Trần Mỹ Duyệt
Để tôn vinh Thiên
Chúa, và để đề cao nhân đức của Thánh Giuse, Thánh Giuse - Bạn trăm năm Đức
Trinh Nữ Maria, ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích
công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares
Llovera và Đức Tổng Giám Mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse
Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh
nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria. Trước
đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).
Sắc lệnh viết:
“Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng
Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành
nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu
nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên
mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin
Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức
nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích
thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau
khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình
dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá
của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng
tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là
Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch). (Lm.Giuse Nguyễn Hữu An,
Vietcatholic.net, 17/Mar/2018)
Vậy Giuse là ai?
Không có một tài liệu
nào nói rõ ràng, đầy đủ về ngài. Thánh Kinh cũng chỉ nhắc đến ngài thuộc hoàng
tộc David, “Giuse là con vua David”, nhưng từ David đến Chúa Giêsu đã 28 đời.
Theo thánh sử Mátthêu: “Từ David đến thời lưu đày ở Babylon là mười bốn đời, và
từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời” (Mátthêu 1:17).
Cho nên có thể nói rằng nếu Giuse sống bằng nghề thợ mộc thì cũng không gì khó
hiểu, vì cái gốc gác hoàng tộc ấy đến ngài cũng đã quá xa.
Cuộc hôn nhân giữa
Giuse và Đức Maria, theo Ngụy Kinh (Apocryphal Gospel) của Giacôbê có ghi, khi
Maria đến tuổi dậy thì, các thượng tế đã nghĩ đến chuyện thành hôn cho Maria,
vì sợ rằng với tuổi ấy những chuyện không tốt có thể xảy đến cho Đức Maria và
liên quan đến đền thờ. Câu chuyện bắt đầu bằng việc các thượng tế kêu gọi những
trai tráng có đủ điều kiện, mỗi người phải mang một nhánh cây hoặc một cây gậy
lên Đền Thờ cầu nguyện. Nếu nhánh cây hoặc gậy của người nào có dấu hiệu lạ xảy
ra, người đó sẽ là chồng của Maria. Cuộc hôn nhân này được tác thành bởi các
thượng tế vì Maria đã được cha mẹ là Gioankim và Anna gửi vào Đền Thờ lúc còn
rất trẻ.
Giữa những cây gậy,
nhánh cây của các thanh niên, trai tráng mang đến, gậy của Giuse bỗng nở hoa.
Giuse đã được chọn làm chồng của Maria. Và đó cũng là lý do tại sao trong các
ảnh vẽ, các tượng của thánh Giuse sau này đều có cằm một cây gậy nở hoa. Nó
cũng là dấu hiệu đời sống thánh thiện, trinh khiết của ngài khi kết hôn và sống
với Đức Nữ Trinh Maria trong đời sống hôn nhân sau này.
Để tỏ sự tôn kính Đức
Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, các dịch giả hoặc trước tác Việt Nam cố gắng
tránh danh từ “chồng” khi nói về Giuse đối với Đức Maria, thay vào đó dịch là
“bạn” bạn trăm năm, bạn thanh sạch của Đức Mẹ. Danh từ “cha” của ngài đối với
Chúa Giêsu được dịch là “bõ nuôi”, “cha nuôi”, “dưỡng phụ”, hoặc “nghĩa phụ”.
Nhưng chính Đức Maria đã cải chính và sửa lại quan niệm này. Mẹ không ngần ngại
nhận Giuse là chồng, và là bố của Giêsu. Thánh Kinh ghi lại điều này khi gia
đình lạc nhau lúc trẻ Giêsu lên 12 tuổi. Trong đền thờ: “Khi thấy con, hai ông
bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Luca 2:48).
Dĩ nhiên, người chồng
và người cha ở đây không chỉ hiểu theo một nghĩa thông thường, và Thánh Giuse
cũng không phải người bình thường bởi vì Đức Maria là Trinh Nữ rất thánh, đồng
trinh trước, đang, và sau khi sinh con. Thánh Giuse đã phải đối diện với vấn
nạn này và ngài quyết tâm ly dị người hôn phu của mình vì nàng có thai mà không
rõ lý do? Suy nghĩ và quyết định này phải cần đến sự can thiệp của Thiên Chúa.
