Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
Bài Viết Của
Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
CẦU NGUYỆN THEO KINH MÂN CÔI
Lectio Divina: Cầu Nguyện dưới ánh sáng Lời Chúa
Lm. Giuse Hoàng Kim Đại Góp ý với Đại Hội Dân Chúa
ĐỊA VỊ VÀ SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI & CỦA ĂN NUÔI SỐNG
THIÊN CHÚA BA NGÔI
NHIỆM TÍCH THÁNH THỂ
LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI
TÔN KÍNH THÁNH KINH
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
ĐỊA VỊ VÀ SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
BẢN GÓP Ý LIÊN QUAN ĐẾN PHỤNG VỤ
NHIỆM TÍCH THÁNH THỂ

 

LỜI MỞ ĐẦU

Nhiệm tích Thánh Thể là nhiệm tích cao trọng nhất trong bảy nhiệm tích, mà Hội Thánh Công Giáo tôn kính đặc biệt và đã xác định như sau: Nhiệm tích Thánh Thể lànguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu. Những nhiệm tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với nhiệm tích Thánh Thể và qui hướng về đó.” (GLCG số 1324)

Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của nhiều người, tôi dựa vào Thánh Kinh, Giáo lý của Hội thánh Công giáo và Thông điệp về Bí tích Thánh Thể của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II để trình bày về nguồn gốc, ý nghĩa, điều kiện và hiệu quả của nhiệm tích Thánh Thể.

Tôi ước mong mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, người tín hữu sẽ được Chúa ngự trong tâm hồn và được Ngài ban sự sống trường sinh.

           

Chương một

NGUỒN GỐC NHIỆM TÍCH THÁNH THỂ 

Chúa Giêsu đã lập nhiệm tích Thánh Thể trong bữa tiệc cuối cùng với các tông đồ và môn đệ, trước khi Ngài bị bắt và chịu chết trên thập giá. Các tông đồ là đã ghi lại như sau :

a) Thánh Matthêu viết : 

“Cũng đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói : “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”.

Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói : “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.”

“Thầy bảo cho anh em biết : từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.”  (Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20)

b) Thánh Phaolô viết cho tín hữu ở Côrintô :

“Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em : Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”

“Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình.”  (1 Cr 11,23-29)

c) Thánh Gioan ghi lại lời Chúa Giêsu tuyên bố với người Do Thái :

“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

“Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”

“Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

“Đó là những điều Chúa Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.” (Ga 6,51-59)

đ) Theo thánh Luca thì thời Hội Thánh sơ khai, các tông đồ đã hiểu, đã tin và đã cử hành nhiệm tích này (gọi là nghi lễ bẻ bánh) mỗi khi họp nhau ngày thứ nhất trong tuần :

- “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự nghi lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.”  (Cv 2,42)

- “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh.” (Cv 20,7) 

Tóm lại, “Nhiệm tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu. Những nhiệm tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với nhiệm tích Thánh Thể và qui hướng về đó.

Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta.”  (GLCG số 1324)

 

Chương hai

Ý NGHĨA MẦU NHIỆM THÁNH THỂ 

Chúa Giêsu lập nhiệm tích Thánh Thể với nhiều ý nghĩa :

1-  BIẾN HÓA

Ý nghĩa thứ nhất của nhiệm tích Thánh Thể là Chúa Giêsu dùng Lời của Ngài và quyền năng của Thánh Thần để biến hóa bánh miến thành Mình Ngài, rượu nho thành Máu Ngài.

a) Các sách Tin Mừng đã ghi lại nhiều lần Chúa Giêsu đã dùng quyền năng để biến hóa nước thành rượu (Ga 2,1,11), bánh và cá hóa ra nhiều (Mt 14,13-21; 15,32-39). Rượu, bánh hay cá là những của ăn vật chất Chúa đã biến hóa ra nhiều vì lợi ích cho nhiều người, trong hoàn cảnh đặc biệt để nhiều người tin vào Ngài.

b) Nhưng trong bữa tiệc cuối cùng, Chúa Giêsu muốn nuôi sống đời sống thiêng liêng của các môn đệ bằng chính thân mình, nên Ngài đã biến hoá bánh miến và rượu nho thành Mình Máu Ngài.

“Các giáo phụ khẳng định : Họi Thánh tin rằng sự biến đổi bánh và rượu thành Mình Máu Chúa Giêsu là nhờ hiệu quả của Lời Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần” (GLCG số 1375)

c) Ngày nay mỗi khi cử hành thánh lễ, trước khi đọc lời truyền phép, Hội Thánh đều khẩn cầu Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến thánh hoá và biến đổi bánh miến và rượu nho thành Mình Máu Chúa Giêsu : 

- “Chúng con xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hoá của lễ này, để biến thành Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, cho chúng con được nhờ.” (Kinh Tạ Ơn II)

- “Chúng con xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô.” (Kinh Tạ Ơn II)

Như vậy, Thiên Chúa không chỉ biến hóa vật chất để nuôi thân xác chúng ta hằng ngày, Ngài còn sai Con của Ngài đến trần gian để hy sinh Thân Thể mình làm của ăn nuôi đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Chính Chúa Thánh Thần đã biến bánh miến và rượu nho thành Thân Thể Chúa Giêsu và cũng chính Chúa Thánh Thần làm cho tât cả những ai đón nhận Mình Máu Chúa Giêsu sẽ thành một thân thể duy nhất.

