửa Bạng, thứ ba Thần Phù”
Nghe rất đối xứng, nhịp nhàng với câu hát cửa miệng
của người dân xứ Thanh :
“Lênh đênh qua Cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.”
... Và để rồi, năm lần bảy
lượt bị săn đuổi, bị trục xuất, chạy cùng đường không khỏi nắng. Cuối
cùng, ông bị vua quan nước Đại Việt tống khứ không thương tiếc, vĩnh viễn ra
khỏi miền đất này. Đến nỗi, những tháng năm cuối đời bên vùng trời Iran ngút
ngát, xa lạ, vẫn vời trông về xứ Nam, nơi đã đứt ruột ,chẳng đành đoạn chia
biệt này. Không chỉ một mình Đắc Lộ cam chịu vác cây khổ giá nghiệt ngã, nặng
nề ấy đâu. Còn, còn nữa, những người đồng hương, đồng hội đồng thuyền, những kẻ
chìm xuồng, gửi thân xác trong dòng nước oan nghiệt ở Đàng Trong, Đàng Ngoài
của đất nước bằn bặt trùng khơi và vời vợi sông ngòi này. Xin mời bạn cùng đọc
lại và chung nỗi xót xa ngậm ngùi sau đây với một trong những chuyên
gia về lịch sử, chữ quốc ngữ, dòng Tên và Đắc Lộ học.(3) Trong một khoảnh khắc
cảm xúc, chính ta cũng không thể cầm lòng được, khi nghe những tần số bồi hồi
của trái tim ấy rung lên “...Những người nước ngoài ấy, nếu bây giờ
sống lại thì sẽ phải vô cùng bỡ ngỡ trước cái hiệu quả nó mang lại cho tất cả
một dân tộc; điều mà có lẽ chẳng bao giờ các ông dám mơ tưởng. Các ông đã sống
trong đất nước Con Rồng Cháu Tiên, tập ăn, tập nói, tập sống như người Việt,
cũng nuôi tóc dài quá vai, cũng mặc áo chùng thâm, đi bộ, đi thuyền và ở nhà
sàn như nhiều người Việt thời ấy ở xứ Yến Sào Trầm Hương, Đàng Trong. Nhưng xót
xa thay, ông Pina bị chết đuối ở vùng biển Hội An lúc mới vừa 40 tuổi; ông
Amaral cũng bị chết đuối nốt trong vịnh Bắc bộ khi được 54 tuổi. Còn ông Đắc Lộ
tha thiết gắn bó với người Việt có tiếng nói nghe ríu rít như chim hót khi phải
rời bỏ Đàng Trong năm 1645 mà lòng đau như cắt đã phải thốt lên: “Tôi từ giã xứ
Nam bằng thể xác chứ không phải bằng lòng trí, cả đối với xứ Bắc cũng vậy. Thật
sự, tâm hồn tôi để trọn ở hai nơi ấy và tin tưởng không bao giờ lòng trí tôi có
thể rời khỏi đó.”(4)
2. Chuyện duyên nợ của giáo sĩ Đắc Lộ với Quốc ngữ đúng
là một thực tế lịch sử, khởi đi từ
những trải nghiệm có thật mà ta có thể đọc thấy qua từng trang bút ký còn tươi
nguyên hơi thở của tác giả: Histoire du Royaume de Tunkin, La ngữ,1651; Divers Voyages et Missions, 1653. Sau đây, chỉ là đôi
ba dòng tự sự khi Đắc Lộ mở miệng ê a học bài học tiếng Việt, chữ Việt đầu đời: “...Năm
1625, tôi bắt đầu học tiếng Việt. Tôi tự
ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày, tôi chăm chỉ
học tiếng Việt, y như ngày
xưa tôi học môn thần học ở Roma...Thầy dạy tiếng Việt cho tôi là một
thiếu niên trạc 10-12 tuổi. Đây là cậu
bé Raphael de Rhodes(1611-1687), tôi lấy tên
