LM.F.X
Ngô Tôn Huấn
Để trả lời câu hỏi trên của một số độc giả, tôi xin được trả lời vấn gọn như sau
A- Trước hết là các THÁNH GIÁO
PHỤ (Church Fathers
Danh xưng
này được dùng để chỉ các Giám mục hay giáo dân đã có những tác phẩm hay bài viết, bài giảng
có nội dung giáo lý, (doctrines) tín lý
(dogmas) và thần học (Theology )
sâu sắc, tinh tuyền, phản ảnh trung thực
các chân lý của Đức Tin mà chính
Chúa Kitô đã giảng dạy, đã mặc khải và
truyền lại cho các Tông Đồ tiên khởi. Như
thế, các Giáo Phụ là những người không những có đời sống thánh thiên
gương mẫu mà còn
giảng dạy, quảng bá và bênh
vực các chân
lý của Phúc Âm để chống lại các
bè rối (heretics) và những kẻ dạy
sai lạc giáo lý tinh
tuyền do các Tông Đồ truyền
lại, như Thánh Phaolô đã nhắc nhở
môn đệ của ngài là Ti-mô-Thê như
sau:
"Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Kitô-Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã
giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn,
nhờ đó Thánh Thần ngự trong chúng ta."
(2 Tm 1: 13-14)
Lại nữa, Thánh Phaolô cũng lưu
ý môn đệ của ngài về nguy cơ có
những người dạy giáo lý sai lạc
như sau:
"Thần khí phán rõ ràng: vào những thời cuối
cùng, một số người sẽ bỏ đức tin và theo
những thần khí lừa dối, những giáo huấn
của ma quỉ, đó là trò giả hình của những tên
nói dối mà lương
tâm như bị thích dấu sắt nung." (1 Tm 4: 1-2)
Trước nguy cơ đó,
các Thánh Giáo Phụ của Giáo Hội là những
người từ thời sơ
khai đã đóng
góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và giảng dạy giáo lý
tinh tuyền đã được truyền lại từ các Thánh
Tông Đồ cho các người kế vị
các ngài để tiếp tục loan báo
Tin Mừng .và giảng dạy những chân lý của đức tin Kitô Giáo Cho mọi nước ,mọi dân tộc cho đến ngày mãn thời
gian tức là ngày tận thế khi không còn ai sinh sống trên mặt đất này nữa.
Trong hàng ngũ
các Thánh Giáo Phụ tiên
khởi, người ta phân biệt: các Giáo Phụ Hy Lạp (Greek Fathers) tức
các Giáo Phụ giảng dạy ở Đông Phương (trước
năm 1054 là năm hai Giáo Hội Công Giáo
Đông và Tây chấm dứt hiệp thông với nhau vì một số bất đồng về tín lý,
phụng vụ và quyền bính) trong khi các Giáo Phụ Latinh (Latin Fathers) giảng dạy ở Phương Tây,
nơi tiếng Latinh
là ngôn ngữ chính được dùng trong Phụng
vụ, học hành và giảng dạy.
Các Giáo Phụ được phân chia theo thởi
gian sống và giảng
dạy như sau
I- Trước
hết là Các Giáo Phụ Tông Đồ (Apostolic Fathers) tức
các Giáo Phụ sống rất gần
các Thánh Tông Đồ tiên khởi
trong khoảng giữa
thế kỷ thứ nhất và
đầu thế kỷ thứ
hai.
II-
Có 6 vị được biết đến như sau:
1- Thánh Barnabas (cuối thể kỷ 1 và đầu thế
kỷ 2).
2-
Thánh Clement of Rome (sống vào thế kỷ 1).
3- Thánh Ignatius of Antioch (thế kỷ 1).
4- Thánh Polycarp of Smyrna (mất
năm 156).
5- Thánh Hermas (đầu thế kỷ 2).
6-
Thánh Papias (đầu thế kỷ 2).
II- Thời Trường phái Alexandria tức
là vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai cho đến năm 315.
