CHÚA NHẬT V C MÙA CHAY
Is 43:16-21; Pl 3:8-14; Ga
8:1-11
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, M.D.
Image: The Adulterous Woman
by Lorenzo Lotto
Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối
và tha thứ. Câu chuyện người đàn bà phạm tội ngoại tình được thánh Gioan kể lại
(Ga 8:1-11) là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về bản thân cá nhân mình cũng như
cộng đồng chúng ta trong mùa chay thánh này.
BỐ CỤC CÂU CHUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ
PHẠM TỘI
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình
được trình bày dưới hai khung cảnh khá linh động. Một là cuộc tranh luận giữa
Chúa Giêsu với những nhà thông luật và người Pharisiêu về người đàn bà phạm tội
ngoại tình mà theo luật Maisen sách Leviticus (20:10) thì phải bị ném đá. Hai là
cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ phạm tội .
Trong cuộc sống ở trần thế của
Chúa Giêsu, ít thấy có biến cố nào được diễn tả một cách trong sáng và linh động
như câu chuyện này: Lòng khoan dung của Chúa đối với người phụ nữ phạm tội đã
được đề cao vượt trên cả công lý và luật pháp.
XUẤT XỨ CỦA CÂU CHUYỆN
Chúng ta thử xét 2 khía cạnh. Câu
chuyện thánh Gioan kể không thấy có trong những bản cổ viết tay tiếng Hy Lạp, và
trong các bản thảo phúc âm của thánh Gioan. Nhưng về ngôn từ và cách hành văn
thì lại có vẻ gần với Luca hơn là Gioan.
Ngôn từ và câu văn duy nhất không
thấy thánh Gioan dùng là “Núi Cây Dầu (Olives)” (8:1), “các kinh sư /
nhà thông luật” (8:3) và “Ta kết án” (8:11); nhưng lại thường thấy
trong phúc âm nhất lãm của ba thánh Mathêu, Mac-co và Luca. Ngôn từ và câu văn
như “tất cả mọi người” (8:2) và “các nhà kinh sư và pharisiêu”
(8:3) thì Luca thường hay dùng hơn. Tuy nhiên, dù có những từ của Luca được dùng
trong câu chuyện, nhưng cách hành văn lại không phải của Luca, chứng tỏ bản văn
không phải của Luca.
Mặt khác, một số từ trong câu
chuyện lại không thấy trong bất cứ phúc âm nào khác, chẳng hạn như: “bắt quả
tang…” (8:4), “không có tội” (8:7), “chỉ còn lại một mình Người” (8:9).
Vậy thì chắc chắn những ngôn từ này chỉ thấy ở câu chuyện trong Tân Ước mà thôi.
Tại sao?
Trong Giáo Hội sơ khai, tội ngoại
tình là tội rất nặng, do đó thái độ khoan dung của Chúa Giêsu đối với người phụ
nữ phạm tội đã khiến nhiều người thắc mắc. Phải chăng vì vậy mà câu chuyện này
không được ghi trong bản thảo viết tay của Tin Mừng Gioan? Nó chỉ được lưu
truyền bằng miệng và các nhà viết luật cũng không muốn nó bị mai một đi vào quên
lãng.
CHÚA VIẾT GÌ TRÊN ĐẤT?
Một đặc biệt khác là trong toàn bộ
phúc âm, ta chỉ thấy có một lần duy nhất Chúa Giêsu cúi xuống lấy tay viết trên
đất….Người viết cái gì thì không thấy các thánh sử nói. Đó là điều chúng ta cần
phải suy nghĩ. Chúa không chỉ viết một lần mà những hai lần. Đọc đến đây chúng
ta thấy hình ảnh Chúa cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất thật là đắc địa, thâm
trầm, sâu sắc và ý nghĩa vô cùng. Đây là thông điệp của chúa Giesu. Thông điệp
này chính là mẫu mực để chúng ta đương đầu với tội lỗi, với kẻ thù, với phạm
nhân và với chính bản tính tội lỗi của mình, là phương pháp “thực thi hòa giải”
tuyệt diệu và rất thực tế, một hiệu lệnh mà Chúa đưa ra cho mỗi người chúng ta
phải làm trước khi vào tòa xưng tội và bước chân vào chương trình mục vụ của
mình.
