Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
Bài Viết Của
Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
GIÁO SĨ, TU SĨ VÀ GIÁO DÂN KHÁC VÀ GIỐNG NHAU THẾ NÀO?
TẠI SAO THIÊN CHÚA CHỈ PHÁN XÉT RIÊNG CON NGƯỜI VỀ NHỮNG VIỆC NGƯỜI TA LÀM TRONG CUỘC SỐNG NÀY?
PHẢI THỰC HÀNH ĐỨC ÁI CÁCH NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA ĐỂ MƯU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI KHÁC?
ĐÂU LÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ HIỂM NGUY CHO NIỀM TIN CÓ THIÊN CHÚA NGÀY NAY?
TÌNH THƯƠNG Và THA THỨ CỦA CHÚA CÓ TỰ ĐỘNG ĐẾN VỚI CON NGƯỜI MÀ KHÔNG CẦN AI MUỐN ĐÓN NHẬN HAY KHÔNG?
KINH THÁNH NÓI GÌ VỀ Ý MUỐN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI VÀ SỰ THƯỞNG PHẠT CỦA THIÊN CHÚA?
TRONG GIÁO HỌI CÔNG GIÁO, TRUYỀN THỐNG KẾ VỊ TÔNG ĐỒ LÀ GÌ?
TẠI SAO PHẢI XƯNG TỘI VỚI MỘT LINH MỤC?
LINH MỤC: ĐỨC KITÔ THỨ HAI (ALTER CHRISTUS), PHẢI LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?
BÍ TÍCH THÁNH TẨY và ƠN CỨU ĐỘ
NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI SỐNG ĐỨC TIN CÁCH NÀO ĐỂ MƯU ÍCH CHO PHẦN RỖI CỦA MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA NHỜ GƯƠNG SỐNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH?
TẠI SAO CÓ SỰ DỮ, SỰ ĐAU KHỔ TRONG TRẦN GIAN NÀY?
NGUY CƠ CỦA TIỀN BẠC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN và ƠN CƯU ĐỘ
CÔNG ĐỒNG ĐẠI KẾT HAY CÔNG ĐÔNG CHUNG LÀ GÌ TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO?
BÍ TÍCH THÁNH TẨY (RỬA TỘI) QUAN TRỌNG VÀ CẦN THIẾT RA SAO CHO HY VỌNG ĐƯỢC CỨU RỖI ĐỂ VÀO NƯỚC TRỜI MAI SAU?
TẠI SAO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TÔN KINH THÁNH GIÁ CÓ HÌNH CHÚA KITÔ BỊ ĐÓNG ĐANH (Crucifix) TRONG KHI CÁC PHÁI TIN LÀNH CHỈ TRƯNG THÁNH GIÁ KHÔNG CÓ HÌNH CHÚA BỊ ĐÓNG ĐINH?
CÔNG NGHIỆP CỨU CHUỘC CỦẢ CHÚA KITÔ ĐÃ ĐỦ CHO TA ĐƯỢC CỨU RỖI CHƯA?
GIÁO HỘI CÓ CHẤP NHẬN HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH KHÔNG?
MỌI BỔ NHIỆM CÁC VỊ LÃNH ĐẠO TRONG GIÁO HỘI CÓ THEO Ý CHÚA HAY THEO Ý CON NGƯỜI?
TAI SAO ĐỨC TIN PHẢI CÓ HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ TƯƠNG XỨNG ĐI KÈM THÌ MỚI CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI?
NÓI THÊM VỀ TỘI PHẠM ĐIỀU RĂN THỨ SÁU
ĐỨC TIN LÀ GÌ và PHẢI SỐNG ĐỨC TIN THẾ NÀO ĐỂ ĐÁNG ĐƯỢC CỨU RỖI?
CÁC THÁNH GIÁO PHỤ VÀ TIẾN SĨ HỘI THÁNH LÀ NHỮNG AI?
GIẢI ĐÁP THÊM THẮC MẮC
SỐNG ĐỨC TIN và CHU TOÀN MỌI GIỚI RĂN CỦA CHÚA QUAN TRỌNG RA SAO CHO PHẦN RỖI CỦA NGƯỜI TÍN HỮU CHÚNG TA?
TẠI SAO PHẢI TRÁNH GƯƠNG XẤU, DỊP TỘI?
XIN NÓI LẠI NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO, ANH GIÁO VÀ TIN LÀNH
TẠI SAO PHẢI CÓ VÀ THỰC THI ĐỨC KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO NỘI TÂM ĐỂ MỞ MANG NƯỚC CHÚA VÀ MỜI GỌI THÊM NHIỀU NGƯỜI NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SỐNG NHÂN CHỨNG CỦA MÌNH?
PHẢI SỐNG ĐỨC ÁI CÁCH NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA VÀ MƯU ÍCH THỰC SỰ CHO NGƯỜI KHÁC?
CÁC BÍ TÍCH THÀNH SỰ HAY HỮU HIỆU VÌ YẾU TỐ NÀO?
CÁC BÍ TÍCH của GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÓ NGUỒN GỐC KINH THÁNH KHÔNG?
LINH MỤC PHẢI SỐNG VÀ GIẢNG DẠY CÁCH NÀO CHO XỨNG ĐIA VỊ VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH?
PHẢI DÙNG TIỀN CỦA THẾ NÀO ĐỂ VỪA THỎA MÃN NHỮNG NHU CẦU CHÁNH ĐÁNG CỦA THÂN XÁC MÀ VẪN KHÔNG QUYÊN MỤC ĐÍCH ĐI TÌM SỰ GIẦU SANG PHÚ QUÍ CỦA NƯỚC TRỜI?
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI và SỐNG HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI VƠI CHÚA TRÊN NƯỚC TRƠI MAI SAU.
GIUĐA CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI HAY PHẢI PHẠT ĐỜI ĐỜI?
HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH LÀ GÌ? VÀ TÍN HỮU CÔNG GIÁO CÓ ĐƯỢC PHÉP THAM DỰ NGHI LỄ VÀ TIỆC CƯỚI CỦA CÁC CẶP HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH KHÔNG?
THIÊN ĐÀNG, LUYỆN NGỤC và HỎA NGỤC LÀ GÌ, ở đâu và dành cho ai?
ĐỨC MẸ CÓ TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH KHÔNG?
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI và SỐNG HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI VƠI CHÚA TRÊN NƯỚC TRƠI MAI SAU.
CÓ ĐƯỢC PHÉP ĐỐT PHÁO VÀ MÚA LÂN TRONG NHÀ THỜ ĐỂ MỪNG TẾT VN KHÔNG?
NGUYÊN NHÂN NÀO ĐÃ GÂY RA NHỮNG CUỘC LY GIÁO TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRỨỚC ĐÂY?