tôi mà đặt. Cậu rất
thông minh, chỉ trong
vòng ba tuần lễ, đã dạy tôi
học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt cà cách thức phát âm
của từng chữ. Và bốn tháng
sau, tôi học biết
đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau sáu tháng, tôi đã có thể giảng được bằng tiếng Việt.”(5) Trở lại
với Đắc Lộ và Quốc ngữ. Chúng ta rất
đồng tình với lập luận - cũng như Hán Nôm - Quốc ngữ là di sản văn hoá chung của nhiều người, nhiều thời. Và cũng
không thể phủ nhận cái dụng ý ban đầu của các nhà truyền giáo rằng, Quốc ngữ đơn thuần, chỉ là một
phương tiện để truyền giáo - kinh sách, lễ nhạc, phụng tự - trong nội bộ của cộng đồng người Công giáo Việt Nam
thuở ấy. Còn nó sinh
sôi nảy nở, có hoa mừng
hoa, có nụ mừng nụ ra sao, tưởng như là chuyện muôn đời, tự nhiên của trời đất, chẳng ai tra tay vào được. Thật là
chẳng ai ngờ? Mà xét cho cùng thì chẳng hề có một áp lực bên ngoài nào xui
khiến, đẩy đưa, lèo lái, tác động cả. Trái lại, một phần xuất phát từ bản thân
độc lập của một sự kiện văn hoá; phần khác, do nhu cầu phát sinh, đòi hòi tự
nhiên của vận hành cuộc sống. Có nghĩa là, phải như thế nào thì Quốc ngữ mới
được mau mắn chấp nhận, được sử dụng rộng rãi, phát triển và tồn tại bền
vững trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội? Nói cách khác, Quốc ngữ đã
bước ra khỏi cánh cửa nhà thờ, nhà chung, không còn là sở hữu riêng tư của
Công giáo, cho Công giáo nữa. Nó đã hoá thân thành ngôn ngữ của đời sống, là
tiếng nói và chữ viết của toàn dân, là nhịp cầu nối kết giữa mọi người. Rõ ràng
là thực tế văn hoá có một không hai ấy đã trở thành một sự kiện lịch sử không
thể chối cãi, khi Quốc ngữ xuất hiện đủ cả hình và bóng, xương và thịt,
được in ấn trọn vẹn cả chữ lẫn nghĩa trên giấy trắng mực đen của quyển Từ
Điển Việt Bồ La - Dictionarium Annamiticum Lusitanum; có in chung
phần Văn Phạm Việt Ngữ( Linguae Annamiticae),do Bộ Truyền
giáo xuất bản tại Roma năm 1651. Để phần nào ghi nhớ công ơn ấy, năm 1941, một
tấm bia đã được Hội Truyền bá Quốc ngữ dựng lên ở bên Hồ Gươm, ngay trước cửa
đền Bà Triệu, Hà Nội. Nhưng chẳng hiểu sao, năm 1957, tấm bia ấy đã bị gỡ bỏ
đâu mất tăm? Y hệt trường hợp xoá xổ tên đường Alexandre de Rhodes và Petrus Ký
ở Sài gòn sau 1975? Cũng may, sau đó khá lâu (1995), danh xưng Alexandre de
Rhodes lại được trở về nguyên si tình trạng ban đầu, như đã được quy hoạch rất
sớm,rất giàu cảm xúc về văn hoá trên bản đồ Sài gòn năm 1956. Nghĩa là,
Alexandre de Rhodes cùng rảo bước song đôi, nhịp nhàng với Hàn Thuyên. Người
Sài gòn, bao năm nay, hiểu chuyện bảo, Nôm và Quốc ngữ, như hai dòng sông văn
hoá - cùng với mạch chủ là đại lộ Thống Nhất ở chính giữa - cả ba đã hợp lưu,