Hòa giải, đối thoại chỉ có ý nghĩa
và đạt kết quả khi chúng ta sẵn sàng lắng nghe, cảm nhận nhau, khoan dung tha
thứ cho nhau và chấp nhận nhau.
CHÚA
GIESU CÓ QUÁ DỄ DÀNG VỚI TỘI LỖI KHÔNG?
Phê phán câu chuyện có hai khuynh
hướng. Một khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu quá nhân hậu và dễ dãi với kẻ phạm
tội. Khuynh hướng khác coi cách Chúa sử sự như vậy là chấp nhận tội lỗi, không
cần phải có hành động cải tà qui chính và ân sủng thứ tha của Chúa. Cả hai
khuynh hướng này đều sai. Bởi lẽ không chấp nhận bản tính và khuynh hướng tội
lỗi của con người, không mở rộng lòng đón nhận ân sủng thứ tha của Chúa tức là
chối bỏ thông điệp và lời yêu cầu của Đức Giêsu Kitô: Ăn Năn Thống Hối và Cải
Đổi.
Đọc thật cẩn thận câu chuyện (Ga
8:1-11), ta sẽ thấy Chúa Giêsu cũng chẳng có gì là nhẹ nhàng đối với tội lỗi cả.
Ngài cảm thông và tha thứ cho kẻ phạm tội thì đúng hơn. Hành động này coi như
một thách thức, yêu cầu và răn dạy người phụ nữ từ rày về sau “đừng phạm tội
nữa”. Hình ảnh Chúa Giêsu hiện diện trước mặt người phụ nữ phạm tội là một
dấu chỉ Chúa thường xuyên kêu gọi và khuyên bảo các môn đệ cũng như toàn thể
Giáo Hội qua mọi thời đại đừng có bao giờ làm điều gì xúc phạm đến Chúa và những
người xung quanh mình.
Là mục tử, là người công giáo
trưởng thành chúng ta cần phải xác định khuynh hướng nào là chính và quan trọng.
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để chuyển đạt cái truyền thống ấy của Giáo Hội
là một đại cộng đồng tín ngưỡng mà lòng khoan dung tha thứ vô bờ bến ấy là
một đặc thù tuyệt vời.
LÒNG KHOAN DUNG BAO LA CỦA CHÚA
Theo dõi tiến triển của Tuần Thánh
và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy càng ngày Chúa càng bị lôi cuốn
vào cuộc tranh cãi với chính quyền địa phương và mỗi lúc càng trở nên găy gắt,
trở thành mối đe dọa cho họ. Cuối cùng, cái rắc rối ấy đã dẫn đưa Chúa đến Núi
Sọ và Thập Tự. Bài phúc âm này cho chúng ta thấy lòng khoan dung đặc biệt của
Chúa trải dài trong một khung cảnh thê lương ảm đạm đặc biệt. Tội lỗi thì ghê
tởm, nhưng kẻ phạm tội lại luôn luôn được thương sót.
Các nhà thông luật và Pharisiêu
đem người đàn bà bị bắt vì tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu để bắt bí
Ngài, buộc Ngài phải phán xét và xử tội theo luật Maisen. Chúa bèn trả lời những
kẻ cáo buộc người phụ nữ:
- Ai thấy mình không có tội thì
cứ việc ném đá người này trước đi.
Câu hỏi này đã buộc họ phải tự suy
nghĩ về chính bản thân mình để thấy rằng mình cũng chẳng tốt đẹp hơn ai. Thế là
họ từ từ từng người một, cả già lẫn trẻ lặng lẽ rút lui không ai dám ném đá
người đàn bà. Nhìn quang cảnh này chúng ta thấy chính chúa Giêsu cũng đã biểu lộ
cái bản tính người của ngài qua cung cách đối sử với người phụ nữ vô phúc đó. Dĩ
nhiên cái tội mà bà phạm chắc chắn không thể chấp nhận được nên Chúa đã nói với
bà: “Bà cũng đi đi và từ rày về sau đừng phạm tội nữa” (c.11).