 

NGUYÊN NHÂN NÀO Đà GÂY RA NHỮNG CUỘC LY GIÁO TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRỨỚC  ĐÂY? 

Hỏi :

Xin cha giải thích rõ ba  thắc mắc quan trọng sau đây:

 I- Vì sao trong quá khứ có thời gian Tòa Thánh ROMA lại  ở Avignon, Nước Pháp?

II- Nguyên nhân nào đã gây ra các cuộc ly giáo Tây Phương .( Western Schism),  ly giáo Đông Tây? (Eastern Schism)? Tin Lành (Protestantism) và Anh Giáo (Anglican Communion)?

 III- Có thể nào Giáo Hội sẽ bỏ luật độc thân của linh mục và truyền chức cho nữ  giới không?

Trả lời :
 

  1. Giáo Hội  mà Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng Tông Đồ dã trải  qua nhiều biến cố từ buổi ban đầu cho đến ngày nay.Về mặt tín lý, đã có những tà thuyết ( heresies) và bội giáo (Apostacies)  xuất hiện khiến Giáo Hội phải chiến đấu để vượt qua hầu giữ vững đức tin Kitô Giao tinh tuyền. Thêm vào đó là sự rạn nứt trong mối hiệp  thông và hiệp nhất ( communion, unity) gọi chung là ly giáo ( schism) đã xảy ra và còn kéo dài cho đến ngày nay, khiến Giáo Hội của Chúa bị phân chia thành hai nhánh chính là Công Giáo La Mã ( Roman Catholicism) và Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches),  không còn hiệp thông và hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo từ năm 1054 cho đến nay. 