III- Thời
Hoàng Kim (Golden Age) là
thời các Giáo Phụ sống và giảng
dạy trong khoảng từ Công Đồng
Nicea (325) cho đến năm 444
A.D với các Giáo Phụ tiêu
biểu là thánh Basil (mất t năm 379)
Thánh Gregory Nazianzen (390), Thánh
John Chrysothom (407), Thánh
Anathasius (373). Các Giáo Phụ
này thuộc Giáo Hội Hy Lạp (Greek
Church). tức thuộc Giáo Hội Công Giáo
Đông Phương. Các vị thuộc
Giáo Hội Latinh, tức Giáo Hội Công Giáo Phương Tây, gồm có: Thánh
Ambrose (mất năm 397), Thánh Jerome (420) Thánh Augustine (430)
IV- Thời cuối cùng, từ năm 450
cho đến A.D 750.
Sau đây là các đại Giáo Phụ đã được xưng tụng trong toàn Giáo Hội :
1- Thánh Ambrose thành Milan (mất năm 397).
2- Thánh Augustine, Giám Mục Hippo cũng
là Thánh Tiến Sĩ Hội
Thánh (mất năm 430).
3- Thánh Jerome (mất năm 420).
4- Thánh Gregory of Nazianzen (mất năm 390).
5- Thánh Basil the Great (mất năm 379).
6- Thánh John Chrysostom ( mất năm 407)
7- Thánh Athanasius (mất năm 373).
Muốn được phong danh hiệu
Giáo Phụ, các Giám mục hay các nhà văn giáo dân phải có những
điều kiện sau đây:
1- Thứ nhất, phải sống trong
khoảng 6 thể kỷ đầu của Kitô Giáo, nghĩa là sống gần với thời các
thánh Tông Đồ tiên khởi, hay gần
các người kế vị theo sau các Tông Đồ; và do đó,
được hiểu biết rõ hơn về những chân lý của
Đạo thánh mà các Tông Đồ đã trực
tiếp lãnh nhận từ Chúa Kitô.
2- Có đời sống thánh thiện, đáng làm gương mẫu cho người khác.
3- Có viết sách
hay bài giảng nhiều ít để lại cho mục đích bảo vệ, gìn giữ và dạy dỗ
giáo lý đức tin đich thực
đã được mặc khải và truyền lại từ các Tông Đồ tiên
khởi.
4- Được Giáo Hội công nhận và phong thánh với danh
hiệu Thánh Giáo Phụ (Church
Fathers).
B- Các Tiến sĩ Hội
Thánh (Doctor of the Church)
Danh hiệu
Tiến Sĩ ở đây (Doctor) không đồng
nghĩa với học vị tiến sĩ được
trao cho các sinh viên đã đạt
trình độ kiến thức
cao nhất về một ngành chuyên
môn nào ở các Đại học trên thế giới. Trong Giáo Hội Công Giáo, ngược lại, danh xưng Tiến Sĩ (Hội Thánh), bắt nguồn từ nguyên
ngữ Latin "docere" có nghĩa là dạy dỗ. Danh hiệu này được trao tặng cho các vị nay
đã được phong thánh,
vì có đời sống thánh thiện và
có tác phẩm hay bài viết, bài giảng góp phần quan trọng
cho việc học hỏi các chân
lý đức tin vững
chắc và con đường nên thánh. thực dụng.
Nghĩa là, các Thánh Tiến
Sĩ là những người, khi còn sống, không
những đã có đời sống thánh
thiện, có linh đạo (spirituality) sâu sắc và
có ít nhiều chứng từ để lại với nội dung dạy dỗ và bảo
vệ đức tin chân chính, cũng như chỉ dẫn con đường nên thánh, đáng làm khuôn vàng
thước ngọc cho mọi người
trong Giáo Hội noi
theo để được nên
thánh và sống hạnh phúc đời
đời với Thiên Chúa trên Nước Trời.
Như thế, các Thánh Tiến sĩ
cũng là các thầy dạy
đức tin vững chắc, tức là dạy con đường
nên thánh với gương sống
thánh thiện của các ngài cho mọi người
trong Giáo Hội noi theo để được
nên thánh như các ngài.
