Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
Bài Viết Của
Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
GIÁO SĨ, TU SĨ VÀ GIÁO DÂN KHÁC VÀ GIỐNG NHAU THẾ NÀO?
TẠI SAO THIÊN CHÚA CHỈ PHÁN XÉT RIÊNG CON NGƯỜI VỀ NHỮNG VIỆC NGƯỜI TA LÀM TRONG CUỘC SỐNG NÀY?
PHẢI THỰC HÀNH ĐỨC ÁI CÁCH NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA ĐỂ MƯU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI KHÁC?
ĐÂU LÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ HIỂM NGUY CHO NIỀM TIN CÓ THIÊN CHÚA NGÀY NAY?
TÌNH THƯƠNG Và THA THỨ CỦA CHÚA CÓ TỰ ĐỘNG ĐẾN VỚI CON NGƯỜI MÀ KHÔNG CẦN AI MUỐN ĐÓN NHẬN HAY KHÔNG?
KINH THÁNH NÓI GÌ VỀ Ý MUỐN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI VÀ SỰ THƯỞNG PHẠT CỦA THIÊN CHÚA?
TRONG GIÁO HỌI CÔNG GIÁO, TRUYỀN THỐNG KẾ VỊ TÔNG ĐỒ LÀ GÌ?
TẠI SAO PHẢI XƯNG TỘI VỚI MỘT LINH MỤC?
LINH MỤC: ĐỨC KITÔ THỨ HAI (ALTER CHRISTUS), PHẢI LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?
BÍ TÍCH THÁNH TẨY và ƠN CỨU ĐỘ
NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI SỐNG ĐỨC TIN CÁCH NÀO ĐỂ MƯU ÍCH CHO PHẦN RỖI CỦA MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA NHỜ GƯƠNG SỐNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH?
TẠI SAO CÓ SỰ DỮ, SỰ ĐAU KHỔ TRONG TRẦN GIAN NÀY?
NGUY CƠ CỦA TIỀN BẠC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN và ƠN CƯU ĐỘ
CÔNG ĐỒNG ĐẠI KẾT HAY CÔNG ĐÔNG CHUNG LÀ GÌ TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO?
BÍ TÍCH THÁNH TẨY (RỬA TỘI) QUAN TRỌNG VÀ CẦN THIẾT RA SAO CHO HY VỌNG ĐƯỢC CỨU RỖI ĐỂ VÀO NƯỚC TRỜI MAI SAU?
TẠI SAO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TÔN KINH THÁNH GIÁ CÓ HÌNH CHÚA KITÔ BỊ ĐÓNG ĐANH (Crucifix) TRONG KHI CÁC PHÁI TIN LÀNH CHỈ TRƯNG THÁNH GIÁ KHÔNG CÓ HÌNH CHÚA BỊ ĐÓNG ĐINH?
CÔNG NGHIỆP CỨU CHUỘC CỦẢ CHÚA KITÔ ĐÃ ĐỦ CHO TA ĐƯỢC CỨU RỖI CHƯA?
GIÁO HỘI CÓ CHẤP NHẬN HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH KHÔNG?
MỌI BỔ NHIỆM CÁC VỊ LÃNH ĐẠO TRONG GIÁO HỘI CÓ THEO Ý CHÚA HAY THEO Ý CON NGƯỜI?
TAI SAO ĐỨC TIN PHẢI CÓ HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ TƯƠNG XỨNG ĐI KÈM THÌ MỚI CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI?
NÓI THÊM VỀ TỘI PHẠM ĐIỀU RĂN THỨ SÁU
ĐỨC TIN LÀ GÌ và PHẢI SỐNG ĐỨC TIN THẾ NÀO ĐỂ ĐÁNG ĐƯỢC CỨU RỖI?
CÁC THÁNH GIÁO PHỤ VÀ TIẾN SĨ HỘI THÁNH LÀ NHỮNG AI?
GIẢI ĐÁP THÊM THẮC MẮC
SỐNG ĐỨC TIN và CHU TOÀN MỌI GIỚI RĂN CỦA CHÚA QUAN TRỌNG RA SAO CHO PHẦN RỖI CỦA NGƯỜI TÍN HỮU CHÚNG TA?
TẠI SAO PHẢI TRÁNH GƯƠNG XẤU, DỊP TỘI?
XIN NÓI LẠI NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO, ANH GIÁO VÀ TIN LÀNH
TẠI SAO PHẢI CÓ VÀ THỰC THI ĐỨC KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO NỘI TÂM ĐỂ MỞ MANG NƯỚC CHÚA VÀ MỜI GỌI THÊM NHIỀU NGƯỜI NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SỐNG NHÂN CHỨNG CỦA MÌNH?
PHẢI SỐNG ĐỨC ÁI CÁCH NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA VÀ MƯU ÍCH THỰC SỰ CHO NGƯỜI KHÁC?
CÁC BÍ TÍCH THÀNH SỰ HAY HỮU HIỆU VÌ YẾU TỐ NÀO?
CÁC BÍ TÍCH của GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÓ NGUỒN GỐC KINH THÁNH KHÔNG?
LINH MỤC PHẢI SỐNG VÀ GIẢNG DẠY CÁCH NÀO CHO XỨNG ĐIA VỊ VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH?
PHẢI DÙNG TIỀN CỦA THẾ NÀO ĐỂ VỪA THỎA MÃN NHỮNG NHU CẦU CHÁNH ĐÁNG CỦA THÂN XÁC MÀ VẪN KHÔNG QUYÊN MỤC ĐÍCH ĐI TÌM SỰ GIẦU SANG PHÚ QUÍ CỦA NƯỚC TRỜI?
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI và SỐNG HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI VƠI CHÚA TRÊN NƯỚC TRƠI MAI SAU.
GIUĐA CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI HAY PHẢI PHẠT ĐỜI ĐỜI?
HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH LÀ GÌ? VÀ TÍN HỮU CÔNG GIÁO CÓ ĐƯỢC PHÉP THAM DỰ NGHI LỄ VÀ TIỆC CƯỚI CỦA CÁC CẶP HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH KHÔNG?
THIÊN ĐÀNG, LUYỆN NGỤC và HỎA NGỤC LÀ GÌ, ở đâu và dành cho ai?
ĐỨC MẸ CÓ TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH KHÔNG?
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI và SỐNG HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI VƠI CHÚA TRÊN NƯỚC TRƠI MAI SAU.
CÓ ĐƯỢC PHÉP ĐỐT PHÁO VÀ MÚA LÂN TRONG NHÀ THỜ ĐỂ MỪNG TẾT VN KHÔNG?
LINH MỤC – ĐỨC KITÔ THỨ HAI (ALTER CHRISTUS) – PHẢI LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?