Thực hành :

- Mỗi khi dự thánh lễ, chúng ta hãy chú ý đến lời cầu nguyện của Hội thánh trước khi truyền phép : Xin Chúa Cha ban Thánh Thần đến biến hoá bánh miến và rượu nho thành Mình Máu Chúa Giêsu.

- Để tăng thêm lòng tin vào quyền năng biến hóa của Chúa, trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy chú ý đến việc Chúa thường xuyên biến hoá của ăn, nước uống và không khí thành thân thể chúng ta.  

2- BÁNH HẰNG SỐNG

Ý nghĩa thứ hai của nhiệm tích Thánh thể là Chúa Giêsu thể hiện tình yêu thương đối với loài người là ban chính bản thân Ngài là Bánh Hằng Sống để loài người được sống trường sinh

a) Thiên Chúa dựng nên loài người gồm thân xác, linh hồn và tinh thần. Thiên Chúa cũng đã tạo ra của ăn vật chất (không khí, nước uống và cơm bánh) để nuôi đời sống thể xác và của ăn tinh thần (Ơn Chúa, Lời Chúa và Mình Máu Chúa) để nuôi đời sống linh hồn và tinh thần.

b) Trong thời gian rao giảng, Chúa Giêsu đã hứa ban cho loài người bánh hằng sống, chính là thân thể Ngài :

“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)

Thật thế, bất cứ ai đón nhận Chúa Giêsu, thì được Chúa ngự trong tâm hồn, người ấy sẽ được ở trong Ngài và được sống nhờ sức sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6,56-57)

Như vậy, nhiệm tích Thánh Thể là nhiệm tích của tình yêu thương cao cả, là một ân huệ lớn lao mà Chúa Giêsu Kitô đã ban cho loài người, chính là bánh hằng sống dẫn đưa loài người tới sự sống trường sinh. 

Thực hành : Chúng ta hãy thường xuyên tham dự thánh lễ và rước Mình Thánh Chúa, để được Chúa ban sự sống trường sinh. 

3- CHÚC TỤNG - TẠ ƠN

Ý nghĩa thứ ba của nhiệm tích Thánh Thể là Chúa Giêsu chúc tụng tạ ơn Chúa Cha bằng chính bản thân ngài.

a) Chúa Giêsu thường dâng lời chúc tụng tạ ơn Chúa Cha trước khi làm các dấu lạ: 

- Khi hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất: “Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông” (Mt 14,19; Mc 6,41; Lc  9,16; Ga 6,11)

- Khi hóa bánh ra nhiều lần thứ hai : “Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.”  (Mt 15,36; Mc 8,6-7)

- Khi đồng bàn với hai môn đệ ở làng Em-mau : “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” (Lc 24,30)

- Khi cứu ông La-gia-rô sống lại : “Chúa Giêsu ngước mắt lên và nói : “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.”  (Ga 11,41)

b) Nhưng trong bữa tiệc cuối cùng, Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha không phải chỉ bằng lời tạ ơn, mà bằng chính Thân Mình Ngài. Chính Thân Mình Ngài đã hy sinh cho nhân loại để trở thành của lễ tinh tuyền hiến dâng lên Chúa Cha. Vì thế, Hội Thánh đã định nghĩa thánh lễ là lễ Tạ Ơn; kinh nguyện Thánh Thể gọi là kinh Tạ Ơn.

Thánh Phaolô đã nói về việc nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa :    

- “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?” (1 Cr 10,16)

c) Ngày nay Hội thánh đã khẳng định 

- “Nhiệm tích Thánh Thể là hy tế tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng tri ân vì mọi điều thiện hảo Người đã thực hiện qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Nhiệm tích Thánh Thể trước hết là “hy tế tạ ơn”. (GLCG 1360) 

- “Nhiệm tích Thánh Thể còn là hy tế ca ngợi, nhờ đó Hội Thánh dâng lên lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa nhân danh toàn thể thọ sinh. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể thực hiện cách trọn hảo nhờ Chúa Kitô : Người hiệp nhất mọi tín hữu với Người, với lời ca ngợi và chuyển cầu của Người; đến nỗi, hy tế ca ngợi Chúa Cha phải được dâng lên nhờ Người, với Người để được chấp nhận trong Người.” (GLCG 1361)

Như vậy, Chúa Giêsu đã hy sinh thân mình cho nhân loại để trở thành của lễ chúc tụng, tạ ơn Chúa Cha.   

Thực hành :  Chúng ta hãy sám hối và đổi mới toàn diện đời sống để trở thành của lễ hiến dâng và tạ ơn Thiên Chúa mỗi khi đến tham dự thánh lễ.  

4- CHIA SẺ

Ý nghĩa thứ bốn của nhiệm tích Thánh Thể là chia sẻ. Sự chia sẻ ở đây không phải là chia sẻ của ăn vật chất, nhưng là chia sẻ chính bản thân Chúa Giêsu.

a) Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người hãy chia của cải vật chất cho người nghèo.

- “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,21)

Đến ngày tận thế, Chúa sẽ thưởng những người biết thương yêu chia sẻ : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. . . “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,34-40)

Và Chúa sẽ phạt những người ích kỷ:

- "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng". . . "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy."

Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời." (Mt 25,41-43)

b) Chính Chúa Giêsu cũng đã chia sẻ nhiều lần : Sau khi chúc tụng tạ ơn Chúa Cha, Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá “bẻ ra và chia cho các môn đệ, để các môn đệ chia cho dân chúng.” (Mt 15,36).