Ngài đã mặc khải cho ông về ý định của Ngài như sau: “Nhưng khi ông đang suy
nghĩ về những chuyện này, thiên thần Chúa xuất hiện với ông trong giấc ngủ và
bảo, “Giuse con David, đừng sợ nhận Maria làm vợ: vì người con trong lòng bà là
bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông đặt tên người là Giêsu”
(Mátthêu 1:20-21). Người con ấy là do Chúa Thánh Thần, tên là Giêsu cũng là
người con của ông, vì ông là người đặt tên cho người con đó. Ngoài ông ra, ai
có quyền đặt tên cho đứa trẻ? Và người mà đặt tên cho con, đương nhiên phải là
người cha.
Trong những giao tiếp
thường ngày, người ta thường chào nhau bằng những danh hiệu phù hợp với địa vị
xã hội và trình độ học vấn. Thí dụ, bác sĩ, dược sĩ, luật sư, giáo sư, bộ
tưởng, tổng trưởng, dân biểu, nghị sĩ, hoặc tổng thống. Giới giới tu hành, thì
được xưng hô là tu sĩ, linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng, thượng
phụ giáo chủ, hoặc thượng tọa, hòa thượng, đại đức, tăng thống… Nhưng không
thấy có ai được xưng tụng bằng danh hiệu “công chính”. Lý do vì không ai dám tự
nhận cho mình danh hiệu này. Ðiều con người không dám làm và không làm được,
thì Thiên Chúa lại làm. Trước đây 2000 năm, Ngài đã cho gọi đích danh một
người, và ban cho người ấy danh hiệu “công chính”: “Giuse là người công
chính” (Mátthêu1:19). Và cũng từ đó, danh tính ấy và con người ấy
đã gắn liền với cuộc đời và sứ mạng cứu thế của Ðức Giêsu, cũng như của mẹ Ngài
là Trinh Nữ Maria.
Mặc dù Thánh Kinh
không nói nhiều về ngài - cũng như Ðức Maria - Thánh Kinh đã nói đủ
để ta biết ngài là ai, làm gì, và sống như thế nào. Tiểu sử của ngài thực ra
không phải là không được nhắc tới. Cùng với Maria, người vợ đồng trinh của mình,
Giuse cũng được nhắc đến một cách vừa đủ để không bị ảnh hưởng đến những gì mà
Thánh Kinh cần viết, và cần nói về Chúa Giêsu, Ngài mới là nhân vật chính.
Tóm lại, Thánh Giuse
theo Thánh Kinh thuộc hoàng tộc Ðavít. Quê quán tại Belem, sinh sống và hành
nghề thợ mộc tại Nazareth (x. Lc 2:4). Ngài kết hôn với Maria, con GioanKim và
Ana. Ngài có người con trai là Giêsu. Ngoài những bạn bè, những người thân
thương trong làng xóm, ngài cũng đã từng gặp gỡ các mục đồng trong đêm Ngôi Hai
Thiên Chúa giáng trần, tiên tri Simêon và Ana khi đem Chúa Giêsu đi cắt bì tại
Giêrusalem. Nhất là được hân hạnh đón tiếp những nhân vật lỗi lạc như 3 nhà đạo
sĩ trong thời gian Hài Nhi Giêsu vừa mới sinh tại Belem: “Sau khi Chúa
Giêsu sinh tại Belem xứ Giuđêa thời vua Hêrôđê, các đạo sĩ từ Ðông Phương đã
tới Giêrasalem và hỏi: “Vua Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã
thấy ngôi sao Ngài xuất hiện và chúng tôi đến để triều bái Ngài” (Mátthêu
2:1-2).