 

 

Trong phạm vi bài viết  này, tôi không muốn đề cập nhiều đến những lý thuyết hay nền tảng thần học, cũng như giáo lý của Giáo Hôi về vai trò và sứ mạng của linh mục trong Giáo Hội, vì thiết nghĩ các linh mục và rất nhiều giáo dân ngày nay đều biết rõ.

Điều chủ yếu tôi muốn nói ở đây là trong thực tế, linh mục phải hành xử thế nào để xứng đáng là hiện thân của Chúa Kitô xuyên qua chính đời sống, lời nói và việc làm  của mình trước mặt người khác. Đặc biệt hơn hết  là các  tín hữu được trao phó cho mình săn sóc và  phục vụ  về mặt thiêng liêng – sau nữa  – là trước những người chưa biết Chúa Kitô để cảm hóa và mời gọi họ nhận biết và tin Chúa Kitô  qua gương sống chứng nhân của mình.

Thật vậy, với tư cách là cộng sự viên đắc lực, thân cận của Giám mục, linh mục  thi hành sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và cai trị trong giáo hội địa phương (tức giáo xứ, giáo phận)  với tất cả  thành tâm, thiện chí và xác tín về chức năng và vai trò của mình được nhận lãnh từ bí tích Truyền Chức Thánh cho phép linh mục được  chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa KItô, “Thầy Cả Thượng Phẩm…theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5: 10) 

Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ngày nay, đặc biệt là ở các nước Âu Mỹ, người ta không những bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa vật chất vô luân (immoral materialism) mà đặc biệt còn bị ảnh  hưởng ngày một nghiêm trọng bởi trào lưu tục hóa (secularization) đưa đến thực hành vô thần (practical  atheism), chối bỏ Thiên Chúa, “hạ bệ Kitô hóa” (de-christionization). và dửng dưng với mọi tôn giáo nói chung (Indifference to religions).