Ngoài ra, còn phải kể thêm hai Nhóm Kitô Giáo khác  cũng đã tách ra khỏi hiệp thông và hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo La Mã . Đó là   Nhóm Tin Lành( Protestantism) do Martin Luther , một linh mục Dòng Thánh Augustin chủ xướng năm 1517  ở Đức , và Anh Giáo ( Anglican Communion) do Vua Henri VIII chủ xướng để tách ra khỏi hiệp thông với  Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1534 vì bất mãn với Đức Thánh Cha Cha Clement VII đã không cho phép nhà vua li dị để lấy vợ khác.!

Các cuộc ly giáo trên , cho đến nay,  chưa có tiến triển nào nhằm nối lại hiệp thông và hiệp  nhât ( Communion and Unty) với Giáo Hội Công Giáo La Mã ..

Về việc Toà Thánh có lần đã “di cư” sang Avignon, thì đây là biến cố duy nhất trong lịch sử Giáo Hội, xảy ra việc  Tòa Thánh La Mã đã “di cư” sang Pháp, đóng tại thành phố Avignon trong một thời gian khá lâu dài là 68 năm, kể  từ năm 1309 đến năm 1377 . Các sử gia đã gọi thời kỳ này là “ cuộc lưu đầy, hay cầm tù Babilone của Ngôi vị Giáo Hoàng (The  Babilonian captivity of the Papacy) .

Nguyên nhân của “ cuộc lưu đầy” này có thể được  tóm tắt như sau :

Vào   cuối thế kỷ  12 và trong thế kỷ 13 , các phe phái chính trị và tôn giáo ở Ý và Pháp đã  muốn tranh dành ảnh hưởng đối với Giáo Hội Công Giáo La Mã, nên đã là nguyên nhân chính  khiến Ngai Tòa Phêrô bị di chuyển từ Rôma sang Avignon, Pháp, từ năm 1309 dưới triều Đức Giáo Hoàng Clement V  ( người Pháp ) ( 1305- 1316). 

Ngài  được Hồng Y đoàn bầu lên năm 1309  với hy vọng làm dịu bớt căng thẳng giữa các phe người Pháp và Ý đang muốn dành ảnh hưởng đối với Giáo Hôi sau những năm sóng  gió dưới triều Đức cố Giáo Hoàng Boniface VIII ( 1294- 1303).

Vì là người Pháp, nên Đức Clement V  đã mang Tòa Thánh từ Rome về Avignon, một thành phố ở miền  nam nước Pháp, năm 1309 để tránh phải đương đầu với gia đình Colonna, đầy quyền lực  ở Ý khi đó , đang muốn nắm trọn quyền cai trị về mọi phương diện chính trị, xã hội và tôn giáo ở Rôma trong thời điểm đó. Ngài được Hồng Y đoàn bầu lên ngôi Giáo Hoàng năm 1309 như một nhượng bộ nhằm hòa giải  giữa hai phe người Ý và Pháp đang có ảnh hưởng lớn trong Giáo Hội Công Giáo Tây phương lúc bấy giờ, nhưng đã không đạt được mục đích mong muốn .Vì thế, Đức Giáo Hoàng Clement V đã mang Tòa Thánh về Avignon để tránh  áp lực của các thế lực người Ý đang muốn dành quyền chi phối Giáo Hội trong gian đoạn khó khăn và sóng gió đó.