Xem vậy, Chúa đã không thẳng tay
đè bẹp bà ta vì cái tội tày trời đó mà không luận xét. Hai tiếng “đi đi” không
có nghĩa là Chúa xua đuổi người phụ nữ như là kẻ đáng ghét, nhưng hàm ý tội bà
phạm nặng lắm đấy, bà phải ăn năn thống hối và đừng tái phạm nữa. Đọc câu chuyện
Phúc Âm này, ta phải hiểu rằng tất cả chúng ta đều là con người bất toàn và tội
lỗi, cần phải cải đổi để xứng đáng được lãnh nhận ơn bao dung tha thứ của Thiên
Chúa nhân lành.
ĐI ĐI…VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA !
Nhận ra được tội của mình và lòng
Chúa khoan dung tha thứ vô bờ bến thì phải ăn năn thống hối và cải đổi. Rao
giảng Tin Mừng mà không coi trọng sự ăn năn sửa đổi của từng người cũng như ơn
khoan dung vô bờ bến của Chúa là phủ nhận thông điệp Chúa đã truyền dạy qua bài
phúc âm này:“Hãy Ăn năn thống hối và cải tà qui chánh”.
Thánh Augustine đã bình luận đoạn
Phúc Âm này (Io.Ev.tract 33,5) một cách tuyệt vời: “Khi trả lời những kẻ tính
bắt bí và buộc tội Ngài, chúa Giêsu đã không tỏ vẻ coi thường luật lệ Maisen,
cũng không quá mềm yếu…”. Với những lời lẽ đó -thánh Augustine nói
thêm- chúa Giêsu đã buộc những kẻ tố cáo người phụ nữ phải tự kiểm thảo, tự
vấn lương tâm mình xem mình có thực sự là kẻ không bao giờ phạm tội không? “Như
một mũi nhọn đâm thấu tim đen, như một tia sáng chiếu xuyên suốt qua bóng tối
dày đặc, thế là họ từng người một từ từ rút lui….”Họ động lòng!
Khi tất cả mọi người đã bỏ đi thì
chỉ còn lại một mình chúa Giêsu và người phụ nữ. Đây là một quang cảnh thật sắc
bén, ngột ngạt và nhức nhối đã được thánh Augustine miêu tả một cách tuyệt vời:
“relicti sunt duo, misera et misericordia” (chỉ còn lại hai người, một người
thì bê bết tả tơi, một người thì nhân từ khoan dung đầy lòng tha thứ). Đọc
những lời bình này, ai mà không cảm động thở phào nhẹ nhõm…
Người cúi đầu xuống lấy tay viết
trên đất, đoạn ngửng mặt lên, bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ. Chúa đã không
hỏi tại sao. Cũng chẳng có ý châm biếm khi Chúa hỏi người đàn bà: “Họ đâu cả
rồi? Không ai kến án bà hả?”(c.10). Chúa Giêsu đã nói với bà ta: “Ta cũng
không kết án ngươi; thôi đi đi và đừng phạm tội nữa” (c.11). Thánh
Augustine nhận định: “Chúa cũng đã kết án, nhưng là kết án tội lỗi chứ
không kết án con người”. Nếu Chúa dung dưỡng, chấp nhận tội lỗi thì Chúa sẽ
nói: ‘Ta sẽ không kết tội ngươi, hãy đi đi và hãy sống như ngươi muốn; và cứ
yên chí, ta đã giải thoát ngươi. Cho dù ngươi phạm tội tày trời đi nữa, ta cũng
sẽ giải phóng ngươi khỏi mọi hình phạt’. Nhưng tìm cùng khắp trong Phúc âm
không thấy Chúa nói như vậy bao giờ.’”(Io Ev.tract.33, 6).
Kẻ thù thực sự và nguy hiểm nhất
của chúng ta là ngoan cố, không chịu ăn năn thống hối và sửa đổi. Nó sẽ đưa ta
đến thất bại. Chúa Giêsu đã biểu người phụ nữ phạm tội đi đi với lời khuyên: “…Đừng
phạm tội nữa” có nghĩa là Chúa tha thứ cho bà để “từ rày về sau” bà
sẽ “không phạm tội nữa”.
