CHÚA NHẬT IIIC SAU PHỤC SINH
Cv 5:27-32, 40b-41; Kh 5:11-14; Ga 21:1-19
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Tranh của họa sĩ James Tissot:
Christ appears on the shore of Lake Tiberias
Phần lớn những mục vụ của chúa
Giêsu đều được thực hiện dọc theo bờ biển Galilée phía Tây Bắc hay còn gọi là
biển Tiberia (Ga 6:1) và hồ Gennesaret (Lc 5:1). Câu chuyện Phúc Âm hôm nay (Ga
21:1-19) xẩy ra trong bối cảnh Biển Galilee. Gọi là biển nhưng thực tế nó là hồ
nước ngọt có hình giống như một cây thụ cầm dài cỡ 12-13 dậm và rộng chừng 7-8
dậm. Cá và nghề chài lưới giữ một vai trò quan trọng trong Tân Ước và Giáo Hội
sơ khai. Bắt cá đã trở thành một biểu tượng quan trọng của sứ vụ truyền giáo của
Giáo Hội từ lúc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ “thả lưới bắt cá người ta” (Mt
4:19; Lc 5:10; Mc 1:17).
BỮA ĐIỂM TÂM
Chương 21 của Tin Mừng thánh Gioan
là phần kết luận. Bữa điểm tâm này là một bản hòa tấu có hai hồi. Hồi nhất
(c.1-14) tả cảnh chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ “bên cạnh biển hồ Tiberia.”
Hồi 2 tả cuộc đàm thoại giữa Chúa Giesu và ông Phero (c.15-23).
Chúa Giesu hiện ra với Phero và
các môn đệ
Hồi một liên quan đến Cá và Bắt Cá.
Ông Phêrô quyết định đi thả lưới vì ông và cả các bạn ông quá buồn nản sau cái
chết của Chúa Giesu. Sự nghiệp theo Chúa của các ông coi như tiêu tan. Phero đơn
thuần chỉ muốn trở lại nghề đánh cá cũ của mình.
Đúng lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra
nhưng “không ai nhận ra Chúa”. Các môn đệ đi biển và “đêm đó họ chẳng bắt được
gì ”(c.3). Một hình ảnh trống rỗng và buồn nản. Họ đã thất bại. Điều này cho
thấy không có Chúa họ chẳng làm được gì cả (Ga 15:5). Câu chuyện xẩy ra vào buổi
sáng tinh sương lúc bình minh với ánh sáng Chúa chiếu rọi. Chúa Giesu đứng đó.
Chẳng ai biết Người đến như thế nào và bằng cách nào (c. 4; 20:14, 19, 26).
Bất thần Chúa hỏi các ông: “Các
bạn có gì để ăn không?”(c.5). Các ông trả lời là họ chẳng bắt được con cá nào cả.
Chúa bèn nói với họ “Hãy thả lưới bên mạn phải của thuyền thì sẽ bắt được cá”
(c.6). Lúc đó, các ông nghĩ rằng đó chỉ là một gợi ý khơi khơi của một kẻ bàng
quang đứng trên bờ. Chúa đã không nói hãy thử quẳng lưới chỗ này chỗ kia xem sao,
nhưng đưa ra một lời hứa chắc là sẽ bắt được cá nếu thả lưới bên mép phải của
thuyền. Quả nhiên các ông đã bắt được rất nhiều cá, những 153 con.
Khi lên bờ, các ông thấy đã có
than hổng, lửa cháy cùng bánh và cá sẵn sàng (c. 9). Không có dấu hiệu nào cho
thấy bánh và cá này lấy từ đâu và ai đã mang đến đây. Thức ăn này xuất hiện
chính là một huyền nhiệm của Chúa. Còn than hồng lửa cháy như gợi lại cảnh đêm
Chúa chịu nạn và Phêro Chối Chúa mà Luca đã thuật lại là lửa từ chối
và phản bội (Lc 22:55). Nhưng Gioan thì gọi lửa đó là lửa thống hối và
cam kết.
Bữa ăn, đối với Giáo Hội sơ khai
có ý nghĩa Mình Thánh Chúa, bởi vì câu 13 (Ga 21:13) và câu 11 (Ga 6:11) cho
thấy cử chỉ chúa Giêsu làm giống y hệt trong bữa tiệc ly. Nhiều người thắc mắc
về số cá bắt được đã hỏi tại sao lại là con số 153? Thánh Jerome nói là những
nhà sinh vật học Hy Lạp đã chia cá trong hồ thành 153 loại. Chúng ta có thể cho
con số đó một ý nghĩa biểu tượng là sứ mạng của các tông đồ trên khắp thế giới.
Một điều lạ lùng là lúc đó không
một ai dám hỏi Chúa Giêsu “Ông là ai?”(c.12) dù họ đã nhận ra Chúa.