Về ngày sinh và ngày
qua đời của ngài không ai biết rõ, nhưng phần đông các học giả Thánh Kinh vẫn
cho rằng ngài qua đời trước khi Chúa Giêsu bước vào con đường hành động công
khai. Trên thập giá, không thấy Ðức Giêsu nói về người cha đáng kính ấy của
mình, nhưng đã trối mẹ của mình lại cho Gioan, môn đệ yêu dấu: “Gần
thập giá Chúa Giêsu, đứng đó có mẹ Ngài, và chị họ mẹ Ngài là Maria vợ ông
Clôpas, và Maria Mađalêna. Trông thấy mẹ mình cùng với môn đệ Ngài yêu dấu,
Chúa Giêsu nói với mẹ Ngài: “Hỡi bà, này là con bà”. Rồi nói với môn đệ: “Này
là mẹ con”. Và từ giờ đó, môn đệ đem người về nhà mình” (Gioan 19:25-27).
Tiểu sử của ngài như
vừa được tóm lược một cách đơn giản trong Thánh Kinh, tuy ít, nhưng cũng đủ để
ta hiểu về ngài chỉ trong một câu đơn giản: “Giuse là người công chính”. Sự
công chính là thuộc về Thiên Chúa. Do đó, khi thiên thần gọi Giuse là công
chính, là ngụ ý rằng Thiên Chúa đã sẵn lòng thông ban cho ngài một phần vinh
quang, một phần sự tốt lành, và một phần thánh đức của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhưng thánh Giuse đã
sống và hành động như thế nào để xứng đáng với danh hiệu công chính?
ÐỒNG
TRINH
Nhân đức nổi bật, lạ
lùng, cao siêu nhất của Thánh Giuse là “đồng trinh”. Không thấy Giáo Hội và
truyền thống Giáo Hội nói gì về sự đồng trinh nguyên thủy của ngài như đã từng
nói về Bạn Ðồng Trinh của ngài là Trinh Nữ Maria. Nhưng vì Ðức Maria là đấng
đồng trinh: đồng trinh trước khi sinh con, đang khi sinh con, và sau khi sinh
con. Khi được Tổng Thần Gabriel đề cập đến vai trò làm mẹ Ðấng Cứu Thế trong
ngày Truyền Tin, Mẹ đã trả lời rõ ràng: “Việc ấy xẩy ra thế nào được,
vì tôi giữ mình đồng trinh” (Luca 1:34). Từ sự đồng trinh của
Ðức Trinh Nữ Maria, đã cho thấy đức đồng trinh của Thánh Giuse. Có thể nói một
cách hợp lý rằng đức đồng trinh của Ðức Maria làm rạng ngời đức đồng trinh của
Thánh Giuse, và nhờ đức đồng trinh của Thánh Giuse mà đức đồng trinh của Mẹ
Maria được bảo đảm như đã được Thánh sử Mátthêu ghi lại: “Sau đây là gốc
tích của Ðức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse. Nhưng trước
khi hai ônb bà về chung sống với nhau, bà đã mang thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần. Giuse chồng bà, là người công chính không muốn tố giác bà, nên đã định
tâm bỏ bà cách kín đáo” (Máttthêu 1:18-19).
Ðể hiểu thêm về đức
đồng trinh cao cả ấy, ta cũng nên biết thêm rằng trên nguyên tắc, Ðức Maria là
vợ của Thánh Giuse. Bổn phận hay trách nhiệm làm vợ của một phụ nữ trong đời
sống hôn nhân gia đình gắn liền với bổn phận và trách nhiệm làm mẹ. Do đó, sinh
lý trong hôn nhân, không những chỉ là phương tiện truyền sinh, mà cũng là một
hành động của tình yêu đôi lứa, của sự gắn bó vợ chồng. Ở đây, Giuse và Maria
đã nâng giá trị hôn nhân và đời sống vợ chồng lên một mức thánh đức trọn hảo,
tuyệt vời nhờ vào đức đồng trinh của hai đấng. Cả hai đã sống với nhau và đối
xử với nhau như các thiên thần trên trời như Chúa Giêsu đã mặc khải: “Quả
thật, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ, lấy chồng, nhưng sẽ giống như
các thiên thần trên trời” (Mátthêu 22:30). Có thể một số người cho
rằng cuộc sống vợ chồng như thế là không ai thực hiện được, nhưng Phaolô Tông
Ðồ cũng đã cho biết, người ta có thể sống như thế khi viết: “Những ai
có vợ hãy sống như không có vợ”. (1 Cor 7:29)
Thánh Giuse đã làm nổi
bật và kiện toàn tình yêu cao cả dành cho Ðức Maria khi tôn trọng sự đồng trinh
của Ðức Mẹ, mặc dù sau này qua lời thiên thần Ngài mới biết đó là ý muốn và ý
định của Thiên Chúa: “Giuse con Ðavít đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và
ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.
Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ:
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mátthêu
1:20-23). Một người không có tình mến thẳm sâu, không kính sợ Thiên
Chúa như Thánh Giuse, thì những lời ấy vẫn không ngăn cản được ý định và ước
muốn của bản năng, nhất là bản năng ấy được xử dụng trong hoàn cảnh hợp tình,
hợp lý và hợp pháp như trong đời sống vợ chồng. Và điều này càng làm cho Thánh
Giuse trở thành cao cả, và đáng mến biết bao.
KHIÊM
NHƯỜNG
Sau đức đồng trinh của
Thánh Giuse, ta hãy nhìn tới đức khiêm nhường của ngài.
Như đã được nhắc tới
trong Thánh Kinh, Thánh Giuse xuất thân từ dòng tộc Ðavít. Ngài là một người
thuộc hoàng tộc. Ðiều này càng làm cho đức khiêm nhường của Ngài thêm sáng
chói, nếu đem cộng thêm thiên chức cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài là “làm
chồng đồng trinh của Ðức Maria, và làm cha nuôi Chúa Cứu Thế”.
Cả dân tộc Do Thái
thời bấy giờ và trong suốt thời gian Cựu Ước, ngày đêm trông mong sự xuất hiện
của Ðấng Cứu Thế. Ai trong các thiếu nữ Sion cũng muốn mình lấy chồng, và mơ
màng một ngày nào đó được làm mẹ Ðấng Thiên Sai. Ðó là sự nôn nóng và nô nức tự
nhiên, hợp tình, hợp lý. Một giấc mơ thánh thiện.
Một cách tương tự, ai
trong các thanh niên Do Thái lúc bấy giờ mà chẳng muốn mình làm cha Ðấng Thiên
Sai. Còn gì vinh dự, hãnh diện và hạnh phúc hơn là từ gia đình mình, từ dòng dõi
mình xuất hiện Ðấng Cứu Thế. Ðây là một vinh dự lớn và không dễ gì đã có ai bỏ
qua. Nhưng trường hợp của Thánh Giuse lại khác hẳn. Ngài sẵn sàng bỏ qua ý
tưởng đó, chỉ muốn sống một cuộc đời khiêm nhường. Ngài đã chỉ vì yêu mến Thiên
Chúa mà chấp nhận vai trò và danh dự làm “cha nuôi” Ðấng Thiên Sai mà thôi.
Thánh Giuse đã rất
giản dị, bình dân, và khiêm tốn. Thánh Kinh không thấy chỗ nào nói tới việc Ðức
Maria nhận mình là Mẹ Thiên Chúa - Ðấng Thiên Sai. Cũng vậy, không thấy chỗ nào
Thánh Giuse đã nói, hoặc cho ai biết mình là cha của Ðấng Thiên Sai. Cả hai,
Ðức Maria và Thánh Giuse không những không nói cho ai biết về cái bí mật mà mọi
người đang hăm hở kiếm tìm ấy, mà cũng không hành xử như một người làm mẹ hay
làm cha của Ðấng Cứu Thế. Ðây là một hành động hết sức khiêm nhường. Một nhân
đức sáng ngời và trổi vượt của Thánh Giuse trong những nhân đức phi thường mà
Ngài đã sống với trong cuộc hành trình dương thế của mình bên cạnh Ðức Maria và
Chúa Giêsu.