Tuy nhiên, khi cư trú trên đất Pháp, thì  7 Giáo Hoàng kế tiếp nhau lên ngôi ở đây  cũng không tránh được bị chi phối và ảnh hưởng   cúa các nhà vua trị vì Nước Pháp trong suốt thời kỳ này. Dầu vậy, truyền thống Tông Đồ ( Apostolic succession) vẫn được  tôn trọng trong việc chọn Giáo Hoàng cũng như Sứ Vụ Tông Đồ vẫn được tiếp tục theo truyền thống trong việc cai quản Giáo Hội, mặc dù có bị thế quyền Pháp  chi phối phần nào do việc Giáo Hội nằm trên lãnh thổ của Nước Pháp trong suốt 68 năm, với 7 Giáo Hoàng được bầu lên cách hợp pháp và có Danh hiệu sau đây :

  1. Clement  V ( 1305-1316)

  2. Joan XXII ( 1316-1334)

  3. Benedict XII ( 1334-1342)

  4. Clement VI    ( 1342-1352)

  5. Innocent  VI ( 1352-1362)

  6. Urbano  V   ( 1362-1370)

  7. Gregory XI     ( 1370- 1378)

  Đức Gregory XI  là Giáo Hoàng cuối cùng  tại Avignon, đã quyết định mang Tòa Thánh trở lại Rôma năm 1377, do công khởi thủy của Đức Giáo Hoàng Urbano V ( 1362- 1370)  và đặc biệt thể theo lời khẩn khoản nài van của nữ tu bí nhiệm Dòng ĐaMinh ( Mystic Dominican Sister) mà sau này đã trở thành Thánh Nữ Catherine  thành Sienna.

Nhưng  dù Tòa Thánh được  mang trở lại Rôma với Đức Giáo Hoàng Gregory XI ,  Giáo Hội vẫn chưa an vị được ở Rôma, mà còn xảy ra cuộc ly giáo Tây phương  ( Western Schism) giữa những người cùng hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã  về phía Tây phương vì lý do sau đây:

1-- Ly Giáo Tây Phương( Western Schism) 

 Từ ngữ  ly  giáo ( schism)  xuất phát từ  nguyên ngữ Hy lạp “ schisma” có nghĩa là xé  rách ra ( tear off ). Do đó,  từ ngữ này được dùng để chỉ một tình trạng hay sự kiện rạn nứt trong sự hiệp nhất của Giáo Hội ( Unity in the Church) .Nhưng  khác với tà giáo hay lạc giáo ( heresy) và bội giáo ( Apostacy) , ly giáo ( schism) không nhằm chối bỏ một  chân lý nào của Kitô Giáo, hay đặt lại vấn đề  về một tín lý nào,( dogma) mà chỉ là gương xấu  đưa đến hậu quả làm mất sự hiệp thông ( communion) và hiệp nhất ( unity ) trong Giáo Hội do một vài  phe nhóm chủ xướng mà thôi.

Cụ thể,  quyết định mang Tòa Thánh trở lại  Rôma của Đức Giáo Hoàng Gregory XI đã bị các Hồng Y và thế quyền  Pháp chống đối, nên sau khi Đức Gregory XI qua đời ngày 27 tháng 3 năm 1378, Đức Urban VI  được bầu lên kế vị ở Rôma , thì các Hồng Y người Pháp ở Avignon lại bầu một ngụy Giáo Hoàng (antipope) lên ngôi và   lấy danh hiệu là Clement VII để tranh ngôi Giáo Hoàng với Đức Urban VI ở Rôma . 

Và đây là nguyên nhân gây ra  cuộc ly giáo Tây Phương trong Giáo Hội, kéo dài từ năm 1378 cho đến năm  1417 với hai Giáo Hoàng tại chức , một ở Avignon và một ở Roma; và sau này có thêm một Giáo Hoàng nữa do Công Đồng Pisa bầu lên, như sẽ nói rõ  sau đây. 

Cuộc ly giáo trên   đã xẩy ra vì có hai phe tranh giành ngôi vị Giáo Hoàng trong thời gian sóng gió đó. Trước hết  là phe các nước nói tiếng Latinh và Pháp ủng hộ Giáo Hoàng Clement VII ở Avignon , đối đầu với phe người Đức và  người Anh ủng hộ Giáo Hoàng Urban VI ở Rome..

