Trong phạm vi bài viết này, tôi không muốn đề cập nhiều đến những lý thuyết hay nền
tảng thần học cũng như giáo lý của Giáo Hôi về vai trò và sứ mạng của linh mục
trong Giáo Hội, vì thiết nghĩ các linh mục và rất nhiều giáo dân ngày nay đều
biết rõ.
Điều tôi muốn nói ở đây là trong thực tế, linh
mục phải hành xử thế nào để xứng đáng là hiện thân của Chúa Kitô xuyên qua
chính đời sống, lời nói và viêcl làm của mình trước mặt ngườikhác trong đó quan
trọng là các tín hữu được trao phó cho mình săn sóc và phục vụ về mặt thiêng
liêng.
Với tư cách là cộng sự viên đắc lực, thân cận
và trung tín của Giám mục, linh mục thi hành sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và cai trị
trong giáo hội địa phương (tức Giáo Phận) với tất cả thành tâm, thiện chí và
xác tín về chức năng và vai trò của mình được nhận lãnh từ bí tích Truyền Chức
Thánh cho phép linh mục được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa KItô, “Thầy Cả Thượng Phẩm theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5: 10)
Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ngày nay, đặc
biệt là ở các nước Âu Mỹ, người ta không những bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa vật chất
vô luân (immoral materialism) mà đặc biệt còn bị ảnh hưởng ngày một nghiêm trọng
bởi trào lưu tục hóa (secularization,) đưa đến thực hành vô thần (practical atheism),
chối bỏ Thiên Chúa, “hạ bệ Kitô hóa” (de-christionization)
và dửng dưng với mọi tôn giáo nói chung (Indifference to religions).
Thực trạng này đang là một thách đố to lớn cho
những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa tốt lành, đã yêu thương và tha thứ
cho con người nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Cứu Thế Giêsu- Kitô.
Để đối phó với trào lưu nguy hại nói trên, ngày 12 tháng 10 năm 2012,
Tòa Thánh đã công bố quyết định mới của Đức Thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 (nay đã
về hưu) cho thiết lập một Văn Phòng hay Hội Đồng mới của Tòa Thánh (New
Pontifical Council) với chức năng Tân Phúc Âm hóa (New Evangelization) như một
nỗ lực nhằm chống lại khuynh hướng tục hóa ở các quốc gia Âu Châu và Mỹ châu nói chung. Hội Đồng này do Đức Tổng Giám
Mục Rino Fisichella làm Chủ Tịch.
Sự kiện trên cho thấy là Đức Thánh Cha đã tỏ ra
rất quan tâm về nguy cơ tục hóa đang đe dọa những giá trị và chân lý của Phúc
Âm cũng như đời sống luân lý, đạo đức của con người nói chung, và cách riêng, của
người tín hữu Chúa Kitô đang sống trong hoàn cảnh suy đồi đạo đức của thế giới ngày
nay.
Đặc biệt, Đức Thánh Cha đương kim Phanxicô đã
lưu ý toàn Giáo Hội về thực trạng “tôn
thờ tiền bạc” (cult of money) của
thế giới, là nguyên nhân chính của mọi bất công xã hội và thống khổ của con người
đang sống dưới quyên cai trị của những kẻ tham tiền, tham quyên cố vị để vơ vét
của cải vật chất và dửng dưng trước sự
nghèo đói và bất công của xã hội dưới quyền cai trị tàn bạo của họ..
Riêng đối với hang giáo sĩ tu sĩ, Đức Thánh Cha
Phanxicô không những khuyên mà còn làm gương cụ thể cho mọi người về đức khó
nghèo của Phúc Âm và cũng là linh đạo của Thánh Phanxicô Khó khăn mà Đức Thánh
Cha đã chọn làm thánh hiệu cho triều đại Giáo hoàng của ngài. Cụ thể, mói đây Đức
Thánh Cha Phanxicô đã ngưng chức một giám mục Đức vì đã phung phí tài sản của Địa
Phân để xây biệt thự lộng lẫy cho mình, trái với lời khuyên khó nghèo của Phúc
Âm.
Như thế, linh mục phải là người nêu gương sáng
trước tiên về đời sống và tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, “Người vốn giầu sang
phú quí, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo
vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” ( 2 Cr 8: 9).