KHÓ
NGHÈO
Giầu có về ân sủng và
nhân đức, nhưng cuộc sống trần thế của Thánh Giuse luôn luôn lận đận với cái
nghèo. Người ngoài sẽ không biết rõ được gia đình của Giuse và Maria nghèo đến
thế nào nếu như không có biến cố Giáng Sinh tại Belem. Thánh Kinh ghi rõ, cả
hai đều bị từ chối và không tìm được một nơi trú ngụ giữa các hàng quán quanh
thành. Luca đã ghi lại chi tiết nghèo của thánh gia trong thời gian lưu lại ở
Giêrusalem: “Bà sinh con trai đầu lòng, quấn tã lót và đặt trong máng
cỏ, vì họ không tìm được chỗ trong các quán trọ” (Lc 2:7). Có thể là
vì số người đã nhiều mà các quán trọ không đủ phòng ốc. Cũng có thể là nhìn
thấy Maria đang mang thai và như đang gần ngày sinh. Nhưng lý do nghèo của hai
người là chính. Có tiền bạc đầy đủ và giầu có thì kiếm đâu không có phòng trọ?
Nhưng vì nghèo, nên cả hai đã phải tạm trú tại một chuồng bò ngoài thành. Và
trong hoàn cảnh ấy, Thiên Chúa đã hạ sinh và ở giữa chúng ta.
Sự nghèo nàn của thánh
gia còn được thấy khi trong nghi lễ hiến dâng Hài Nhi Giêsu. Vì nghèo không đủ
tiền mua những lễ vật giá trị hơn, nên cha mẹ của Giêsu chỉ mua được một đôi
chim gáy hay một cặp bồ câu non (x Lc 2:22-24), những lễ vật thuộc giới bình
dân và nghèo. Nhưng đó là một cái nghèo tự nguyện. Một đời sống nghèo của người
công chính, không chộp giật, không bon chen, và không tham lam. Với số vàng,
nhũ hương và mộc dược ba nhà đạo sĩ dâng tặng trong lần họ đến bái yết Hài Nhi
Giêsu chắc dư dùng cho gia đình nếu như Giuse và Maria có lòng tham lam muốn
giữ làm của riêng. Nghề thợ mộc ở vào thời điểm của Thánh Giuse chắc cũng không
phải là nghề không kiếm ra tiền, nhất là với tay nghề vững chãi, kinh nghiệm,
cộng với sự nhiệt tâm, chịu khó của ngài. Do đó, cái nghèo của Thánh Giuse hiển
nhiên là một đức nghèo trọn lành của Phúc Âm. Nó phát xuất từ tâm hồn đơn sơ,
phó thác và tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Quan Phòng.
Đặt chân đến Nazareth,
khách hành hương như hơi thất vọng với một thành phố mà cho mãi đến ngày nay
vẫn hiện lên nét nghèo, với đường xá chật chội, gập ghềnh sỏi đá, nhà cửa không
gì mấy khang trang. Nazareth bây giờ cũng chỉ có thể so sánh với những thành
phố nghèo ở Việt Nam, Lào, Cao Mên, Mễ, Phi luật tân, hay một nước nào đó bên
Phi Châu, trung Đông kém mở mang. Thành phố gồm những căn nhà nhỏ bé, những hẻm
đường với những cửa hàng buôn bán bày ra cả lối đi. Đường vào thánh đường Cana
hẹp, khó đi, luồn lách qua các ngõ hẻm.
Nhưng đây lại là nơi
Thánh Gia lập nghiệp và định cư, nơi Con Thiên Chúa ẩn dật, che dấu thân phận
Thiên Chúa của Ngài cho đến khi xuất hiện công khai năm lên 30 tuổi. Gần ba
mươi năm sống trong thôn làng nhỏ bé này, chắc Chúa rành rẽ đường đi, nước
bước. Và vì có dịp làm quen với những người nghèo, nếp sống nghèo nên sau này
Chúa thường dùng những ví dụ thực tế, dễ hiểu của đời thường để nói về những
mầu nhiệm nước trời. Thí dụ, dụ ngôn người gieo giống, hạt cải, cây vả, cây
nho… ngay cả đến hình ảnh của một người con phung phá, ông phú hộ.