Giáo Hoàng Clement VII mất năm 1394 và người kế vị được bầu lên thay là Benedict XIII, tiếp tục cai trị ở Avignon. Ở bên kia, Giáo Hoàng  Urban VI cũng mất năm 1397, và người kế vị được bầu lên là Gregory XII, người Roman. Như vậy trong thời kỳ này có hai giáo hoàng cùng tranh ngôi , một ở Pháp và một ở Rôma

 Để giải quyết tình trạng này, các Hồng y và nghị phụ đã họp Công đồng tại Písa ngày 29-3-1409 và bầu Giáo Hoàng mới lấy danh hiệu là Alexander V, nhưng ngài chưa kịp về Roma nhậm chức thì đã mất ở Bologna ngày 3-5-1410, và người kế vị được bầu  lên ngày 17-5-1411 đã lấy danh hiệu là Gioan XXIII. Nhưng tân Giáo Hoàng này tỏ ra là người không có đủ tài đức và khả năng lãnh đạo Giáo Hội, lại được bầu lên nhờ áp lực và tham vọng cá nhân, nên bị coi là nguy giáo hoàng ( antipope), và buộc phải thoái vị.

Như vậy, Giáo Hội  một lúc có tới ba Giáo Hoàng cùng tranh giành Ngai Tòa Phê- rô: Đó là Gioan XXIII  do Công Đồng Pisa bầu lên ngôi ngày 17-5-1411, trong lúc có hai Giáo Hoàng nữa đang tại chức  là Benedict XIII ở Avignon và Gregory XII ở Rome như đã nói ở trên.

Vì thế,  để giải quyết tình trạng  bế tắc và gây tai tiếng trên đây , theo sáng kiến của Hoàng Đế Rôma là Sigismund of Luxembourg,   Công Đồng Constance được triệu tập ngày 1-11-1417 như một cố gắng cuối cùng để giải quyết tình trạng  ly giáo do việc ba Giáo Hoàng trên cùng tranh nhau quyền cai trị Giáo Hội. Kết quả, Công Đồng đã thuyết phục được  Giáo Hoàng Gregory XII từ chức, hạ bệ ngụy giáo Hoàng Gioan XXIII, và truất phế vắng mặt Giáo Hoàng Benedict XIII ở Avignon.( ông này đã bỏ chậy trốn khi biết không còn hy vọng  ở yên trên ngôi vị Giáo Hoàng được nữa)

 Sau đó,  ngày 11-11-1417  Công Đồng Constance  đã bầu được Giáo Hoàng mới là  Oddo Colonna , một nghị phụ tham dự Công Đồng, lên ngôi với danh hiệu Martin V  để chấm dứt cuộc ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378 đến năm 1417.

 Martin V  là một thường dân (layman)  trí thức, đạo đức nhưng không có chức  linh mục và giám mục. Nên sau khi được bầu lên,  ngài đã được truyền chức linh mục và giám mục trước khi đăng quang Giáo Hoàng  với danh hiệu Marin V.

 Như thế , Công  Đồng Constance đã đạt được thành quả lớn  : đó là chấm dứt cuộc ly giáo Tây phương kéo dài  từ năm 1378 đến 1417. Cuộc ly giáo này xảy ra chỉ vì các phe nhóm có thế lực ở Âu Châu, cụ thể là Pháp và Ý, đã  tranh dành ảnh hưởng để dành ngôi vị Giáo Hoàng của Giáo Hội La Mã. Có thể nói tắt một điều : đây là hậu quả của thời kỳ thế quyền  và thần quyền lẫn lộn tranh giành quyền cai trị Giáo Hội nên đã gây ra cuộc ly giáo đáng tiếc nói trên. 

Có một chi tiết đáng chú ý  trong giai đoạn ly giáo này là sự kiện Giáo Hoàng Gioan XXIII , lên ngôi năm 1410,  bị coi là ngụy giáo hoàng ( antipope) vì không được bầu lên cách hợp pháp , lại thêm kém tài đức và nhân cách.Vì thế,  sau này, khi Đức Hông Y Roncali được bầu Giáo Hoàng ngày 28 tháng 10 năm 1958, để kế vị Đức Thánh Cha Piô XII qua đời ngày 9-10-1958,  ngài đã lấy lại danh hiệu Gioan XXIII để cai trị Giáo Hội cho đến ngày qua đời. ( 3-6-1963). Sư kiện này đủ minh chứng là “ngụy giáo hoàng  Joan XXIII được Công Đồng Pisa bầu lên ngày 17-5- 1411 là bất hợp pháp.