Cuộc phục hồi của Phero và
nhiệm vụ mới của ông
Sau khi ăn điểm tâm là cuộc đối
thoại giữa chúa Giesu và Phero, trọng tâm của bản Tin Mừng hôm nay. Chúa bắt đầu
nói thẳng với Phêrô. Chúa đã gọi Phêro là Simon Phêrô (c. 2-3, 7b, 11) hay Phêrô
(c.7a) là tên mà Chúa đã đặt cho ông ta (Ga 1:42; Mc 3:16; Lc 6:14). Chúa Giêsu
gọi ông bằng tên cũ, Simon con ông Gioan (c.15) như thể ông không còn hoặc chưa
là môn đệ của Chúa.
Đây là hồi 2 của bản hòa tấu
(c.15-23) diễn tả cuộc trao đổi ý kiến khá nhức nhối giữa Chúa Giêsu và ông
Phêrô về một ủy nhiệm liên quan đến chiên, chủ chiên và việc chăn dắt đoàn chiên.
Phêro tự biết mình đã từng thất bại. Được gọi là “Đá” mà phải khóc vì hối hận đã
chối Chúa (Lc 22: 62). Nhưng sáng nay là cơ hội để ông ăn năn và cam kết lại với
Chúa.
Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô rồi đưa ra
một mệnh lệnh. Người hỏi ba lần. Đây là câu hỏi tối hậu, có tính quyết định cho
cả cuộc đời Phero. “Anh có Yêu Thầy hơn Những Cái Này không?” (c.15). “Những
Cái Này” là lưới và thuyền, là tất cả vật dụng của nghề bắt cá? Chúa Giêsu
cũng có thể ám chỉ những môn đệ khác. Theo các Phúc Âm Thư khác, Phêrô đã cương
bậy là “dù tất cả những người đó có vấp ngã nhưng ông sẽ không bao giờ….”(Mt
26:33; Mc 14:29; Lc 22:33; Ga 13:37). Gioan thì không ghi lại lời Phêro cương
bậy, nhưng cho thấy Phêrô nhảy xuống nước bơi và tự mình kéo lưới cũng nói lên
thái độ tương tự. Do đó câu hỏi của chúa Giêsu hẳn phải có ý nghĩa rất sâu xa.
Người đã đi vào tận căn nguyên của
mọi tội lỗi là kiêu ngạo và tự đắc. Bên cạnh đó, động từ YÊU cũng có những ý
nghĩa đặc biệt. Theo ngôn ngữ Hy Lạp , Yêu có 3 loại: Yêu thực
tình và vô vị lợi (Agape/Agapao) như tình yêu của Chúa; Yêu vì
cảm tình, thân thích (Phileo/philia) như tình yêu gia đình, anh em bạn bè và
Yêu có tính xác thịt (Eros) như tình yêu của đôi nhân tình.
Kiểu Yêu khuôn mẫu mà Chúa Giêsu hỏi Phêro hai lần là loại yêu vô vị lợi Agapao,
nhưng mỗi lần Phêro trả lời “Có” thì lại là loại yêu tình cảm phileo. Lần thứ ba
Chúa chuyển qua cách dùng chính lời của ông Phêro. Phêro đã ba lần chối Chúa thì
nay lỗi lầm được hủy bỏ vì cũng ba lần ông quả quyết với Chúa là ông yêu Chúa
thực sự.
Với câu hỏi cuối cùng, Phêro cảm
thấy quá nhức nhối vì Chúa hỏi ông tới ba lần, Phêro buồn bã trả lời: “Thưa Thầy,
Thầy biết hết mọi sự, hẳn Thầy biết con yêu mến Thầy” (c.17). Sau mỗi lần tuyên
xưng Tình Yêu, Chúa đều truyền cho Phêro một mệnh lệnh tương đương nhưng với
những từ khác nhau. Thoạt đầu Người dùng từ “Hãy chăm sóc (boske) chiên
con (arnia) của Thầy, kế đến “Hãy chăn dắt ( poimaine) chiên (probate)
của Thầy. Lần thứ ba bao hàm cả hai mệnh lệnh trên (boske/probate) (c. 17). Như
vậy là Chúa đã gom cả ba mệnh lệnh làm một và trao cho Phero chịu trách nhiệm.
TƯ
CÁCH VÀ ĐIỀU KIỆN MỤC VỤ CỦA PHÊRÔ
Ba mệnh lệnh đó phải chăng là lệnh
đứng đầu đoàn chiên. Tại sao Chúa lại không hỏi Phero về những đức tính cần
thiết để lãnh nhận trách nhiệm to lớn đó? Chẳng hạn: “Simon, con ông Gioan,
ngươi có hiểu biết tường tận trách nhiệm lớn lao mà ngươi sẽ phải gánh chịu
không?” “Ngươi có biết ngươi là một kẻ yếu đuối, dễ sa ngã và đã phạm nhiều lỗi
lầm ở quá khứ không?” “Simon, con ông Gioan, ngươi có hiểu vấn đề này là quan
trọng không?” “Ngươi có biết có bao nhiêu người đang cần sự giúp đỡ và che chở
của ngươi không?” “Ngươi có đáp ứng được tất cả những đòi hỏi mà ta kỳ vọng nơi
ngươi không?”
