CHÚA NHẬT
II SAU PHỤC SINH
Cv 5:12-16; Kh 1:9-11a, 12-13,17-19; Ga 20:19-31
Bác sĩ Nguyễn tiến Cảnh. MD
The Incredulity of Saint Thomas, Tranh vẽ của họa sĩ
Caravaggio
Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm
nay (Cv 5:12-16) diễn tả mức sinh hoạt khá sống động của Cộng Đồng Kito Giáo Sơ
Khai ở Jerusalem. Giáo Hội đã phát triển nhanh chóng và lạ lùng (2:41,47, 4:4;
6:1; 9:31). Một số lớn người, nam có nữ có đã chịu phép Thanh Tẩy và trở thành
môn đệ Chúa (5:14). Những dấu chỉ lạ lùng và ngạc nhiên trước mắt là quà tặng do
Chúa Thánh Thần ban qua những “phép lạ và việc lành” (1Cr 12:9, 28) do các tông
đồ làm. Hình bóng Phero đầy quyền năng được thể hiện qua những hình ảnh được mô
tả trong Công Vụ Tông Đồ (5: 15-16):
“Người ta còn khiêng cả những
kẻ đau ốm ra ngoài đường phố, đặt trên chõng trên cáng trên giường để khi ông
Phero đi qua, ít ra là cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó. Nhiều
người từ các thành xung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ
ốm đau bệnh tật, cả những người bị thần ô uế ám ảnh. Tất cả đều được chữa lành.”
BÓNG HÌNH CỦA PHERO
Đọc đoạn Tin Mừng trên ai mà không
cảm động và ngỡ ngàng. Chỉ cần cái bóng của Phero phủ lên người bệnh thì bệnh
cũng hết, nỗi đau buồn phiền cũng tan đi. Nên hiểu tiếng “bóng hình” của Phero
là quyền lực của Thiên Chúa hành động qua ông.
Những phép lạ chữa lành này đã thu
hút người ta về với Giáo Hội sơ khai, xác nhận những giảng huấn của các tông đồ
là có thật và quả quyết quyền năng Thiên Chúa ở với các ông. Những tên lãnh đạo
tôn giáo trước kia đã từng ghen tương với quyền năng của Chúa Giesu, giờ này
lại nhìn các tông đồ như là mối đe dọa mới tiếp nối Chúa Giesu, đòi hỏi mọi
người phải kính trọng. Các tông đồ không yêu cầu người ta kính trọng các ông;
các ngài chỉ có mục đích đem niềm tin và sự kính trọng đối với Thiên Chúa. Các
ngài được người ta kính trong không phải các ngài đòi hỏi. Các ngài xứng đáng
được như vậy.
BIỂN ĐỨC XVI Ở GIỮA CHÚNG TA
Qua bài Tin mừng này, chúng tôi
liên tưởng đến Biển Đức XVI trong cuộc du hành mục vụ ở Hoa Kỳ năm 2008 lúc ngài
di chuyển giữa hàng trăm ngàn người ái mộ. Người mục tử thật, theo Chúa Giesu
thì phải bắt chước Chúa Giesu và yêu thương đàn chiên đang tin tưởng nơi mình.
Biển Đức XVI đã làm đúng như vậy.
Từ nhiều năm nay, thế giới đã
chứng kiến những diễn biến và đau khổ của nhiều người trẻ vì nạn lạm dụng tình
dục, đã xẩy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới. Lạm dụng tình dục là quỉ quái, là
một tội ác có tính hủy hoại. Một số nhỏ các linh mục và tu sĩ đã hứa bảo vệ, che
chở và yêu thương con trẻ, đã làm ô danh Giáo Hội và xã hội. Một số người trách
Biển Đức XVI là chẳng hành động gì cả, đã che dấu tội lỗi và những bất hạnh của
những trẻ vị thành niên bị lạm dụng tình dục. Trách cứ đó quả là bất công và tai
hại vô cùng cho Giáo Hội, cho nạn nhân và cả xã hội nói chung.
Nghĩ đến cuộc viếng thăm mục vụ
Hoa Kỳ của Biển Đức XVI với tất cả cảm mến và biết ơn. Trong cuộc viếng thăm đó,
cái bóng của Phero đã đến Hoa Kỳ cũng như ở bất cứ nơi nào mà một giáo hoàng đặt
chân đến để thăm Dân Chúa. Cái bóng đó là sự “đụng chạm” của Thiên Chúa.