Thực trạng này đã và  đang là một thách đố to lớn cho những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực  lành, đã yêu thương, tha thứ và cứu độ con người nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu-Kitô.

Để đối phó với  trào lưu  nguy hại nói trên, ngày 12 tháng 10 năm 2012, Tòa Thánh đã công bố quyết định mới của Đức Thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 ( đã  tự ý về hưu từ năm 2012) cho thiết lập một Văn Phòng hay Hội Đồng mới của Tòa Thánh (New Pontifical Council)  với chức năng Tân Phúc Âm hóa (New Evangelization) như một nỗ lực nhằm chống lại khuynh hướng tục hóa ở các quốc gia Âu Châu và Mỹ  châu  nói chung. Hội Đồng này do Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella làm Chủ Tịch.

Sự kiện trên cho thấy là Đức Thánh Cha đã tỏ ra rất quan tâm về nguy cơ  tục hóa đang đe dọa những giá trị và chân lý của  Phúc Âm  cũng như đời sống luân lý, đạo đức của con người nói chung, và cách riêng, của người tín hữu Chúa Kitô đang sống trong hoàn cảnh suy đồi đạo đức và luân lý của thế giới  ngày nay.

Đặc biệt,  Đức Thánh Cha đương kim Phanxicô cũng đã lưu ý  toàn Giáo Hội về thực trạng “tôn thờ tiền bạc” (cult of money) của thế giới,  là nguyên nhân chính của mọi bất công xã hội và thống khổ của con người  đang  sống dưới quyên cai trị của những kẻ tham tiền, tham quyên cố vị để vơ vét của cải vật chất  hầu   hưởng thụ và làm giầu, trong khi dửng  dưng trước sự nghèo đói và bất công của xã hội dưới quyền cai trị vô lương tâm của họ.

Riêng đối với hàng giáo sĩ tu sĩ, Đức Thánh Cha Phanxicô  không những khuyên mà còn làm gương cụ thể  cho mọi người về đức khó nghèo của Phúc Âm và của Thánh Phanxicô  Khó Khăn mà Đức Thánh Cha đã chọn làm thánh hiệu cho triều đại Giáo hoàng của ngài. Cụ thể,năm 2014  Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngưng chức một giám mục Đức vì đã phung phí tài sản của Địa Phân để xây biệt thự lộng lẫy cho mình, trái với lời khuyên khó nghèo của Phúc Âm.

Mới đây nữa, nhân dịp gặp gỡ các nhân viên của các tổ chức từ thiện và các tù nhân tại thành phố Cagliari (Ý) Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với họ như sau:

Một số người đã muốn làm nổi bật việc làm tốt của họ. Họ không ngừng nói về người nghèo, nhưng sau đó lại lợi dụng những người nghèo khó này để trục lợi cho cá nhân mình...Đó chắc hẳn không phải là ý muốn của Chúa Giê-su. Tôi đi xa hơn nữa  để nói đó là một tội  nghiêm trọng. Đó là  lợi dụng những người nghèo khó, những người là hiện thân của Chúa Giê-su để tô  điểm cho chính mình. Đây là một tội nghiêm trọng.”

Như thế, linh mục và giám mục  phải  là những  người nêu gương sáng trước tiên về đức khó nghèo của Chúa Kitô, “Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh  em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em được giầu có.” (2 Cor 8:9)  

Cụ thể, Linh mục  cần thiết phải:

 I- Tách mình ra khỏi mọi dính díu với quyền lực và tham vọng trần thế để không vô tình hay cố ý làm tay sai cho một chế độ chính trị nào để cầu lợi cá nhân, và nhiên hậu gây thương tổn nặng nề cho chức năng (competence) và vai trò của mình là linh mục của Chúa Kitô.