Nghèo và những người ở
đây cũng chân chất đến nỗi chính Nathanael khi được Philip mời gia nhập đoàn
với các Tông Đồ, đã tỏ ra hoài nghi về Chúa Giêsu vì Ngài xuất thân từ
Nazareth: “Ở Nazareth có gì hay ho đâu” (Gioan 1:46). Ý ông nói: “Đất sỏi làm
gì có chạch vàng?”. Vỹ nhân làm sao xuất thân từ nơi khỉ ho cò gáy như thế?
Không chỉ có Nathanael là người Bethsaida đồng quê với Phêrô và Andrê, ngay
trong dân làng Nazareth họ cũng tỏ dấu nghi ngờ Chúa Giêsu khi họ nghe Chúa
giảng dậy và làm những phép lạ: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn
ngoan như vậy nghĩa là làm sao?” (Máccô 6:2).
ÂM
THẦM
Do khiêm nhường và tâm
tình khiêm tốn, nên Thánh Giuse đã hoàn toàn âm thầm và giữ đúng vai trò trung
gian của mình giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Giữa Mẹ Maria, Chúa Giêsu và Ðấng đã
ủy thác cho mình việc nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ.
Trong thực hành, ít ai
ở vào địa vị như ngài mà lại âm thầm, và khuất tịch được như Ngài. Ai mà không
thích danh giá. Không muốn được xưng tụng với danh hiệu này, danh hiệu khác,
nhất là khi thực sự mình có danh giá, có địa vị, và chỗ đứng trong xã hội. Ai
bằng Ðức Maria, thiếu nữ Sion tuyệt vời, tràn đầy ơn phúc như lời Tổng Thần
Gabriel trong ngày truyền tin: “Hãy vui lên, Ðấng đầy ơn sủng. Thiên
Chúa ở cùng bà” (Lc 1:28). Còn Isave, chị họ thì ca tụng: “Em
có phúc hơn mọi phụ nữ” (Lc 1:42). Ai bằng Giêsu, Con Một Thiên Chúa
làm người. Ðấng là chủ tể vũ trụ. Nắm trong tay hai bảo tàng vô giá ấy, mà
không huênh hoang, không muốn nổi nang, và luôn luôn khuất tịch, thì chỉ có
Thánh Giuse mới làm được. Và cũng chính vì ngài đã làm được chuyện này, nên đã
xứng đáng được gọi là công chính.
Trước xưởng mộc của
Thánh Giuse ở Nazareth, là một tượng đồng của ngài. Dáng vẻ suy tư trầm ngâm
nhưng hiền từ, trong tay có cằm một cây gậy nở hoa. Bức tượng diễn tả đúng với
con người của Giuse, người mà Thánh Kinh gọi là công chính: “Giuse chồng bà là
người công chính” (Mátthêu 1:19). Khách hành hương với lòng sốt sắng, yêu mến
đã xoa vào hai đầu gối bức tượng khiến mòn đi. Họ làm vậy phải chăng với ngụ ý
trút bỏ những gánh nặng nề trên bước đường dương thế cho thánh nhân, và nhờ
ngài ra tay nâng đỡ. Tôi có cảm tưởng như những gánh nặng mà khách hành hương
đã trút bỏ lên hai đầu gối kia nhiều lắm.
Thánh Kinh đã ghi rõ
Giuse làm nghề thợ mộc. Là thợ mộc, nên ông cần phải có một xưởng mộc. Cái nghề
thợ mộc của ông sau này đã bị người ta đem ra dè bửu khi nói về Chúa Giêsu: “Họ
hỏi, đây chẳng phải là Giêsu con ông Giuse, người mà chúng ta biết cả cha lẫn
mẹ sao” (Gioan 4:42). “Đây chẳng phải là con bác phó mộc sao?”
(Mátthêu 13:55).
TRUNG
TÍN
Sau cùng là sự trung
thành tuyệt đối của Thánh Giuse trong sứ mạng bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Ngài đã trung thành công việc được trao phó một cách tự nguyện và với tinh thần
trách nhiệm: “Giuse đừng sợ, hãy nhận lấy Maria làm vợ, vì người con bà
cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mátthêu 1:20). Thánh
Kinh ghi tiếp: “Khi tỉnh giấc, Giuse đã nhận Maria về nhà mình”
(Mátthêu 1:24).