Cụ thể, thánh Thérèse Giêsu
Hài Đồng (Thérèse of Lísieux, 1873-1897) mới có 15 tuổi, chưa học hết bậc
trung học, và đã được đặc
cách thâu nhận vào
Dòng kín Lisieux ( Pháp ) năm
1888. Nhưng sau chín năm sống
ở đây và mất năm 1897
khi mới 24 tuổi, đã để
lại cho Giáo Hội một di sản thiêng liêng
hiêm quý. Vì thế, bà đã được
phong Tiến Sĩ Hội Thánh năm 2000,
vì Giáo Hội nhìn nhận con đường tu đức đơn sơ nhưng
sâu sắc và gương sống thánthiên,
khiêm nhu của bà,
đáng làm khuôn
mẫu cho mọi người
trong Giáo Hội noi theo để được
nên thánh bằng "con đường thiêng liêng nhỏ bé (Little
Way)" mà bà đã sống và thực hành
suốt 9 năm trong
Dòng kín Lisieux.
Như vậy, các Thánh Tiến
Sĩ không
phải là những người, khi còn
sống, đã dạy những kiến thức
của người đời mà là
dạy con đường nên thánh với gương
sống và ảnh hưởng tinh thần
có sức lôi kéo
người khác học theo để nên
thánh, nên trọn lành
như Chúa Giêsu đã kêu gọi "Anh em hay nên hoàn thiện như Cha anh
em trên Trời là Đấng hoàn thiện."
(Mt 5: 48
Danh xưng Tiến Sĩ Hội Thánh phải được Đức Thánh
Cha hay một Công Đồng Đại kết (ecumenical
Council) nhìn nhận và công
bố cho toàn Giáo Hội học hỏi và noi
theo để sống
và thực hành đức tin
tinh tuyền cùng với đời sống thánh thiện mà Chúa Kitô đã giảng dạy và được lưu truyền từ các Thánh Tông Đồ cho đến các thế hệ
tiếp theo trong Giáo Hộ cho đến
ngày nay.i.
Về phía Tây phương, có bốn
Thánh Tiến Sì được tuyên
phong năm 1298 là các Thánh
Ambrose thành Milan (Ý), Thánh Jerome,
Thánh Augustine of Hippo và Gregory the
Great thuộc Giáo Hội Phương Tây.
Bên Đông
phương, cũng có bốn vị được tuyên
phong năm 1568 là các thánh
Athanasius, John Chrysotom (Miệng Vàng), Basil the Great và Gregory of
Nazianus.
Sau đây là danh sách các Thánh
Tiến Sĩ Hội Thánh xếp theo thứ tự năm
được phong Tiến Sĩ Hội Thánh:
1-
Thánh Thomas Aquinas năm 1567.
2-
Thánh Bonaventure, năm 1588.
3- Thánh Anselm of Canterbury
năm 1720.
4- Thánh Isidore of Serville,
năm 1722.
5- Thánh Peter Chrysologus, năm 1729.
6- Thánh Leo the Great, năm
1754.
7- Thánh Peter Damian, năm 1828.
8- Thánh Bernard of Clairvaux,
năm 1830.
9- Thánh Hilary of Poitiers,
năm 1851.
10- Thánh Alphonsus Liguori,
năm 1871.
11- Thánh Francis de Sales năm
1877.
12- Thánh Cyril of Alexandria,
Cyril of Jerrusalem, năm 1882.
13- Thánh John of Damascus,
năm 1890.
14- Thánh The Venerable Bede,
năm 1899.
15- Thánh Ephraem the Serian,
năm 1920.
16- Peter Canisius, năm 1925.
17- Thánh John of the Cross,
năm 1926.
18- Thánh Robert Bellarmine năm 1931.
19- Thánh Albertus Magnus, năm
1932.
20- Thánh Anthony of Padua,
năm 1946.
21- Thánh Lawrence of
Brindisi, năm 1959.
22- Thánh Teresa of Avila,
Catherine of Siena, năm 1970
23 Thánh Therese of Lisieux (Child
Jesus) năm 2000.
Chúng ta cầu
xin cùng các Thánh Giáo Phụ và Tiến
Sĩ cách riêng phù trợ
chúng ta trong đời sống thiêng liêng
và noi gương các ngài để
trở nên
thánh, vì "Cha chúng ta ở
trên trời là Đấng Thánh".
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, DMin (Doctor of Ministry-Tiến
sĩ Sứ Vụ)