Trong điễn từ đọc tại Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Mẹ Lên Trời ở Parlemo (Italia) trước hàng trăm Giám mục, Linh mục, và Tu sĩ nam nữ ngày 3 tháng 10 năm 2012, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 (đã về hưu)  đã nói riêng với các linh mục hiện diện như sau: “Chính Chúa Kitô, chứ không phải thế gian – đã thiết lập cương vị cho linhmục…Và với cương vị đó,  linh mục  phải luôn chú tâm đến ơn cứu độ và Vương Quốc của Thiên Chúa.”  (Christ establishes the priest’s status, not the world…  as a priest, he must be always with a view to salvation and the Kingdom of God. (cf. L’Observatore  Romano. Oct 6, 2010). Hơn nữa, linh mục “không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác với đời sống thế tục” (cf. Presbyterium Ordinis.no.3)

Trước đó, trong thư Thứ Năm Tuần Thánh gủi cho các linh mục, Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (đãđược tôn phong hiển thánh ngày 27-4 vừa qua) đã lưu ý các linh mục như sau:

Những nỗ lực nhằm biến linh mục thành người thường dân là làm hại  Giáo Hội. Điều này không có nghĩa là một cách nào đó, linh mục  phải thờ ơ không  quan tâm gì  đến những âu lo của người giáo dân (thường dân = laity);  ngược lại, phải rất gần gũi họ theo gương Thánh Maria Gioan Vianney, và trong chiều kích lo cho phần rỗi của họ (giáo dân)  và cho sự mở mang Vương Quốc  Thiên Chúa. Linh mục là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác với đời sống thế tục. Đây  là điều căn cốt  của Giáo Hội nhờ đó căn tính của linh mục được bảo vệ ở chiều dọc. Đời sống và nhân cách của ‘cha sở họ Ars’ (Curé of Ars) đặc biệt là hình ảnh rõ nét sáng ngời về đời sống và nhân cách của linh mục theo chiều kích nói trên.” (James P. Socias Scepter Publishers and Midwest Theological Forum, pp147-148)

Nói khác đi, linh mục chỉ có một  vai trò và chức năng quan trọng nhất  là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và làm chứng cho Chúa  trong mọi hoàn cảnh để phục vụ hữu hiệu cho các linh hồn đang cần đến Chúa và mong  lãnh nhận  ơn cứu độ của Người. Do đó, linh mục tuyệt đối không có chức năng chính trị  hay xã hội nào để tự nguyện làm tay sai phục vụ, tâng bốc,  ca tụng  hay chống đối một chế độ nào vì lý do thuần chính trị.

Nhưng, nếu chế độ nào,  không tôn trọng nhân quyền (human rights) – không phải nhân quyền của  thần học giải phóng, là thứ nhân quyền cổ võ  đấu tranh giai cấp, tạo ra những “đàn kéc” chỉ biết ca tụng bợ đợ chế độ để an thân trục lợi –  mà là những quyền căn bản của con người,  như quyền tự do phát biểu, quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền hành Đạo trong đó bao gồm việc  tổ chức,  đào tạo và  bổ nhiệm các chức sắc  lãnh đạo trong các giáo hội địa phương. Nếu chế độ nào không tôn trọng những quyền căn bản  này cũng như  dung dưỡng cho những sa dọa, suy thoái về luân lý, đạo đức trong xã hội họ cai trị  thì linh mục – và  nhất là Giám mục – phải có can đảm lên tiếng đòi hỏi chế độ phải tôn trọng những tư do căn bản và thiêng liêng của con người, cũng như mạnh mẽ   lên án thực trạng suy thoái đạo đức và luân lý  của xã hội ( cụ thể là việc buôn bán phụ nữ và trẻ gái để cung cấp cho các ổ mãi dâm và ấu dâm (chid prostitution) rất khốn nạn ở trong và ngoài nước, kể cả môi giới cho  các đường giây mãi dâm và nô lệ tình dục ở nước ngoài dưới chiêu bài hôn nhân).Phải  đòi nhà cầm quyền dân sự có biện pháp thích đáng để lành mạnh xã hội hầu tạo môi trưởng thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh đời sống tinh thần và  đạo lý của người dân.