Chỉ có tha thứ và yêu thương của
Thiên Chúa, một khi được ta chân thành đón nhận với tâm hồn cởi mở và thực sự
hối cải mới có thể giúp ta có được sức mạnh hầu chống trả lại những cơn cám dỗ
của xác thịt và ác quỉ để “không phạm tội nữa”. Thái độ của Chúa Giêsu đã
trở nên mẫu mực để cho mỗi người chúng ta, tất cả cộng đồng noi theo, những cộng
đồng được Chúa kêu gọi lấy tình yêu thương và lòng khoan dung tha thứ làm châm
ngôn cho cuộc sống hàng ngày.
ĐÔI LỜI KẾT
Đến đây chúng ta phải tự hỏi chúng
ta là ai và đang đứng ở đâu trên bước đường đời dương thế này? Thế giới và ngay
cả Giáo Hội hiện nay cũng có không biết bao nhiêu là tội lỗi và thống khổ. Cả
hai đều đang rất cần đến lòng thương sót thứ tha của Chúa. Cộng đồng cần sự
thương sót, con người cần được thương yêu và cảm thông tha thứ. Nhưng sự thương
sót này không phải như “nước đổ lá khoai”, cứ đọc Phúc âm, đọc thông điệp của
Chúa là đủ, mà phải tự phấn đấu. Tình thương yêu của Chúa không đơn giản nhưng
đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu với ma quỉ, với chính xác thịt chúng ta hàng
ngày và liên tục hầu không bao giờ làm lỗi nữa.
Tôi xin chia sẻ với quí vị câu
chuyện có thực do nữ tu Helen Prejean[1] viết
trong sách nhan đề “Dead Man Walking” (Những bước đi cuối cùng của người
tử tù) do chính nữ tu là tác giả. Sách thuộc loại bán chạy
nhất khi vừa mới xuất bản năm 1993. Và cũng được diễn chuyển thành phim. Chuyện
rất thích hợp với bài phúc âm này và ý nghĩa của cuộc hành trình mùa chay thánh.
Nó có thể là đèn soi sáng giúp cho ta phấn đấu để được ơn tha thứ và sự hòa giải
giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa, làm trung tâm điểm của cuộc sống Kitô
giáo của mỗi người chúng ta.
Chị (Sister) Helen Prejean viết:
- Ông Lloy LeBlanc đã nói với tôi
là chỉ cần người ta bỏ tù Patrick Sonnier, người đã giết đứa con trai của ông ta
là ông đã thỏa mãn rồi. Nhưng khi ông đi dự kiến cuộc hành hình Patrick Sonnier
-ông kể lại- không phải là để trả thù, nhưng ông hy vọng anh ta có được một lời
xin lỗi.
Patrick Sonnier đã không làm ông
LeBlanc thất vọng. Trước khi bị hành quyết trên ghế điện, anh ta đã nói:
- Thưa ông LeBlanc, tôi xin ông
tha thứ cho tôi và Eddie tất cả những gì chúng tôi đã làm cho ông phải đau khổ.
Và ông Lloy LeBlanc đã gật đầu, làm dấu cho Sonnier biết ông đã chấp nhận sự xin
lỗi của Sonnier.
Ông ta kể rằng khi ông đi cùng với
cảnh sát đến cánh đồng mía để nhận diện xác con, ông đã quì gối xuống bên cạnh
xác người con trai của ông đang nằm sóng sượt dưới đất với hai con mắt lòi ra
ngoài và ông đã đọc kinh Lạy Cha. Khi đọc đến chỗ “Xin tha tội cho chúng
con như chúng con cũng tha cho những kẻ có lỗi với chúng con”, ông không
ngập ngừng thắc mắc gì cả, và ông nói tiếp: “ Bất cứ ai làm như vậy cho con
thì con cũng đều tha thứ cho họ hết”.