Cụ thể,
Linh mục cần thiết phải :
I- Tách
mình ra khỏi dính díu với mọi quyền lực và tham vọng trần thế để không
vô tình hay cố ý làm tay sai cho một chế độ chính trị nào để cầu lợi cá nhân và
nhiên hậu gây thương tổn nặng nề cho chức năng (competence) và vai trò của mình
là linh mục của Chúa Kitô.
Trong điễn từ đọc tại Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Mẹ
Lên Trời ở Parlemo (Italia) trước hàng trăm Giám mục, Linh mục, và Tu sĩ nam nữ
ngày 3 tháng 10 năm 2012, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 (đã về hưu) đã nói riêng với các linh mục hiện diện như
sau “chính Chúa Kitô, chứ không phải thế gian - đã thiết lập cương vị
cho linh mục”… Và với cương vị đó, linh mục phải luôn chú tâm đến ơn cứu độ và
Vương Quốc của Thiên Chúa.” (Christ establishes the priest’s status,
not the world… as a priest, he must be
always with a view to salvation and the Kingdom of God. ( cf.L’ Osservatore Romano. Oct 6, 2010). Hơn nữa, linh mục “không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu
không là chứng nhân và là người ban phát
một đời sống khác với đời sống thế tục” (cf. Presbyterium Ordinis.no.3)
Nói khác đi, linh mục chỉ có một vai trò và chức
năng quan trọng nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và làm chứng
cho Chúa trong mọi hoàn cảnh để phục vụ hữu hiệu cho các linh hồn đang cần đến Chúa
và mong lãnh nhận ơn cứu độ của Người. Do
đó, linh mục tuyệt đối không có chức năng chính trị hay xã hội nào để tự nguyện
làm tay sai phục vụ, tâng bấc, ca tụng hay chống đối một chế độ nào vì lý do thuần
chính trị
Nhưng, nếu chế độ nào, không tôn trọng nhân quyền
(human rights), - nhưng không phải nhân quyền của thần học giải phóng, là thứ
nhân quyền cổ võ đấu tranh giai cấp, tạo ra những “đàn két” chỉ biết ca tụng bợ
đợ chế độ để an thân trục lợi - mà là những
quyền căn bản của con người, như quyền tự do phát biểu, quyền tự do tôn giáo, tự
do tín ngưỡng, quyền hành Đạo trong đó bao gồm việc tổ chức, đào tạo, và bổ nhiệm các chức sắc lãnh
đạo trong giáo hội địa phương. Nếu chế độ không tôn trọng những quyền căn bản này cũng như dung dưỡng cho những sa dọa, suy thoái về luân
lý, đạo đức trong xã hội cai trị, thì
linh mục - và nhất là Giám mục - phải có
can đảm lên tiếng đòi hỏi chế độ phải tôn trọng những tư do căn bản và
thiêng liêng của con người, cũng như mạnh mẽ
lên án thực trạng suy thoái đạo đức và luân lý để đòi nhà cầm quyền dân
sự phải có biện pháp thích đáng để lành mạnh xã hội hầu tạo môi trưởng thuận lợi
cho sự phát triển lành mạnh đời sống tinh thần và đạo lý của người dân.
Xã hội vô luân, vô đạo và đầy bất công sẽ xô
nhanh người dân xuống hố diệt vong vì thiếu nền tảng tinh thần cần thiết để giúp
phân biệt con người với mọi loài cầm thú chỉ có bản năng và vô lương tri.
Như thế, làm ngơ hay nhắm mắt bịt tai trước những
vi phạm về quyền thiêng liêng của con người và tụt hậu về luân lý, đạo đức, sẽ
trở thành đồng lõa với chế độ, với xã hội làm phát sinh mọi tội ác vì thiếu căn
bản đạo làm người.
II- Trong lãnh vực giảng dạy chân lý và cử
hành các Bí tích,
Không linh mục nào được phép dạy và thực hành
giáo lý, bí tích riêng của mình mà phải dạy cũng như thực hành đúng giáo lý (doctrines),
tín lý (dogmas) và kỷ luật bí tích của Giáo Hội,
Cụ thể, Giáo Lý và Kinh Thánh của Giáo Hội nhìn
nhận sự kiện có tội Tổ Tông (Original sin) do Nguyên Tổ loài người là Adam và
Eva vấp phạm khiến con người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Nhưng chính tội bất
trung này của Nguyên Tổ loài người lại được Giáo Hội sau này ca ngợi là “Tội
sinh ơn phúc” (Felix culpa) vì bởi tội
này mà Thiên Chúa đã sai Con Một của Người
là Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội. Ơn cứu chuộc và tha thứ này của
Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội bất trung của Nguyên Tổ rất nhiều như Thánh
Phaolô đã nói: “Nhưng
sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa… Thật vậy,
nếu vì một người duy nhất đã sa ngã mà muôn người phải chết thì ân sủng của
Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô còn dồi dào hơn biết mấy
cho muôn người.” (Rm 5: 15).