Xã hội vô luân, vô đạo và đầy bất công đã tạo ra những con người không còn nhân tín, mất hết mọi ý thức về luân lý và nhân đạo, và xô nhanh người dân xuống hố diệt vong vì thiếu nền tảng  tinh thần cần thiết để giúp phân biệt con người với mọi loài cầm thú chỉ có bản năng và vô lương tri.

Như thế, làm ngơ hay nhắm mắt bịt tai trước những vi  phạm về quyền thiêng liêng của con người  và tụt hậu về luân lý, đạo đức,  sẽ trở thành đồng lõa với chế độ, với xã hội  làm phát sinh mọi tội ác vì thiếu căn bản đạo làm người.

II- Trong lãnh vực giảng dạy chân lý và cử hành các Bí tích,

Không linh mục nào được phép  dạy và thực hành giáo lý, bí tích riêng của mình mà phải dạy cũng như thực hành đúng giáo lý (doctrines), tín lý (dogmas) và kỷ luật bí tích của Giáo Hội.  

Cụ thể, Giáo Lý và Kinh Thánh của Giáo Hội  nhìn nhận  sự kiện có tội Tổ Tông (Original sin) do Nguyên Tổ loài người là Adam và Eva vấp phạm khiến con người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng chính tội bất trung này của Nguyên Tổ loài người lại được  Giáo Hội sau này ca ngợi là “Tội sinh ơn phúc”  (Felix culpa) vì  bởi tội này mà Thiên Chúa  đã sai Con Một của Người là Chúa Kitô đến trần gian để  cứu chuộc cho nhân loại  khỏi chết vì tội. Ơn cứu chuộc và tha thứ này của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội bất trung của Nguyên Tổ rất nhiều, như Thánh Phaolô đã dạy: “Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa…Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô  còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5: 15).

Như thế ai phủ nhận hay đặt vấn đề “tội Tổ Tông”với lâp luận “cam làm  không thể bắt quýt chiu” dựa trên tâm lý học,  là đã đi ngược lại với giáo lý hiện hành của Giáo Hội về vấn đề rất hệ trọng này. (x.SGLGHCG,số 402-407)

Mặt khác, cũng vì tội Nguyên Tổ đã gây ra “sự chết của linh hồn” như Công Đồng Trentô đã dạy (DS 1512), mà Giáo Hội cử hành bí tích Rửa Tội để  để tái sinh con người trong sự sống mới, xỏa hết mọi hậu quả  của  tội nguyên tổ, cũng như  tha một  lần tất cả mọi tội cá nhân con người đã phạm cho đến lúc lãnh nhận Phép Rửa.. . Nhưng phép Rửa không trả lại cho con người tình trạng ơn phúc mà Adam và Eva được hưởng trước khi phạm tội. Nghĩa là sau khi được rửa rội, con người vẫn còn “những yếu đuối” và khuynh hướng nghiêng chiều về sự xấu, sự tội trong bản năng để cho con người phải cố gắng chiến đấu với ơn Chúa nâng đỡ để vươn lên trên đường hoàn hảo hầu  được cứu rỗi.

Do đó, linh mục không thể dạy sai lầm là phép rửa đã tha hết mọi tội nên không cần phải xưng tội nữa, cứ tự nhiên rước Minh Thánh Chúa! Phép Rửa tha một lần hết mọi tội, nhưng sau đó, người ta vẫn còn có  thể  lại phạm tội nhiều lần nữa chứ, vì bản chất yêu đuối và vì con người còn có ý muốn tự do (free will) để chống lại cám dỗ hay buông mình chiều theo sự xấu, sự tội để làm những sự dữ như giết người, cướp của, bóc lột  bất công thù oán,  dâm ô trụy lạ, thay chồng đổi vợ, li dị phá thai....Đây là thực trạng mà không ai có thể chối cãi được.

Liên quan đến bí tích Thánh Thể, không có giáo lý, giáo luật nào dạy mọi người tham dự Thánh Lễ đều được rước Minh, Máu Thánh Chúa, vì  cho rằng đây là bữa tiệc Chúa  mời mọi người tham dự ăn và uống không phân biệt Công Giáo hay Tin lành, trẻ em đã rước lễ lần đầu hay chưa. Ngược lại, giáo lý và  giáo luật nói rõ: ai mắc tội trọng, chưa kịp đi xưng tội thì không được làm lễ (linh mục) và rước Minh Thánh Chúa (giáo dân). (x, giáo luật số 916; SGLGHCG số 1415).