Hai môn đệ ở Em-mau chỉ nhận ra Chúa Giêsu khi thấy “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” (Lc 24,30)

Như vậy, cử chỉ “bẻ ra và chia” là cử chỉ đặc biệt của Chúa Giêsu và cũng phải là cử chỉ đặc biệt của các môn đệ, những người tin theo Chúa, trong số đó có chúng ta.

c) Trong nhiệm tích Thánh Thể Chúa Giêsu chia sẻ chính bản thân mình, nói lên tình yêu của Ngài cao sâu biết dường nào ! Cũng như người mẹ chia sẻ chính thịt máu mình mà Thiên Chúa đã biến hóa thành dòng sữa vì sự sống của người con mới sinh.

Sự chia sẻ mà Chúa Giêsu thể hiện qua nhiệm tích Thánh Thể còn là một việc làm hoàn toàn mới mẻ, đối nghịch lại lòng tham lam mà nguyên tổ đã phạm. Ông bà nguyên tổ đã ăn hết không trừ cây nào, nên đã đem đến cho nhân loại nỗi đau khổ và sự chết ! Còn Chúa Giêsu thì chia sẻ tất cả, không tiếc gì bản thân mình, đã đem lại cho loài người sự sống trường sinh.

Thánh Phaolô viết : “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5,17)

d) Thật vậy, lòng tham lam ích kỷ đã chia rẽ loài người với Thiên Chúa và giữa loài người với nhau. Thế giới hôm nay vẫn còn đi theo vết chân tham lam của nguyên tổ, chưa đón nhận Chúa Giêsu Đấng yêu thương chia sẻ làm chủ đời sống, nên chiến tranh chết chóc còn tràn lan!

Như vậy, chỉ có tấm bánh bẻ ra và chia mới trở thành bánh hằng sống! Chúa Giêsu đã bẻ ra và chia chính bản thân Ngài, nên Ngài đã nói : “Tôi là bánh hằng sống.”   (Ga 6,51)

Thực hành : Chúng ta hãy chia sẻ của ăn vật chất cho người nghèo khổ; đồng thời chia sẻ niềm tin và chân lý mà chúng ta đã lãnh nhận cho những người chưa tin.  

 5- HỢP NHẤT

Ý nghĩa thứ năm của nhiệm tích Thánh Thể là hợp nhất mọi người trong Chúa.

a) Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để rao giảng và thể hiện tình yêu thương cứu độ. Ngài sẵn sàng trao ban chính thân mình cho loài người với mục đích là loài người được sống hợp nhất với Thiên Chúa và với nhau.

Khi rao giảng, Chúa Giêsu đã tuyên bố : - “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.” (Ga 6,56-57)

b) Trong bữa tiệc cuối cùng, Chúa Giêsu đã nói lên ước nguyện của Ngài khi cầu nguyện với Chúa Cha :

- “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.”

“Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một : Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.”  (Ga 17,20-23)

c) Thánh Phaolô cũng nói với tín hữu ở Côrintô : “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”  (1 Cr 10,17)

Khi lãnh nhận Thánh Thể, không những chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Chúa, mà còn được Chúa thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta, tức là sự sống trường sinh bất tử.

Thực hành : Chúng ta hãy rước Thánh Thể thường xuyên và cố gắng xây dựng sự hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn; đồng thời tin chắc rằng Chúa sẽ thông ban sự sống trường sinh cho chúng ta, khi chúng ta đón rước Ngài và đoàn kết với nhau.  

6- TƯỞNG NIỆM VÀ TÁI DIỄN

Ý nghĩa thứ sáu của nhiệm tích Thánh Thể là tưởng niệm và tái diễn mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và sống lại.

Hội Thánh dạy rằng :

a) “Khi Chúa Giêsu truyền lặp lại những cử chỉ và lời nói của mình “cho tới khi Người lại đến” (1Cr 11,26), Người đòi hỏi không những phải nhớ đến Người và những gì Người đã làm, nhưng còn muốn các tông đồ và những người kế nhiệm phải cử hành phụng vụ tưởng niệm cuộc sống, cái chết, việc phục sinh và lên trời về với Chúa Cha của Người để cầu bầu cho chúng ta. “ (GLCG 1341)

b) Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh của Chúa. Sách Công Vụ Tông Đồ tường trình về Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem như sau :

“Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng... ngày ngày siêng năng tới đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46) (GLCG 1342)

c) Ngày nay Hội Thánh dạy rằng : Nhiệm tích Thánh Thể Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, hiện tại hóa và dâng tiến cách bí tích hy tế duy nhất của Người trong Phụng Vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong các kinh nguyện Thánh Thể, sau phần tường thuật việc lập nhiệm tích Thánh Thể và phần hiến thánh, bao giờ cũng có một kinh Tưởng Niệm.” (GLCG 1362)

- “Theo Thánh Kinh, Tưởng Niệm không chỉ là nhớ lại những biến cố đã qua, mà còn là loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho nhân trần. Khi cử hành phụng vụ, những biến cố này hiện diện sống động giữa cộng đoàn. Dân Ít-ra-en hiểu cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập như sau : khi dân Chúa cử hành lễ Vượt Qua, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện diện sống động trong ký ức, để họ căn cứ vào đó mà điều chỉnh cuộc sống của mình.” (GLCG 1363)

- “Sang thời Tân Ước, Tưởng Niệm mang một ý nghĩa mới. Khi cử hành nhiệm tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng nhớ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô; lúc đó, cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Chúa Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. “Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”  (LG 3). (GLCG 1364)

- “Vì là lễ Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, thánh lễ cũng là một hy tế. Tính chất hy tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép : “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”. “Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước Mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội” (Lc 22,19-20).