Sở dĩ phải nói lại điều trên đây, vì có linh mục
kia đã giảng dạy là không thể áp dụng.
Như thế ai phủ nhận hay đặt vấn đề “tội Tổ
Tông” dưới ánh sáng tâm lý học là đã đi ngược lại với giáo lý hiện hành của
Giáo Hội về vấn đề rất hệ trọng này. (x. SGLGHCG, số 402-407)
Mặt khác, cũng vì tội Nguyên Tổ đã gây ra “sự chết của linh hồn” như Công Đồng
Trentô đã dạy (DS 1512), mà Giáo Hội cử
hành bí tích Rửa Tội để xỏa hết mọi hậu quả của tội nguyên tổ mà còn tha một lần tất cả mọi tội cá nhân con người đã phạm
cho đến lúc lãnh nhận Phép Rửa.
Cũng liên quan đến vấn đề tội và Phép Rửa, Giáo
Hội chỉ ban bí tích này cho người còn sống (trẻ con và người lớn) chứ không hề
dạy phải rửa tội cho người chết qua trung gian người sống như một linh mục kia
đã “có sáng kiến phăng ra” để gây hoang mang cho giáo dân về vấn đề này.
Liên quan đến bí tích Thánh Thể, không có
giáo lý, giáo luật nào dạy mọi người tham dựThánh Lễ đều được rước Minh,
Máu Thánh Chúa, vì cho rằng đây là bữa tiệc Chúa mờ mọi người tham dự ăn và uống không phân biệt
Công Giáo hay Tin lành, trẻ em đã rước lễ lần đầu hay chưa. Ngược lại, giáo lý
và giáo luật nói rõ: ai mắc tội trọng,
chưa kịp đi xưng tội thì không được làm lễ (linh mục) và rước Minh Thánh Chúa (giáo
dân). ( x, giáo luật số 916; SGLGHCG số 1415).
Như vậy, không thể mời hết mọi người tham dự
Thánh Lễ ở tư gia hay ở nhà thờ lên rước Mình Máu Thánh Chúa lấy lý do là Chúa
đã tha hết mọi tội cho con người, như một số linh mục Việt Nam, Mỹ, và Cadada
đã làm. (có nhân chứng kể lại). Chúa tha thứ tội lỗi cho con người. Đúng, nhưng
người ta vẫn còn phạm tội trở lại vì bản tính yếu đuối và vì được tự do chọn lựa
sự lành sự dữ để hoặc sống cho Chúa, sống theo đường lối của Người hay muốn sống
theo thế tục, theo “văn hóa của sự chết”
đang tràn lan khắp nơi trên thế giới ngày nay.
Lại nữa, linh mục cũng không được phép từ chôi
ban bí tích rửa tội, rước lễ lần đầu hay
chứng hôn cho ai, vì cha mẹ của trẻ em hay người lớn không đóng đủ tiền cho
giáo xứ như đã xẩy ra ở một địa phương kia. Đáng nói hơn nữa, linh mục chánh xứ
không được phép đe doa “rút phép thông công = ex-communion” cho ai vì bất cứ lý
do gì. Chỉ có Giám mục Giáo phận mới có quyền ra vạ tuyệt thông hậu kết (ferendae
sententiae) cho ai ngoan cố không chịu sửa lỗi sau khi đã được cảnh cáo nhiều lần ( x. giáo luật số 1314)
Linh mục không được biến lễ tang (Funeral mass)
thành lễ Phong Thánh (Canonization Mass) cho ai khi giảng rằng linh hồn này chắc
chắn đã lên Thiên Đàng rồi, vì đã được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa Thánh trước
khi chết!