Như vậy, không thể mời hết mọi người tham dự Thánh Lễ ở tư gia hay ở nhà thờ lên rước Mình Máu Thánh Chúa lấy lý do là Chúa đã tha hết mọi tội cho con người, như một số linh mục Việt Nam, Mỹ  và Canada đã làm. (Có nhân chứng kể lại). Chúa tha thứ tội lỗi cho con người. Đúng, nhưng người ta vẫn còn phạm tội trở lại nhiều lần nữa, vì bản tính yếu đuối, vì ma quỉ cám dỗ và vì ý muốn tự do như đã nói ở trên.

Lại nữa, linh mục cũng không được phép từ chối ban bí tích rửa tội, rước lễ lần đầu  hay chứng hôn cho ai, vì cha mẹ của trẻ em hay người lớn không đóng đủ tiền cho giáo xứ  như đã xẩy ra ở một địa phương kia bên nhà. Tệ hại hơn nũa , còn có linh mục lên Tòa giảng nói : đôi hôn phối này đáng lẽ không được cử hành hôn lễ vì người nữ đã có thai trước khi cưới. Nhưng vì có cha,hay anh chi đã giúp việc nhà thờ, nhà xứ nên được tha ! ( cõ nhân chứng kể lại).Lại nữa,  linh mục chánh xứ không được phép đe doa “rút phép thông công = ex-communication” cho ai vì bất cứ lý do gì. Chỉ có Giám mục Giáo phận  mới có quyền ra vạ tuyệt thông hậu kết  (ferandae  sententiae) cho ai ngoan cố không chịu sửa lỗi sau khi đã được  cảnh cáo nhiều lần.

Chưa hết, linh mục không được “tham mê tiền của” để bày chuyện “lễ đời đời “ để lấy nhiều tiền của giáo dân không am hiểu giáo lý, hoặc  chỉ nhận dâng lễ với bổng lễ (mass stipend) cao và từ chối lễ với bổng lễ thấp.. Đặc biêt là không nên tổ chức mừng ngày thụ phong mỗi năm, hay mỗi 10 năm, 15 năm để lấy tiền mừng của giáo dân. Đây là một gương xấu phải tránh, chứ không phải là một truyền thống tốt đẹp phải thực hành.

Một điều quan trọng nữa là  linh mục không được phép  biến lễ tang (Funeral mass) thành lễ  cưới  hay lễ Phong Thánh (Canonization Mass) cho ai khi giảng rằng linh hồn này chắc chắn đã lên Thiên Đàng rồi, vì đã được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết, cho nên  phải vui mừng, không được thương khóc và để tang như một gia đình kia có con làm linh mục đã làm! (có nhân chứng kể lại)

Giáo lý và bí tích của Giáo Hội chỉ qui định việc xức dầu thánh, ban của ăn đàng (Viaticum) cũng như nghi thức phó linh hồn cho ai sắp ly trần, nhưng không hề dạy là nếu ai được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước khi chết thì chắc chắn đã lên Thiên Đàng. Lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục, hoặc đang còn ở nơi Luyện tội thì không ai có thể biết được. Chỉ có Chúa biết mà thôi. Do đó, Giáo Hội chỉ dạy  cầu nguyện cho các linh hồn đã ly trần, dù là thường dân, hay linh mục, giám mục  hoặc giáo hoàng.

Giáo Hội có phong thánh cho ai thì cũng phải đòi hỏi thời gian và những điều kiện cần thiết theo giáo luật, chứ chưa hề tức khắc phong thánh cho ai ngay sau khi người đó chết, dù là các Đức Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục…

Mặt khác, với tư cách và cương vị là thừa tác viên và là hiện thân của Chúa Kitô trong trần thế, linh mục không thể coi nhẹ cương vị của mình để dễ dãi tham gia  giúp vui trong những bữa tiệc cưới, hội họp đông người để đứng lên ca hát hoặc kể truyện tếu. Nói rõ hơn, linh mục không nên ôm cây đàn, ca hát  và  nhảy nhót với  ai vì mục đích ca tụng quê hương, đất nước hoặc gây quỹ cho cá nhân hay cơ quan, đoàn thể nào. Làm như vậy, linh mục đã quên cương vị của mình khi tự cho phép hòa mình vào những sinh hoạt có tinh chất thế tục.