Nó bao phủ tất cả chúng ta với lòng thương xót, chữa lành và an bình. Khi Biển
Đức XVI bước đi giữa chúng ta, ngài đã làm nhiều hơn là chỉ nói xuông. Ngài đã
gắn bó với chúng ta. Ngài đã làm cho biết bao nhiêu người cảm động phải rơi lệ.
Ngài tỏ ra can đảm, khôn ngoan và đầy lòng trắc ẩn sâu xa. Báo chí đã không bỏ
qua những cuộc thăm viếng riêng tư và linh động của ngài tại tòa đại sứ Vatican
ở Hoa Thịnh Đốn với những nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục. Ngài đã không
sợ và sẽ chẳng bao giờ sợ phải đi vào những nơi đau khổ, ngờ vực, buồn phiền và
tai họa của khủng khoảng lạm dụng. Ngài muốn mọi người biết rằng ngài đã lắng
nghe và thấu hiểu và, Giáo Hoàng sẽ tiếp tục hành động để những thảm họa đó
không bao giờ xẩy ra nữa.
Ở ĐÂU CÓ PHERO Ở ĐÓ CÓ GIÁO HỘI
/ UBI PETRUS IBI ECCLESIA
Đây là một thành ngữ Latinh, được
thánh Ambrose sử dụng trước tiên ở thế kỷ IV đã trở lại trong trí tôi khi Giáo
Hoàng Biển Đức XVI đến thăm Hoa Kỳ hồi tháng 4 năm 2008: “Ubi Petrus ibi
Ecclesia nghĩa là Ở đâu có Phero ở đó có Giáo Hội”. Phero đã ở Hoa Kỳ, nụ
cười dịu hiền và sự trầm lặng của ngài đã hâm nóng trở lại cả một quốc gia, một
Giáo Hội và một lục địa với hy vọng giữa những chỉ trích, hoài nghi, chán nản,
thất vọng và nhiều người muốn chết cho một Giáo Hội được sống và trẻ trung. Chỉ
có thời gian, chiêm nghiệm và cầu nguyện mới biết được phép lạ chữa lành đã được
gieo năm 2008 sẽ tiếp tục sinh hoa trái cho Giáo Hội Hoa Kỳ hay không!
Một điều chắc chắn là Giáo Hoàng
Biển Đức XVI, cái bóng của Phero đã đổ trên cả triệu người dân Hoa Kỳ vào năm
2008 và còn tiếp tục đổ trên hàng triệu triệu người khác trên khắp thế giới cho
đến ngày nay, nhất là những ai bị tổn thương và đau khổ do những hành động ác
quái lạm dụng tình dục trẻ thơ. Đừng bao giờ quên rằng Giáo Hoàng Biển Đức, một
Phero vẫn còn luôn luôn ở với chúng ta.
NIỀM TIN CỦA TOMA: PHÚC THAY AI
KHÔNG THẤY MÀ TIN
Câu chuyện Chúa Phục Sinh do Gioan
kể (Chương 20-21) có những biến cố xẩy ra giữa Chúa Giesu và những người theo
Chúa cho thấy có nhiều phản ứng khác nhau về niềm tin. Phải chăng những câu
chuyện này đã xẩy ra với Simon Phero và người môn đệ Chúa yêu, Mary Magdalene,
các môn đê khác hay Toma. Toàn thể quang cảnh đó cho thấy trong số những người
tin lại có những mức độ tin khác nhau, những yếu tố khác nhau giúp họ tin và trở
thành chứng nhân niềm tin và đi rao truyền tin mừng. Câu chuyện giữa chúa Giesu
và Toma (Ga 20:19-31) ghi lại việc Chúa hiện ra lần thứ hai sau khi Chúa sống
lại là một kinh nghiệm điển hình về hồ nghi, phấn đấu và tin.
Ở đây, thách đố cho mỗi Kito hữu
là ở chỗ: Không Thấy Mà Tin. Trong đoạn Tin Mừng này chúng ta thấy một
câu chuyện lồng trong một câu chuyện: giải quyết sự hồ nghi của Toma trong lúc
Chúa hiện ra để khuyến khích các môn đệ đừng có sợ. Toma chỉ tin khi nhìn thấy
Chúa, nghe chính Chúa kêu gọi. Toma không phải là người luôn luôn nghi ngờ hay
ngoan cố hoặc cứng đầu cứng cổ. Toma hồ nghi nhưng đã được Chúa cho phép làm một
điều mà tất cả chúng ta ai cũng muốn. Ông được sờ và đặt tay vào lỗ đanh ở tay
chân Chúa và đặt tay vào vết đâm nơi cạnh sườn Chúa, một cảm nghiệm thực của con
người. Đối với chúng ta, điều này hơi khó đấy. Chúng ta cần phải khởi đầu bằng
niềm tin trước, rồi mù quáng đụng chạm theo cách thức riêng trong thâm tâm chúng
ta.