Trên đây là  đại cương nguyên nhân  và diễn tiến cuộc ly giáo Tây Phương, một vết thương trong thân thể của Giáo, mặc  dù chỉ kéo dài trong 38 năm., trong khi một vết thương khác lớn hơn và kéo dài hơn nữa cho đến nay :   đó là cuộc ly giáo Đông Phương (Eastern Schism)  xảy ra giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống Constantinople (Hy Lạp) bắt đầu  từ năm 1054 cho đến nay. Và chưa biết đến bao giờ mới có thể chấm dứt vĩnh viễn để Giáo Hội của Chúa Kitô được hiệp thông và hiệp nhất trong cùng  một sứ mệnh tuyên xưng đức tin Kitô Giáo và phúc âm hóa thế giới, để mang ơn cứu độ của Chúa Kitô đến với hết mọi người trên toàn thế giới, không phân biệt màu da, tiếng nói và văn hóa, cho đến ngày mãn thời gian.

 

2-  -Sau đây là nguyên nhân của cuộc ly giáo Đông Tây :

   Cuộc ly giáo này đã xảy ra bắt đầu từ  năm 1054 khi Giáo Hội Đông Phương mà đại diện khi đò là  Michael Celarius , Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinoble (Hy Lạp) và đại diện Giáo Hội Công GiáoTây Phương là Đức Thánh Cha Leo IX.  Đôi bên đã gia vạ tuyệt thông cho nhau vì những bất đồng liên quan đến tín lý và đặc biệt là về vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, Giám mục Roma.

 Trước hết về từ ngữ thì từ orthodoxy, theo ngữ căn Hy lap (orthosdoxa) có nghĩa là ca ngợi đúng (right praise) tin tưởng đúng (right belief). Danh từ này được dùng trước tiên để chi lập trường của những giáo đoàn Kitô khi tham dự các Công Đồng Đại kết ( Ecumenical Councils) Nicea I ( 325 A,.D) Ephesô ( 431) và Chalcedon (451)trong đó, họ đồng thanh chấp nhận những giáo lý được coi là tinh tuyền của KitôGiáo =Christianity để đối nghịch với những  gì bị coi là “tà thuyết hay lạc giáo=heresy , 

Nhưng sau này, từ ngữ Orthodoxy lại được dùng để chỉ lập trường của các Giáo Hội Đông Phương  ( Eastern Churches) mà tiêu biểu là Giáo đoàn Constantinoble ( Hy Lạp) đối nghịch với Giáo Hội Phương Tây tức  Giáo Hội Công Giáo La Mã ( Roman Catholic Church).

Về tín lý, đôi bên đã bất đồng về từ ngữ Filioque ( và Con) trong Kinh Tin Kinh Nicea tuyên xưng Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Con (Chúa Con) mà ra. Quan trọng hơn nữa là Giáo Hội Chính Thống Hy Lap không công nhận Đức Thánh Cha là Đấng  duy nhất thay mặt ( Vicar) Chúa Kitô trong vai trò Thủ Lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ La Mã.Vì không công nhận vai trò của Đức Giáo Hoàng, nên các Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều do các Giáo Hoàng công bố , đặc biệt là ơn bất khả ngộ ( infallibility) của Đức Thánh Cha trong hai lãnh vực đức tin và luân lý mà  Công Đồng Đai Kết Vaticanô I (1870) đã tuyên bố. Vì những bất đồng này mà đôi bên đã gia vạ tuyệt thông cho nhau =Anthemas=Excommunication ngày 16-7-1054 giữa Thượng Phụ Chinh Thống Hy Lạp Michael Cerularius và Đức Giáo Hoàng Leô IX. 

Cuộc ly giáo Đông Tây này vẫn kéo dài cho đến ngày nay, mặc dủ đôi bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau  cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinoble năm 1966. 

Đôi  bên đều có thiện chí muốn hiệp thông (communication)  và hiệp nhất (unity) trong cùng một Giáo Hội do Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ.