Ở thời đại văn minh kỹ thuật ngày
nay, tài trí và hiệu năng phải là ưu tiên hàng đầu trong những khả năng chuyên
môn về mục vụ. Phải đa năng đa hiệu. Nó cũng phụ thuộc tuổi tác, sự lanh lợi,
học thức uyên bác, tinh thần vững chắc, tâm lý cân bằng, kinh nghiệm chỉ huy,
khả năng điều hành tài chánh, giao thiệp giỏi, hùng biện v.v. Những câu hỏi như
vậy có thể quan trọng tùy theo mức độ đòi hỏi, hiệu quả của công tác mục vụ.
Nhưng Chúa Giêsu tóm gọn tất cả lại thành một câu hỏi căn bản duy nhất, được lặp
lại hai lần bằng danh từ Yêu trong ngôn ngữ Hy Lạp với những ý nghĩa khác nhau
về tình yêu và tình bạn được ám chỉ ông Phêro:“Simon, con ông Gioan, con có Yêu
Thầy không? Con có thực sự là Bạn của Thầy không?” Câu hỏi này đã đánh trúng tim
đen ông Phêro.
Khả năng mục vụ chính của Phêro
cũng như của bất cứ ai dưới danh nghĩa Chúa Giêsu Kitô phải là Yêu Chúa được
biểu hiện qua đức khiêm nhường, đáng tin cậy và vâng lời. Phêro đã tận
hiến cho Chúa, nhưng ông vẫn còn đầy vị kỷ và hay xông xáo nhảy ra trước mọi
người. Thái độ kiêu hãnh ấy có thể gây tai họa nguy hiểm cho cộng đồng như đã
từng thấy trong lịch sử Israel, những người chống đối đã đóng đanh chúa Giêsu
cũng như trong lịch sử giáo hội ngày nay.
Chính Phêro đã học được bài học đó,
như ông đã tâm sự trong thư thứ nhất của ông gửi cho các bô lão trong cộng đồng.
Ông đã gọi những bô lão là “bạn” và khuyên họ hãy trở thành những chủ chăn của
đoàn chiên Chúa, hãy lo lắng cho họ, săn sóc họ với tinh thần tự nguyện, không
vì ham danh lợi thấp hèn mà vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống
trị những người mà Thiên Chúa đã trao phó cho mình. Đừng kiêu hãnh, tự cao tự
đại, nhưng hãy làm gương sáng cho đoàn chiên…” (1Pr 5:1-4). Đây là loại quyền
bính phải được các chủ chiên thi hành một cách khiêm tốn và có lương tâm. Đó là
khẩu hiệu của chủ chăn, của mục tử đích thực.
ĐÔI
LỜI KẾT: TRÁCH NHIỆM TỐI HẬU ĐỐI VỚI ĐOÀN CHIÊN
Khi Phêro để cho Chúa nhìn thấu
suốt lòng mình qua câu nói: “Thưa Thầy, Thầy biết hết mọi sự hẳn Thầy biết con
yêu mến Thầy” (Ga 21: 17) là lúc tình yêu của ông đã chín mùi. Ông đã thực sự
khiêm nhường. Chỉ khi Phêro tự để cho Chúa tha thứ ông thì ông mới nhận trách
nhiệm mới đối với đoàn chiên. Phêrô, vì sống gần gũi Chúa nên ông thấu hiểu tính
tình và lòng trắc ẩn của Chúa nên đã được Chúa ủy thác trách nhiệm mới. Phêrô
thực sự là một mẫu gương cho chúng ta, vì ông luôn luôn nhớ lại những thất bại
của mình cũng như khi ông lãnh trách nhiệm đứng đầu Giáo Hội. Việc hồi tưởng đó
thay vì làm cho ông mất khả năng thì lại giúp ông trở thành nhà lãnh đạo có hiếu
và thương người thực sự.
Đối với chúng ta, ai mà không có
lỗi lầm. Làm sao chúng ta có thể đương đầu với chính những thất bại của chúng ta
khi chúng ta đưa tay giúp đỡ người khác? Thiên Chúa sẽ kêu gọi chúng ta phải dấn
thân thế nào, ở đâu trong lúc này, thời đại quá khó khăn, nhiễu nhương và đầy
gian trá? Thiên Chúa sẽ kêu gọi chúng ta phải thân mật với ai? Khi chúng ta
tuyên xưng niềm tin vào chúa Giêsu, chúng ta phải hiểu trách nhiệm của chúng ta
thế nào? Phêro đã học bài học của ông rất kỹ. Ông đã bắt chước Chúa Giêsu trong
suốt cuộc đời còn lại của ông đến độ đã hy sinh mạng sống, tử đạo, chết trên
thập giá lộn ngược đầu ở đồi Vatican. Chúng ta có được chuẩn bị đến cực điểm vì
niềm tin vào Chúa Giêsu không? Chúng ta có yêu Chúa Giêsu hơn “Những Cái Này”
là những cái thuộc thế trần, phồn vinh giả tạo DANH-QUYỀN-LỢI không ?
Chúa đã phục hồi danh dự cho Phêro.
Chúng ta có được Chúa phục hồi cho chúng ta không? Chúng ta có thực tâm trả lời
những câu hỏi như Phêro đã trả lời Chúa không?
Fleming Island, Florida
April 8, 2019