Nhưng ông đã nhận thức ra được
rằng đó là một cuộc phấn đấu cực kỳ khó khăn để vượt thoát khỏi mọi đắng cay,
đau khổ, phiền muộn và thù hận đang dâng cao, nhất là hàng năm mỗi khi nhớ đến
ngày sinh nhật của con ông, ông có cảm tưởng như ông lại mất một đứa con trai
nữa. Ông tưởng tượng David lên 20 tuổi, rồi 25 tuổi, rồi nó lấy vợ, có con, nó
đứng ở cửa sau nhà với đàn con quấn quít chung quanh, rồi David lớn lên thành
người lớn như ông, mà ông chẳng bao giờ được nhìn thấy…
“Khoan dung tha thứ quả là không
dễ dàng như ta tưởng. Mỗi ngày, từng ngày, từng giờ chúng ta cần phải cầu nguyện,
phải phấn đấu và phải quyết tâm để vượt thắng hầu có được lòng khoan dung, thứ
tha và hòa giải.” (Dead Man Walking pp.244-245 New York: Vintage Book, Random
House, 1993)
_____________
[1] Sister Helen Prejean,csj
là nữ tu thuộc dòng Thánh Joseph of Medaille ở Louisiana. Nhiều biến cố đặc
biệt trong đời và ngoài xã hội đã đưa người nữ tu khả kính này trở thành cố vấn
cho những người tử tù. Mục vụ chính của sister là chăm sóc, khuyên giải và cầu
nguyện cho những người tử tù. Người ta đã gọi sister Helen là Mẹ Theresa của
những người tử tù. Sister viết nhiều sách, trong đó cuốn NHỮNG BƯỚC ĐI CUỐI CÙNG
CỦA NGƯỜI TỬ TÙ (DEAD MAN WALKING) xuất bản năm 1993 rất nổi danh và là sách bán
chạy nhất, best seller, khi vừa mới xuất hiện. Sách không phải là tiểu thuyết
giả tưởng, mà là câu chuyện thực nói về người tử tù tên Patrick Sonnier mà chính
sister Helen đã theo dõi, săn sóc, khuyên giải và cầu nguyện giúp đỡ cho đến
phút cuối cùng lúc hắn bước lên ghế điện. Năm 1995 câu chuyện Dead Man Walking
đã được làm thành film đưa lên màn ảnh nổi bật nhất trong năm, miêu tả cuộc đời
mục vụ của Sister Helen Prejean với những người tử tù. Nữ tài tử Susan Sarandon
đóng vai Sister Helen Prejean và nam tài tử Sean Penn thủ vai người tử tù
Patrick Sonnier đã được giải Oscar Academy Award là những diễn viên xuất sắc đặc
biệt ; Tim Robbins cũng được giải Oscar là nhà đạo diễn nổi danh và xuất sắc.
Bài hát Dead man walking được trình diễn bởi chính tác giả là Bruce Springsteen
cũng được xếp loại bài hát hay tuyệt. Nữ tài tử Sarandon, sau film Dead Man
Walking đã đề nghị với Robbins làm thành film nhiều chuyện khác nói về nhà dòng
của sister Prejean nhưng vì một số trở ngại ngoài ý muốn đã không hoàn thành
được. Chúng ta cũng thấy Sister Helen Prejean thường xuất hiện trên vô tuyến
truyền hình, cầm nến đứng bên ngoài nhà tù tử tội ở Baton Rouge đọc kinh và phản
đối án tử hình.
Một nữ tu đã an ủi người tử tù làm
rất nhiều khán thính giả cảm động không ít đến rơi lệ vì câu nói : “Tôi không
thể chịu nổi nếu ông chết đi mà không được nhìn một khuôn mặt thật dễ mến. Tôi
sẽ đóng vai bộ mặt đó của Chúa Kito cho ông- I can’t bear the though that you
would die without seeing one loving face. I will be the face of Christ for
you” .
Nữ tu đó là Sister Helen Prejean.
Tử tù đó là Sonnier, một trong 4 tên sát nhân mà Sister Helen Prejean đã theo
sát đến phút cuối cùng nơi ghế điện tại phòng hành quyết ở nhà tù Louisiana để
giúp đỡ, an ủi và cầu nguyện.
Fleming Island, Florida
March 8, 2019