Chúng ta biết rất ít về Toma, về
gia đình dòng họ và số mệnh của thánh nhân, nhưng chúng ta có một yếu tố quan
trọng về căn tính của ông. Tên ông là Toma, tiếng Hy Lap là Didymous,
theo triết tự có nghĩa là “sinh đôi/twin”. Vậy ai là anh em sinh đôi /
một nửa kia của Toma? Chúng ta có thể thấy người đó khi nhìn vào gương. Anh em
sinh đôi hay một nửa kia của Toma là bất cứ ai đang phải phấn đấu với đau khổ vì
hồ nghi và thất vọng. Sự hiện diện của Chúa Giesu sống lại đã khiến nó trở thành
khác biệt. Khi điều đó xẩy ra thì hồ nghi có đóng băng cũng tan thành nước.
Toma và người anh em sinh đôi trên
khắp địa cầu hy sinh tất cả mọi sự trong chúa Giesu và vì chúa Giesu để trở
thành nguồn ơn phúc cho tha nhân dù họ hồ nghi và tuyệt vọng hay vì họ tuyệt
vọng và hồ nghi.
CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Tại sao gọi Chúa Nhật II sau Phục
Sinh là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót? Chúa Nhật lòng Chúa thương xót không
phải là ngày lễ mừng thánh Faustina Kowalsaki mạc khải (1905-1938). Thực ra
chẳng có gì dính dáng đến thánh Faustina, đúng ra là nhắc lại truyền thống
phụng vụ phản ảnh giảng huấn của thánh Augustine về Tuần Bát Nhật sau lễ Phục
Sinh mà thánh Augustine gọi là “những ngày thương xót và tha thứ” ám chỉ Ngày
Bát Nhật như là “bản tóm tắt những ngày thương xót.”
Cũng không cần thiết phải có liên
hệ giữa Lòng Chúa Thương Xót và câu chuyện thánh Toma và chúa Kito sống lại.
Mừng Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót không có nghĩa là cạnh tranh hay làm mất đi
sự nguyên vẹn của Mùa Phục Sinh, cũng không lấy nó ra khỏi câu chuyện Toma và
chúa Giesu phục sinh trong bài Tin Mừng hôm nay. Chủ Nhật Lòng Chúa Thương Xót
là một ngày trong tuần bát nhật sau Phục Sinh, mừng Tình Yêu Chúa tràn đầy lòng
thương xót chiếu tỏa suốt tuần tam nhật Phục Sinh và màu nhiệm Chúa Phục Sinh.
Vào ngày 30-4-2000 thánh Faustina được phong thánh, đức giáo hoàng Gioan Phaolo
II đã nói trước hơn 200,000 người ở công trường thánh Phero: “Chúa Giesu đưa
những bàn tay và cạnh sườn của người (cho các môn đệ). Người chỉ vào đó và nói
‘đây là những vết thương Khổ Nạn, đặc biệt vết thương lòng là nguồn suối chảy ra
những ngọn sóng thương yêu vĩ đại đổ trên loài người.”
Những năm trước đây, với tôi, thật
khó có thể nhìn ra được sự liên hệ nội tại giữa Chúa Nhật II sau Phục Sinh là lễ
thánh Toma Tông Đồ và sự mạc khải của thánh Faustina, tôi đã phải tìm hiểu qua
bài thánh ca do thánh Bernard ghi lại (Canticle 61, 4-5:PL 183, 1072) : “Điều
mà tôi không thể tự có được thì tôi cưỡng đoạt nó với lòng tin tưởng nơi vết đâm
ở cạnh sườn Chúa, bởi vì người đầy lòng thương xót.” Câu chuyện Toma và Chúa
Kito Phục Sinh đã cho tôi một cái nhìn tổng quát của một tân viễn cảnh về ý
nghĩa lòng Chúa thương xót. Bấy giờ tôi đã hiểu ngày hôm nay là thế nào. Và bây
giờ hơn bao giờ hết, trong Giáo Hội và trên khắp thê giới, tất cả chúng ta đều
cần đến lòng Chúa Thương Xót.
Fleming Island, Florida
April 2019