- “Trong nhiệm tích Thánh Thể, Chúa Kitô ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá vì chúng ta, ban chính máu Người đã đổ ra “cho mọi người được tha tội.” (Mt 26,28). (GLCG 1365)

Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệm và ban phát hiệu quả của hy tế này.

Thực hành : Mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy hiệp thông với Hội thánh để cử hành nhiệm tích Thánh thể, tưởng niệm và tái diễn mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và sống lại, đồng thời trông chờ Ngài lại đến lần thứ hai trong vinh quang.            

7- CHÚA HIỆN DIỆN

Ý nghĩa thứ bảy của nhiệm tích Thánh Thể là Chúa Kitô hiện diện thật sự, nhờ quyền năng của Lời Người và Thánh Thần.

a) Hội thánh dạy rằng :

- “Đối với Hội Thánh, Chúa Giêsu, Đấng đã chết, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34). Ngài hiện diện dưới nhiều hình thức :

-  Hiện diện trong Lời Chúa; trong kinh nguyện của Hội Thánh, “ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy” (Mt 18,20);

- Hiện diện trong những người nghèo khổ, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46);

- Hiện diện trong các nhiệm tích do Người thiết lập; trong hy tế thánh lễ và nơi thừa tác viên; “nhất là Người hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể.” (GLCG 1373)

- “Cách thức Chúa Kitô hiện diện dưới hai hình Thánh Thể là cách độc nhất vô nhị. Người đặt nhiệm tích Thánh Thể trên mọi nhiệm tích để trở nên “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi nhiệm tích”

- “Trong nhiệm tích cực thánh, “có sự hiện diện đích thực, thực sự và bản thể của Mình và Máu Chúa Kitô, cùng với linh hồn và thiên tính của Người, nghĩa là Chúa Kitô trọn vẹn” (CĐ Trentô, DS 1651). “

- “Sự hiện diện này được gọi là “thực sự”, không có nghĩa là Chúa Kitô không hiện diện thực sự trong những cách khác; nhưng đây là cách hiện diện đầy đủ nhất vì là sự hiện diện bản thể, và nơi đây có Chúa Kitô, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện trọn vẹn.” (GLCG 1374)

Trong nhiệm tích này, Chúa Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Người.

b) Các giáo phụ khẳng định Hội thánh tin rằng sự biến đổi này có được là nhờ hiệu quả của Lời Chúa Kitô và tác động của Thánh Thần.

Thánh Gioan Kim Khẩu tuyên bố :

“Không phải con người làm cho các lễ vật trở thành Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng do chính Chúa Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta. Vị linh mục, hiện thân của Chúa Kitô, đọc lời truyền phép, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Chính lời “Này là Mình Thầy” biến đổi các lễ vật.”

Thánh Am-rô-xi-ô nói về sự biến đổi như sau : “Đây không phải là vấn đề bản tính tự nhiên, nhưng do lời truyền phép thánh hiến. Hiệu lực của lời truyền phép vượt trên và biến đổi cái tự nhiên... Lời Chúa Kitô có khả năng sáng tạo từ hư không, chẳng lẽ lời đó lại không biến đổi những sự vật đang có thành những sự khác được sao? Biến đổi một vật thì dễ hơn sáng tạo ra nó”  (GLCG 1375)

c) Hội thánh xác định :

- “Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể bắt đầu từ lúc truyền phép và kéo dài bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại. Trong hình bánh cũng như trong hình rượu, Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn. Và trong bất cứ phần nhỏ bé nào cũng có trọn vẹn Mình và Máu Chúa.Việc bẻ bánh không phân chia Chúa Kitô.” (GLCG 1377)

- “Việc Chúa Kitô muốn hiện diện với Hội thánh bằng phương cách độc đáo này có một ý nghĩa sâu xa. Khi sắp ra đi, không còn hiện diện hữu hình với những người thân yêu, Chúa Kitô muốn ban cho chúng ta sự hiện diện nhiệm tích của Người; khi sắp tự hiến trên thập giá để cứu độ chúng ta, Người muốn để lại cho chúng ta dấu chỉ tưởng niệm tình yêu; với tình yêu này, Người đã yêu thương ta “đến cùng” (Ga 13,1), đến độ ban cho chúng ta cả sự sống của Người.”

“Trong nhiệm tích Thánh Thể, Người hiện diện cách mầu nhiệm giữa chúng ta như “Đấng đã yêu mến và thí mạng vì chúng ta” (Gl 2,20), Người hiện diện qua những dấu chỉ biểu lộ và thông ban tình yêu này.”  (GLCG 1380)

Thực hành : Chúng ta nên nhớ rằng : Điều kiện trước tiên để lãnh nhận Thánh Thể là phải tin thật Chúa Giêsu đang hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Vì thế, trước khi trao Thánh Thể, linh mục nói : “Mình Máu Thánh Chúa Kitô,” thì người lãnh nhận phải thưa : “Amen.”