cuồn cuộn chảy về ngôi nhà chung Độc Lập.(6)
3. Cũng lại chuyện dài về Quốc ngữ và Đắc Lộ. Nhưng ở đây, về một tác
phẩm khác, xem ra thuần
mùi đạo của nhà thờ, nhà Chúa. Chuyện năm ấy là mảng ký ức sống động trong đám sinh viên các lớp Văn
chương Việt Hán chúng tôi tại trường Đại học Văn Khoa và Đại học Sư Phạm Sài
gòn. Các thầy Lê Ngọc Trụ, Nghiêm Toản, Nguyễn Văn
Thích, Đông Hồ, Thanh Lãng, Lê Văn Lý, Nguyễn Văn
Khôn, Bửu Cầm... đều khuyến
khích chúng tôi có mặt đông đủ vào hôm ấy, như một buổi học ngoại khoá. Nếu tôi nhớ
không nhầm, đó là năm
1961, cũng đã diễn ra một sự kiện văn hoá tương tự: Giáo sĩ Đắc Lộ và Tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên -
Phép Giảng Tám Ngày , một công
trình văn hoá đức tin đã được Ban Sử học của Tinh Việt Văn Đoàn trân trọng giới
thiệu ra mắt báo chí và công chúng Sài gòn(7). Được biết, đây là quyển
sách Giáo Lý Công giáo đầu
tiên của người Công giáo Việt Nam, nguyên văn
bằng tiếng La Tinh, do giáo sĩ
Đắc Lộ biên soạn và cũng do Bộ Truyền giáo Roma xuất bản năm 1651. Tính ra, phải đợi mất
310 năm sau, người Công
giáo Việt Nam mới sở hữu ấn bản tiếng mẹ đẻ và có lẽ, cũng xuất xứ từ đây, các sách
Giáo Lý được các thế hệ hữu trách biên soạn, phổ biến rộng đến cộng đồng giáo xứ, đoàn thể.
Người làm công việc chuyển ngữ sang tiếng Việt này là nhạc sĩ - giáo sư - nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Xuyên. Không lạ gì, chính ông là người đầu tiên tiếp cận
và triển khai đề tài chuyên biệt này; cụ thể là năm 1958 tại Đại học
Gregoriana, Roma, Nguyễn Khắc Xuyên đã bảo vệ thành công cấp bằng Tiến sĩ
với luận án mang tên Le Cathechisme du Pere Alexandre de Rhodes,1651.(8) Như vậy là, kinh qua một
chặng đường dài 342 năm (1651-1961 và 1993), Phép Giảng Tám Ngày khởi
đi từ Bộ Truyền giáo, Roma (1651); qua 2 ấn bản Pháp ngữ của Henri Chappoulie
(1943) và của Andre Marillier (1955); đến bản Việt ngữ của Nguyễn Khắc Xuyên
(1961) và cuối cùng ấn bản toàn tập của Tủ sách Đại Kết, Sài gòn (1993). Quốc
ngữ, qua Phép Giảng Tám Ngày, một lần nữa, hiện ra đầy đủ hồn cốt
ban đầu, còn dò dẫm, thô mộc; giúp đời sau và sau nữa nhìn lại bước đi chập
chững của thời gian đã mất; đồng thời được chung mối đồng cảm sâu xa với những
đoạn trường chìm nổi của những người đi trước, đã khổ công kiếm tìm, gầy dựng
và vun đắp, để chúng ta có được,như ngày nay.
Nói như học giả Phạm Quỳnh, nợ
văn hoá là món nợ chung thân. Và Nguyễn Văn Vĩnh thì bảo Quốc ngữ
là chữ nước ta. Hỏi chứ, chúng ta đã nghĩ gì và làm gì để đền ơn đáp
nghĩa ấy, sau mấy trăm năm?
Chú thích:
(1)
Missi (Magazine d’Information Spirituel et de
Solidarite Internationale) Nguyệt san chuyên đề của Dòng Tên, Hà Nội, số phát hành tháng 5.1961, tr.147.