Giáo lý và bí tích của Giáo Hội chỉ qui định việc
sức dầu thánh, ban của ăn đàng (Viaticum) cũng như nghi thức phó linh hồn cho
ai sắp ly trần, nhưng không hề dạy là nếu ai được xức dầu và lãnh Phép lành Tòa
Thánh trước khi chết thì chắc chắn đã lên Thiên Đàng. Lên Thiên Đàng hay xuống
hỏa ngục, hoặc đang còn ở nơi Luyện tội, Giáo Hội chỉ dạy cầu nguyện cho các
linh hồn đã ly trần, dù là thường dân, hay linh mục, giám mục hoặc giáo hoàng
Giáo Hội có phong thánh cho ai thì cũng phải
đòi hỏi thời gian và những điều kiện cần thiết, chứ chưa hề tức khắc phong
thánh cho ai ngay sau khi người đó chết, dù là các Đức Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám
mục…
Với tư cách và cương vị là thừa tác viên và là
hiện thân của Chúa Kitô trong trần thế, linh mục không thể coi nhẹ cương vị của
mình để dễ dãi tham gia giúp vui trong những bữa tiệc cưới, đứng lên ca hát hoặc
kể chuyện tếu. Nói rõ hơn, linh mục không nên ôm cây đàn, ca hát và nhảy nhót với
ai vì mục đích ca tụng quê hương, đất nước hoặc gây quỹ cho cá nhân hay cơ quan,
đoàn thể nào. Làm như vậy, linh mục đã quên cương vị của mình khi tự cho phép hòa
mình vào những sinh hoạt có tinh chất thế tục.
Sân khấu và nơi tổ chức ca hát, nhảy nhót. Chắc
chắn không phải là nơi tụ họp, giúp vui của linh mục. Chỗ đứng và nơi trình diễn
của linh mục là bàn thánh, là giảng đài (pulpit) và Tòa giải tội, tức là những
nơi linh mục thi hành tác vụ thánh đã được lãnh nhận từ Bí Tích Truyền Chức
Thánh và năng quyền thi hành từ giám mục mình trực thuộc để phục vụ cho những lợi
ích thiêng liêng của giáo dân.
Linh mục cũng không nên làm các nghề của người
đời như bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư v.v để quảng
cáo kiêm thân chủ và kiếm tiền như nhũng người làm các nghề chuyên môn này. Chỗ
đứng và chức năng (competence) của linh mục là rao giảng lời Chúa, dạy dỗ chân
lý và thánh hóa mình và người khác qua việc cử hành các Bí Tích Thanh Tẩy,
Thánh Thể, Hòa giải và xức dầu bệnh nhân, dạy giáo lý, Kinh Thánh chứ không phải ở phòng mạch, nhà bán thuốc, văn phòng cố
vấn pháp luật v .v. Đây là một khuyết điểm lớn của Tu Hội hay nhà Dòng nào cho
phép tu sĩ linh mục của mình làm những ngành nghề nói trên để kiếm tiền cho nhà
Dòng, Tu Hội. Chúng ta tin rằng mỗi người Chúa ban ơn gọi riêng và khả năng
riêng để sống và phục vụ. Do đó, không thể vừa làm linh mục vừa làm ca sĩ hay
bác sĩ y khoa, hay giáo sư được. Tuy nhiên, cũng có trường hợp một số bác sĩ,
luật sư, kỹ sư hay giáo sư đang hành nghề thì cảm thấy ơn goi đi tu làm linh mục.
Nhưng sau khi trở thành linh mục, thì thôi không hành nghề chuyên môn kia nữa để
dành tâm trí và thì giờ cho Sứ vụ linh mục
(priestly ministries), một “ngành nghề” không dính dáng gì đến việc bon chen để
kiếm tiền, làm giầu như các ngành nghề khác trong xã hội.
Tóm lại, là Linh mục của Chúa Kitô giữa trần
gian, đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội khắp
nơi ngày một thêm “tục hóa” và vô luân hiện nay, mọi linh mục đều được mong đợi
sống sao cho người đời, cách riêng cho người tín hữu dễ nhận ra Chúa Kitô, Đấng
đến và trở nên Con Người không phải để đồng hóa với người phàm trong mọi chiều kích thế tục
mà trở nên Con Người để cứu chuộc và thần
linh hóa (divinize) loài người hầu cho phép con người được sống hạnh phúc và
“thông phần bản
tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh
hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian”
này như Thánh Phêrô đã dạy. ( 2 Pr 1:4).
LM. Phanxiô Xaviê Ngô Tôn Huấn. MDiv, MA. Dmin =
Tiến Sĩ Sứ Vụ) (Houston,
Texas, USA)