(Amen là tiếng Do Thái; trong trường hợp này có nghĩa là : Con tin thật đây là Mình Máu Thánh Chúa Kitô)   

8- GIAO ƯỚC MỚI-

Y nghĩa thứ tám của nhiệm tích Thánh thể là Chúa Giêsu lập Giao Ước Mới thay cho Giao Ước Cũ, để tha thứ tội lỗi cho loài người.

a) Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa đã thiết lập 5 giao ước :

          1- Giao ước No-e (St 9,8-17).

          2- Giao ước Abraham (St 12,1-3).

          3- Giao ước Sinai (Xh 20,1-17).

          4- Giao ước Đavít (2 Sm 7).

          5- Giao ước Giêrêmia (Gr 31:31-34).

Tất cả những giao ước trên đây đều là tạm thời, nên trong bữa tiệc cuối cùng Chúa Giêsu đã lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu. Giao ước này đã được thực hiện cách nhiệm mầu trong bữa tiệc ly : 

Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho và nói: “Tất cả hãy cầm lấy mà uống, này là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội.” (Mc 14,24; Lc 22,20; 1 Cor 11,25).

Giao ước mới này là giao ước vĩnh cửu vì được ký kết bằng chính Máu Con Thiên Chúa làm người. Máu Chúa Giêsu Kitô đã đổ ra để cứu độ loài người. Ngài tha thứ mọi tội lỗi cho loài người, miễn là biết sám hối ăn năn. Như vậy Máu Chúa Giêsu Kitô  đổ ra đã khai sinh một dân mới, dân được cứu độ.   

b) Các thánh sử đã xác định như sau :

          - “Chúa Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu.” (Dt 13,20)

          - “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta.” (Dt 9,12).

          - “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin.” (Rm 3,25)

          - “Bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Chúa Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.” (Rm 5,9)

          - “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.” (Ep 1,7)

          -“Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,20)

          -“Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Chúa Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9,14)

          Thật vậy, vào chiều ngày thứ sáu, trước khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, Máu giao ước mới đã có hiệu lực, cửa Thiên đàng rộng mở cho mọi người và mời gọi mọi người hãy tuyên xưng lòng tin và sám hối để được vào Nước Trời.  

Người công dân đầu tiên được vinh dự bước vào Nước Trời, chính là người trộm lành. (Lc 23,39-43)

c) Từ nay, các tín hữu không chỉ nhận được sự thanh tẩy, nhưng còn nhận được ơn tha tội. Hiến tế của Chúa Giêsu có một bảo đảm giá trị vô song, hiệu quả tuyệt đối và phổ quát.

Bí tích Thánh Thể là một mối dây nối kết trời và đất. Nó bao gồm và thấm nhập toàn thể thụ tạo. Con Thiên Chúa đã làm người để hoàn lại toàn thể thụ tạo cho Đấng đã kéo nó ra từ hư vô, trong một hành động chúc tụng tuyệt vời.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu, Linh mục thượng phẩm đời đời, khi bước vào cung thánh vĩnh cửu nhờ máu đổ ra trên thập giá, Ngài đã hoàn lại cho Chúa Cha toàn thể thụ tạo được cứu chuộc. Ngài thực hiện điều đó nhờ tác vụ linh mục của Hội thánh, để tôn vinh Chúa Ba Ngôi chí thánh.

Thực hành : Mỗi khi tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta hãy sám hối và tin thật Chúa sẽ tha mọi tội lỗi cho chúng ta. 

9- TRUYỀN GIÁO 

          Ý nghĩa thứ chín của nhiệm tích Thánh Thể là được Chúa sai đi truyền giáo sau khi đã được Ngài ngự trong tâm hồn và nhận Ngài làm chủ đời sống.

          a) Ý nghĩa truyền giáo này của nhiệm tích Thánh Thể đã được Thánh Phaolô minh nhiên nhắc lại trong thư gửi tín hữu Côrintô :                 

          “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”  (1 Cr 11, 26).      

          Hội thánh nhắc lại lời của Thánh Phaolô trong lời tung hô sau truyền phép. Nhiệm tích Thánh Thể là một bí tích “mang tính thừa sai” không chỉ bởi ân sủng của sứ vụ thừa sai tuôn chảy từ đó, nhưng cũng bởi nó chứa đựng trong mình nguyên lý và nguồn suối cứu rỗi vĩnh cửu cho mọi người.         

          b) Vì thế việc cử hành hy tế Thánh Thể là hành vi thừa sai có hiệu quả nhất mà Cộng đoàn Hội thánh có thể chu toàn trong lịch sử của thế giới. Mọi thánh lễ kết thúc với lệnh truyền thừa sai “Hãy đi bình an.” Một lời mời gọi các tín hữu mang sứ điệp của Chúa Phục sinh đến các gia đình của họ, những nơi làm việc và xã hội trên khắp thế giới.             

          c) Trong Lá Thư “Ngày của Thiên Chúa,“ Đức  Gioan Phaolô II mời gọi các tín hữu noi gương hai môn đệ làng Emmaus, một khi đã nhận ra Chúa Kitô phục sinh “trong lúc bẻ bánh,” (Lc 24,30-32) liền cảm thấy nhu cầu quay lại để chia sẻ với tất cả bạn bè niềm vui được gặp Chúa (số 45). “Bánh được bẻ ra” mở toang đời sống của các Kitô hữu và của toàn thể cộng đoàn để chia sẻ và tự hiến cho thế gian được sống. (Ga 6,51)                           