Ngoài hai  cuộc Đại Ly giáo nói trên còn phải kể đến hai Nhóm ly giáo nữa đã xảy ra trong Giáo Hội Công  Giáo LaMã . Đó là Nhóm Tin Lành ( Protestantism) do Martin Luther chủ xướng ở Đức năm 1517, John Calvin ở Pháp và Ulrich Zwingli ở Thụy Sỹ… Và  lan sang Mỹ với hàng trăm nhóm Tin Lành khác lấy danh xưng khác nhau, như : Baptist, Lutherans, Methodist, Evangelical, Church of Christ v..v.Các Nhóm này hoàn toàn độc lập với nhau vì không có hệ thống giáo quyền chung như Công Giáo.

Một Nhóm ly khai nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do Vua Henri VIII (149-1547)  thiết lập năm 1534 ở Anh để ly khai khỏi hiệp nhất vời Giáo Hội Công Giáo La Mã vì bất mãn với Đức Thánh Cha  Clemente VII đã không cho phép nhà vua li dị để lấy vợ khác.Vua Henri tự phong cho mình là Thủ lãnh Nhóm ly giáo này,và từ đó Nhóm Anh Giáo đã  tách biệt khỏi hiệp thông và hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo La mã, do Đức Thánh Cha cũng là Giám mục Roma lãnh đạo.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho sự hợp nhất của Giáo Hội sớm được thực hiện qua cố lực  đại kết (ecumenism) mà cả hai Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thống Đông Phương đều  đã có thiện chí theo đuổi trong mấy thập niên qua.

Nhưng kết quả cụ thể  cho đến nay vẫn còn rất xa vời, vì trở ngại lớn nhất vẫn là ngôi vị Giáo Hoàng, Giám mục Roma, Thủ Lãnh Giáo Hội  Công Giáo mà anh em Chính Thống Đông Phương vẫn không công nhận là vị lãnh đạo duy nhất kế vị Thánh Phê rô trong sứ mệnh cai trị  Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ (Universal Catholic Church) mà Chúa Kitô dã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ để tiếp tục Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa cho đến ngày mãn thời gian,tức ngày tận thế.

Các nhóm Tin Lành  và Anh giáo cũng đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh duy nhất  Giáo Hội của Chúa Kitô, nên việc hiệp thông và hiệp nhất với các nhóm này đều  trở nên khó khăn vì trở ngại này.

Chúng ta cùng cầu nguyện thêm nữa cho nỗ lực hiệp thông (communion) và hiệp nhất (unity) trong Giáo Hội mà Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ với Sứ Mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa cho mọi dân mọi nước cho đến ngày mãn thời gian.Amen

3. Liên quan đến câu hỏi thứ 3, Xin được nhắc lại là  Kỷ luật độc thân của hàng giáo sĩ, tu sĩ Công Giáo là luật của Giáo Hội, chứ không phải là luật của Chúa. Vì là luật của Giáo Hội, nên Giáo Hội có thể thay đổi . Nhưng Giáo Hội - qua Thánh Giáo Hoàng John Paul II, Đức cựu Giáo Hoang Benedoct XVI  và Đức Thánh Cha đương kim Phanxicô đều đã cương quyết bác bỏ mọi khả năng có thể thay đổi luật trên, cũng như phải giữ vững luật không truyền chức cho nữ giới trong mọi trường hợp. Lý do rất chánh đáng là : Chúa Giêsu đã không mời phụ nữ nào , kể cả Đức  Maria, Mẹ Chúa - tham dự Bữa Ăn Sau cùng của Chúa với Nhóm 12 Tông Đồ. Nhân dịp này, Chúa đã lập hai Bí Tich rất quan trọng là Bí Tích Thánh Thể (Eucharistie) và Bí Tích Truyền Chức linh mục thừa tác (Ministerial Priesthood) khi Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : “Anh  em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” ( Lc 22: 19; 1 Cr 11: 25)

Do đó, Giáo Hội sẽ không bao giờ thay đổi các  luật trên. Amen.

Uớc mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra. 

Lm Phanxicô  Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tác giả: Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!