Sân khấu và nơi tổ chức ca hát, nhảy nhót của người đời, nên chắc chắn không phải là nơi tụ họp, giúp vui  của linh mục. Chỗ đứng và nơi trình diễn của linh mục là bàn thánh, là giảng đài (pulpit) là  Tòa giải tội và giường  bệnh nhân,   tức là những nơi linh mục thi hành tác vụ thánh đã được lãnh nhận từ Bí Tích Truyền Chức Thánh và năng quyền thi hành từ giám mục mình trực thuộc để phục vụ cho những lợi ích thiêng liêng của giáo dân.

Đặc biệt, linh mục cũng không nên làm các nghề của người đời như bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư v.v…  để quảng cáo kiếm thân chủ và kiếm tiền như những người làm các nghề chuyên môn này. Chỗ đứng và chức năng (competence)  của linh mục là rao giảng lời Chúa, dạy dỗ chân lý và thánh hóa mình và người khác qua việc cử hành các Bí Tích Thanh Tẩy, Thánh Thể, Hòa giải và xức dầu bệnh nhân, dạy giáo lý, Kinh Thánh…chứ không  phải ở phòng mạch, nhà bán thuốc, văn phòng cố vấn pháp luật v .v… Đây là một khuyết điểm  lớn của Tu Hội hay nhà Dòng nào đã cho phép tu sĩ linh mục của mình làm những ngành nghề nói trên để kiếm tiền cho nhà Dòng, Tu Hội.

Chúng ta tin rằng mỗi người Chúa ban ơn gọi và khả năng riêng để sống và phục vụ. Do đó, không thể vừa làm linh mục vừa làm ca sĩ hay bác sĩ y khoa, hay luật sư (attorney) được. Tuy nhiên, cũng có trường hợp một số bác sĩ, luật sư,  kỹ sư  hay giáo sư đang hành nghề thì cảm thấy ơn goi đi tu làm linh mục. Nhưng sau khi trở  thành linh mục, thì thôi không hành nghề chuyên môn kia nữa để dành tâm trí và thì giờ cho Sứ vụ linh mục (priestly ministries), một “ngành nghề  không dính dáng gì đến việc bon chen để kiếm tiền, làm giầu như các ngành nghề khác trong xã hội.

Lại nữa, linh mục không thể đi làm quảng cáo cho một cơ sở thương mại nào, như một linh mục  kia đã  nằm dài trên ghế để quảng cáo cho một loại ghế xoa bóp  trên truyền hình. Đây  rõ ràng là một gương xấu, hoàn toàn không phù hợp với chức năng và tư cách  của linh mục, thừa tác viên thay mặt và nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) để dâng  lại hy tế thập giá  của Chúa trên bàn thờ, và cử hành các bí tích khác cũng như rao giảng lời Chúa và làm nhân chứng cho Chúa qua tác vụ và đời sống của mình trước mặt người đời.

Sau hết, linh mục ( cả giám mục nữa) không nên tự hạ minh cách không cần thiết để xưng “con hay em” với giáo dân khi đứng trên tòa giảng.Cũng  không được xưng “cha” với ai trừ với các trẻ em mà thôi.

Tóm lại, là hiện thân  của Chúa Kitô giữa trần gian, đặc biệt  trong hoàn cảnh xã hội khắp nơi ngày một  thêm “tục hóa”  vô lương tâm và  vô luân hiện nay, mọi linh mục đều được mong đợi sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu, dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với  người phàm trong mọi chiều kích thế tục  mà trở nên Con Người để cứu chuộc  và  thần linh hóa ( divinize) loài người  hầu  cho giúp  con người được sống hạnh phúc  và “thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã  thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này, như Thánh Phêrô đã dạy. (2 Pr 1:4).

Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe.” (Mt 13: 43; Mc 7 : 46; Lc 8: 8)

LM . Phanxiô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tác giả: Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!