          Nhiệm tích Thánh Thể đem lại mối dây không thể chia lìa giữa hiệp thông và sứ vụ truyền giáo, mối dây làm  cho Hội thánh trở thành bí tích hiệp nhất của toàn thể nhân loại. (GH số 1)

          Thực hành : Khi đến dâng lễ, chúng ta đến lãnh nhận bánh trường sinh, đồng thời cũng lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng do chính Chúa Giêsu giao. Vì thế, chúng ta hãy tiếp tục giới thiệu Chúa Giêsu cho những người trong môi trường sống, như : gia đình, xí nghiệp, cộng đoàn.                                      

10- XÂY DỰNG HỘI THÁNH            

          Ý nghĩa thứ mười là Nhiệm tích Thánh Thể xây dựng Hội thánh. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp về Bí tích Thánh Thể (số 21) như sau :      

          a) “Khi đón nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu : “Anh em hãy cầm lấy mà ăn ... tất cả anh em hãy uống...” (Mt 26,26-28) Các Tông đồ lần đầu tiên đã bước vào sự hiệp thông bí tích với Người. Từ giây phút đó và cho đến tận thế, Hội thánh được xây dựng qua sự hiệp thông với Con Thiên Chúa, được hiến tế vì chúng ta : “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy... Mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà nhớ đến Thầy.”  (1 Cr 11,24-25; Lc 22,19).

          b) “Ngay trong Hội thánh sơ khai, ảnh hưởng của nhiệm tích Thánh Thể thật rõ ràng. Các tác giả sách Tin Mừng xác định rõ ràng, chính nhóm Mười Hai, là các Tông đồ, đã tụ họp quanh Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Đây chính là điểm riêng biệt quan trọng, vì các Tông đồ là “mầm giống của dân It-ra-en mới và đồng thời là nguồn gốc của phẩm trật thánh.”  Khi ban cho các Tông đồ Mình và Máu Người làm của ăn, Chúa Kitô đã hiệp nhất các ông một cách huyền nhiệm với hy tế của Người sẽ được hoàn tất trên thập giá sau đó không lâu... Những cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly đã đặt nền tảng cho cộng đoàn thiên sai mới, dân của Giao Ước Mới.”   

          c) “Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng việc cử hành Thánh Thể nằm ở trung tâm tiến trình tăng trưởng của Hội thánh. Qủa thật sau khi tuyên bố “Hội thánh là Vương quốc của Chúa Kitô, đã hiện diện cách mầu nhiệm, lớn lên trong thế giới một cách hữu hình nhờ quyền năng Thiên Chúa,” thì như muốn trả lời câu hỏi : “Hội thánh tăng trưởng cách nào?” Công đồng nói thêm : “ Mỗi khi hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó mà Chúa Kitô, Chiên Vượt qua của chúng ta được hiến tế, (1 Cr 5,7) công cuộc cứu chuộc chúng ta đuợc thực hiện. Đồng thời, nhờ bí tích của tấm bánh Thánh Thể, sự hiệp nhất các tín hữu làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô được tỏ bày và trở nên hiện thực.”  (1 Cr 10,17)

          Thực hành : Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ đến nhiệm vụ là phải xây dựng Hội thánh Chúa Kitô ngày càng phát triển, nghĩa là luôn gìn giữ sự hiệp nhất trong Hội thánh và làm cho nhiều người gia nhập Hội thánh.                         

11- BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI                 

          Ý nghĩa thứ mười một của nhiệm tích Thánh Thể là thúc đẩy người tín hữu dấn thân biến đổi thế giới theo đường lối Tin Mừng. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp về Bí tích Thánh Thể (số 20) như sau :    

          a) “Những vấn đề làm đen tối chân trời hiện tại của chúng ta rất nhiều. Chỉ cần nghĩ đến việc gấp rút phải hoạt động cho hoà bình, phải gấp rút đặt những cột mốc vững chắc về phương diện công bằng và liên đới trong những mối liên hệ giữa các dân tộc, phải bênh vực sự sống của con người, từ lúc thụ thai đến lúc chết một cách tự nhiên. Và phải nói gì đến hàng ngàn những mâu thuẫn trong một thế giới “toàn cầu hóa,” trong đó những người yếu kém nhất, những người bé nhỏ nhất và những người nghèo nhất hình như không còn gì để hy vọng!”

          “Chính trong thế giới đó, phải làm sao cho niềm hy vọng Kitô giáo bừng sáng lên trở lại! Cũng chính vì thế mà Chúa đã muốn ở lại với chúng ta trong nhiệm tích Thánh Thể, ghi khắc vào sự hiện diện của Hy tế và bữa ăn của Người, lời hứa cho nhân loại được đổi mới nhờ tình yêu của Người.”

b) “Thật là ý nghĩa nơi các sách Tin Mừng Nhất Lãm chỉ tường thuật việc thiết lập Thánh Thể, thì thánh Gioan đưa ra trình thuật việc Chúa “rửa chân” để minh họa ý nghĩa thâm sâu của việc ấy, qua đó Chúa Giêsu làm thầy dạy hiệp thông và phục vụ.” (Ga 13,1-20)

          “Còn thánh Phaolô, thì tuyên bố thật là “bất xứng” đối với một cộng đoàn Kitô hữu khi tham dự vào Bữa Tiệc Ly của Chúa, trong một bầu khí chia rẽ và dửng dưng đối với người nghèo.” (1 Cr 11,17-22.27-34)                     

          c) “Công bố cái chết của Chúa “cho tới khi Người lại đến” (1 Cr 11,26) đòi buộc những ai tham dự vào Tiệc Thánh Thể cương quyết dấn thân biến đổi cuộc sống, để một cách nào đó cuộc sống ấy hoàn toàn trở thành “Thánh Thể.” Chính hoa quả của sự biến đổi cuộc sống và sự dấn thân biến đổi thế giới theo đường lối Tin Mừng, làm rạng sáng chiều kích cánh chung của việc cử hành Thánh Thể và của tât cả đời sống Kitô giáo : “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến.” (Kh 22,20)                       

          Thực hành : Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ đến nhiệm vụ phải tích cực tham gia vào công cuộc canh tân các mối quan hệ trần thế, theo ánh sáng mà chúng ta đã nhận được từ Tin Mừng.                      