(2) Có ý nói đến trường hợp một số quốc
gia đồng văn - đồng chủng với Trung quốc, như Nhật bản và Triều Tiên, đến nay
vẫn còn bị ràng buộc với thứ chữ tượng hình cố cựu, sau biết bao phen xoay vần,
cải cách triệt để.
(3)(4) Linh mục Giuse Đỗ Quang Chính,
Dòng Tên(1929-2012), tiến sĩ Sử học Sorbonne 1972. Giáo sư Sử học tại Đại học
Đà Lạt, Huế, Minh Đức, Giáo Hoàng Học viện Pio X Đà Lạt; thành viên Uỷ Ban Ngôn
Ngữ của Viện Khoa Học Xã hội Việt Nam; tác giả nhiều bộ sách chuyên sâu về lịch
sử, quốc ngữ ,dòng Tên và riêng về Đắc Lộ, từ 1972 đến 2005: Lịch Sử Chữ
Quốc ngữ (1620-1659), Ra Khơi, Sài gòn,1972; Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt,
1998; Hai Giám mục Đầu Tiên tại Việt Nam,2005; Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội
Công giáo Việt Nam, 2005...
(5) Raphael de Rhodes - Raphael Đắc Lộ
(1611-1687), nguyên quán Quảng Nam. Theo tự thuật của Đắc Lộ, Raphael rất nhiệt
thành với công việc của một Thầy giảng; tỏ rõ mẫu gương của một trí thức thông
thạo ngôn ngữ Hán, Nôm, Bồ, La, Hoà Lan, Xiêm, là một trong những cộng
tác viên thân cận nhất của Đắc Lộ, vì thế được mang tên Đắc Lộ.
(6) Tham khảo bản đồ quy hoạch của Toà
Đô chánh Sài gòn 1956 của tác giả Ngô Văn Phát,bút hiệu Thuần Phong, quê quán
Bạc Liêu, sinh năm 1910 và mất năm 1983 tại Sài gòn. Ông là giáo sư Việt văn
trường Petrus Ký, Trưởng phòng hoạ đồ thuộc Toà Đô chính Sài gòn. Theo ông,để
đánh dấu việc dành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô chánh được lệnh gấp rút
thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt, mà chính ông là tác giả.
(7) Tinh Việt văn Đoàn, tên của một nhóm
nhà văn, do Phạm Đình Khiêm và Phạm Đình Tân sáng lập, chủ trương. Khởi đầu với
nguyệt san Thanh Niên (1936-1943) tại
Hà Nội. Từ năm 1954, tại Sài gòn,ra mắt tuần báo Văn Đàn (số 1, ngày 01.6.1960), cơ quan ngôn luận văn nghệ, giáo
dục, xã hội, có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp văn hoá, giáo dục Công
giáo.
(8) Giacôbê Nguyễn Khắc Xuyên (1923-2005),
bút hiệu Hồng Nhuệ, nguyên quán Hà Nội, đồng sáng lập nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh tại
Sở Kiện, Hà Nam (1947) cùng với nhạc sĩ Hùng Lân, Duy Tân, Trần Đình Nam...
Nguyễn Khắc Xuyên là tác giả của khá nhiều công trình chuyên sâu về Văn hoá,
Quốc ngữ và Đắc Lộ, xuyên suốt thời gian 1958-1999: Xung quanh vấn đề
thành lập chữ Quốc ngữ ,Sài gòn, 1959; Giỗ 300 (1660-1960) năm vị sáng lập chữ
Quốc ngữ: Giáo sĩ Đắc Lộ, Sài gòn, 1960; Giáo sĩ Đắc Lộ tác và Tác phẩm Quốc
ngữ đầu tiên: Phép Giảng Tám Ngày ( cùng với Phạm Đình Khiêm), Sài gòn,
1961; dịch sang Việt ngữ: Lịch Sử Vương quốc Đàng Ngoài
(Histoire du Royaume de Tunkin,1651); Hành Trình và Truyền Giáo (Divers
Voyages et Missions, 1653); Tự Vị Annam La Tinh (1772-1773) của Pigneau de
Behaine, 1999...
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|