12- KIẾN TẠO CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI                     

          Ý nghĩa mười hai của nhiệm tích Thánh Thể là kiến tạo cộng đồng nhân loại trong tình huynh đệ. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp về Bí tích Thánh Thể (số 24) như sau :                                         

          a) “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ, hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hiệp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn thông thường của con người.”

          b) “Nhờ thông hiệp vào Mình Chúa Kitô, Hội thánh ý thức càng ngày càng sâu hơn căn tính của mình :”Hội thánh ở trong Chúa Kitô một cách nào đó là bí tích; nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.”               

          c) “Theo kinh nghiệm hằng ngày, sức mạnh hiệp nhất của thân mình Chúa Kitô, chống lại những mầm mống tan rã giữa con người với nhau đang bám sâu vào nhân loại do tội lỗi. Vì lẽ đó, nhiệm tích Thánh Thể, khi xây dựng Hội thánh, cũng kiến tạo cộng  đồng nhân loại.”  

          Thực hành : Khi rước Mình Thánh Chúa, chúng ta được kết hiệp với Chúa và trở thành một thành phần xây dựng Hội thánh, thì chúng ta cũng phải tích cực xây dựng cộng đồng nhân loại, phải đoàn kết với mọi người để xây dựng một thế giới hoà bình đích thực trong tình yêu.                                                

13- TÍNH TÔNG TRUYỀN CỦA NHIỆM TÍCH THÁNH THỂ      

          Ý nghĩa mười ba là tính tông truyền của nhiệm tích Thánh Thể. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp về Bí tích Thánh Thể (số 26-30) như sau : 

          a) “Khi giải thích Hội thánh là Tông truyền, Sách giáo lý Hội thánh Công giáo phân biệt 3 ý nghĩa như sau :                                  

          1/ Hội thánh đã và đang được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ (Ep 2,20) là những chứng nhân đã được chính Chúa Kitô tuyển chọn và sai đi. Khởi đầu của nhiệm tích Thánh Thể cũng đã có các Tông đồ, không phải vì thế mà nhiệm tích này không bắt nguồn từ chính Chúa Kitô, nhưng bởi vì Chúa Giêsu đã trao nhiệm tích này cho các Tông đồ và được các ngài và các đấng kế vị truyền lại cho đến chúng ta. Chính trong sự nối tiếp hành đống của các Tông đồ, vâng theo lệnh truyền của Chúa mà Hội thánh cử hành nhiệm tích Thánh Thể qua dòng thời gian.                       

          2/ Ý nghĩa thứ hai của tính tông truyền của Hội thánh được Sách Giáo lý nêu rõ là: “Hội thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng quý giá, những lời lành mạnh đã được nghe từ các Tông đồ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần đang ở trong Hội thánh.”                  

          Cùng theo ý nghĩa này, nhiệm tích Thánh Thể có tính tông truyền vì được cử hành đúng như niềm tin của các Tông đồ. Theo dòng lịch sử 2000 năm qua của Dân Giao Ước Mới, Huấn Quyền đã xác định giáo thuyết về nhiệm tích Thánh Thể trong nhiều dịp khác nhau, ngay cả trong những liên hệ đến từ ngữ chính xác, và điều đó chính là để bảo vệ đức tin tông truyền trong mầu nhiệm thật cao cả này. Niềm tin này vẫn không thay đổi và điều đó rất thiết yếu đối với Hội thánh.                    

          3/ Hội thánh tông truyền còn có ý nghĩa là : “Hội thánh vẫn tiếp tục được các Tông đồ dạy dỗ, thánh hóa và hướng dẫn cho đến ngày Chúa Kitô trở lại, nhờ những vị kế nhiệm trong nhiệm vụ mục tử : Giám mục đoàn, với sự trợ giúp của các linh mục, hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội thánh.”                                     

          b) Kế vị các Tông đồ trong sứ mệnh mục tử đòi hỏi phải có bí tích Truyền Chức, nghĩa là có việc phong chức giám mục thành sự và liên tục bắt đầu từ những nguồn gốc đầu tiên. Việc kế vị này rất thiết yếu để có Hội thánh đúng nghĩa và tròn đầy.                          

          Nhiệm tích Thánh Thể cũng diễn tả ý nghĩa đó của tính tông truyền. Quả thật như Công đồng Vatican II đã dạy, “các tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả cũng góp phần vào việc hiến dâng Thánh Thể theo vị trí của họ.” Nhưng chính linh mục được truyền chức mới “cử hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô và hiến dâng cho Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu.” . . .                             

          Quyền truyền phép Thánh Thể chỉ danh riêng cho giám mục và linh mục mà thôi, việc này không làm suy giảm giá trị của các phần tử khác trong dân Chúa, vì mọi người đều được hưởng nhờ hồng ân này trong sự hiệp thông vào Thân Thể duy nhất của Chúa Kitô là Hội thánh.”

          Thực hành : Khi chúng ta tham dự thánh lễ và cử hành nhiệm tích Thánh Thể, chúng ta hãy hiệp ý với vị chủ tế và cộng đồng trong đức tin tông truyền.                

 

Chương ba

ĐIỀU KIỆN LÃNH NHẬN THÁNH THỂ

 Bất cứ ai muốn lãnh nhận Thánh Thể, đều phải có đủ những điều kiện như sau :

          1- Phải tin thật Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể. (GLCG số 1373-1377)

          2- Phải phân biệt Mình Máu Thánh Chúa với bánh thường và sạch tội trọng; nghĩa là phải xem xét lương tâm. Ai biết mình phạm tội trọng, thì phải lãnh nhiệm tích Giao Hoà trước khi lãnh nhận Thánh Thể.   (1 Cr 11,24-29) - (GLCG số 1385)

          3- Phải khiêm tốn và thành khẩn nói lời sau đây : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời là con được lành mạnh.”  (Mt 8,8) (GLCG số 1386)

          4- Phải giữ chay một giờ trước khi lãnh nhận Thánh Thể; nghĩa là không ăn uống gì, trừ nuớc lã. (GLCG số 1387)

          5- Phải quyết tâm sống bác ái yêu thương chia sẻ, nhất là với những người đau khổ, nghèo đói hơn.  (GLCG số 1397)

 

Chương bốn

HIỆU QUẢ DO VIỆC LÃNH NHẬN THÁNH THỂ 

Khi lãnh nhận Thánh Thể, nguời tín hữu nhận được những hiệu quả :

          1- Hiệu quả chính yếu là được Chúa ngự trong tâm hồn và được kết hiệp thâm sâu với Chúa Giêsu. (Ga 6,56-57) (GLCG - 1391)

          2- Được Thiên Chúa ban sự sống và sự phục sinh.  (GLCG - 1391)

          3- Đời sống thiêng liêng của người tín hữu được gìn giữ, phát triển và canh tân. (GLCG - 1392

          4- Giúp người tín hữu tránh xa tội lỗi. Máu Chúa sẽ thanh tẩy lương tâm và tội lỗi.  (GLCG 1393.1395)   

          5- Củng cố và bồi dưỡng đức mến nơi người tín hữu đang yếu đi trong đời sống hằng ngày. Chúa ban sức mạnh để chúng ta tự giải thoát khỏi những ràng buộc bất chính với tạo vật và gắn bó chúng ta chặt chẽ với Chúa. (GLCG - 1394)

          6- Kết hợp các tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội thánh, bởi vì tất cả các tín hữu đều hiệp nhất với Chúa Kitô. (1 Cr 10,17) - (GLCG số 1396)

          7- Nuôi dưỡng tình bác ái : dấn thân phục vụ người nghèo. (GLCG số 1397)

          8- Bảo chứng chắc chắn cho các tín hữu sự vinh quang mai sau. (GLCG số 1402-1405) 

          9- Chúa Giêsu thông ban cho chúng ta Thánh Thần của Người. (TĐ BTTT số 17)

          10- Hiệp thông với Hội Thánh Thiên Quốc.  (TĐ BTTT số 19)

 

Phụ lục

VIỆC TÔN SÙNG THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỄ         

Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp về Bí tích Thánh Thể như sau :

          - “Việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ mang một giá trị vô song trong đời sống Hội thánh - phối hợp chặt chẽ với việc cử hành Hy tế Thánh Thể. Sự hiện diện của Chúa Kitô dưới hình bánh rượu được giữ lại sau thánh lễ. Sự hiện diện này tồn tại bao lâu hình bánh và rượu vẫn còn.”

          - “Các mục tử có nhiệm vụ khuyến khích, bằng cả chứng tá cá nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là chầu Thánh Thể, cũng như việc tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh rượu.”

          - “Trò truyện thân mật với Người và nghiêng mình vào lòng Người như môn đệ yêu dấu (Ga 13,25), xúc động trước tình yêu vô biên của trái tim Người là một điều thiện hảo.”

          - “Vào thời đại chúng ta, Kitô giáo phải trổi vượt nhất là trong nghệ thuật cầu nguyện. Làm sao ta không cảm thấy lại có nhu cầu mới được ở lại lâu giờ, trò truyện thiêng liêng, tôn thờ im lặng, trong thái độ yêu thương, trước mặt Chúa Kitô hiện diện trong nhiệm tích thánh ?”

          - “Anh chị em thân mến, nhiều lần tôi (Gioan Phaolô II) đã có kinh nghiệm này và tôi đã múc lấy từ đó sức mạnh, an ủi và sự nâng đỡ. Nhiều vị thánh đã làm gương cho chúng ta trong thực hành này. . .”

          - “Trong ngày, người tín hữu không nên bỏ việc viếng Thánh Thể . . . Những lần viếng Thánh Thể như vậy là dấu hiệu tỏ lòng biết ơn, là cách diễn tả tình yêu và nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô tại đó.” (TĐ BTTT số 25)                                                     

Lm Giuse Hoàng Kim Đại  

Tác giả: Lm. Giuse Hoàng Kim Đại

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!