Từ ý thức sâu xa trách
nhiệm mình trước mặt Thiên Chúa, Thánh Giuse ngày đêm để ý chu toàn dù gặp
những thử thách và đau khổ. Ðau khổ đầu tiên là biến cố Giáng Sinh của Chúa
Giêsu. Ðau khổ thứ hai là khi nghe lời tiên báo của Simêon tại đền thờ trong
ngày dâng Hài Nhi Giêsu như luật định. Chẳng nói ra thì ai cũng biết rằng,
những mũi gươm tinh thần mà Simêon nói về Maria thì ít nhiều Giuse cũng mang nó
trong lòng, vì ngài là người chồng hoàn hảo nhất, và không thể nào lại không
chia sẻ những đau khổ - dù là tinh thần - với người vợ của mình.
Trong biến cố đem Hài
Nhi Giêsu và Mẹ của Ngài chạy trốn qua Ai Cập để trốn thoát cảnh lùng bắt của
Hêrôđê. Giữa mùa Ðông giá lạnh, và phải lầm lũi đoạn trường đưa vợ con chạy
trốn, cảnh tượng này một người chồng, người cha có trách nhiệm không thể nào
lại không đau lòng và lo lắng. Theo những nhà khảo sát Kinh Thánh, chưa đầy 4
năm ở bên Ai Cập, Thánh Giuse đã phải di chuyển chỗ ở đến 21 lần vì tránh sự
dòm ngó của người nhà Hẽrôđê.
Với tinh thần trách
nhiệm, Thánh Giuse không những lo lắng lúc đem Hài Nhi và Ðức Maria chạy trốn,
mà cả khi về lại quê cha đất tổ. Mặc dù lúc ấy Giêsu đã lớn, nhưng Thánh Giuse
không thể không cảm thấy băn khoăn, lo lắng. Mátthêu đã ghi lại
những suy tư của ngài: “Khi nghe tin Aùckhêlao đã kế vị cha là Hêrôđê,
cai trị miền Giuđêa, nên ông sợ không dám về đó. Sau khi được mộng báo, ông lui
về miền Galilêa và đến ở một thành kia gọi là Nagiarét” (Mátthêu 2:22-23).
Nhưng có lẽ biến cố
gia đình thất lạc tại Ðền Thờ đã chạm đến tinh thần trách nhiệm của ngài một
cách sâu xa hơn cả như Thánh Kinh đã ghi nhận: “Sau ba ngày, hai ông bà
mới tìm thấy con trong Ðền Thờ, đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, vừa nghe, vừa
đặt câu hỏi. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Này
con! Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con không thấy cha con và mẹ đã phải
đau lòng tìm con sao!” (Luca 2:46;48).
Thánh Kinh đã khen
tặng những người trung tín. Chúng ta có thể nhìn thấy giá trị và kết quả của
đức tín trung của Thánh Giuse khi nhìn vào công việc hoàn thành của Chúa Giêsu
trong việc cứu chuộc nhân loại. Nhìn vào cuộc đời thánh đức của Ðức Maria. Ðiều
này đã cho thấy Thánh Giuse không những sống thánh thiện cho mình, mà còn dùng
sự thánh thiện ấy để hoàn tất việc bao bọc và dưỡng nuôi Hài Nhi Giêsu, và Mẹ
Thánh của Ngài để chuẩn bị cho Thiên Chúa dùng trong công trình cứu chuộc.
Cựu Ước đã ca tụng
Abraham là cha của những kẻ tin. Tân Ước đã ca tụng Thánh Giuse là người công
chính. Abraham dâng con là Isaác làm của lễ như Thiên Chúa truyền, Thánh Giuse
cũng đã cùng với Đức Maria dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền Thánh để
làm của lễ hiến tế và cứu chuộc nhân loại. Thánh Giuse đã dùng cả đời mình để
yêu thương, săn sóc, nuôi dưỡng và bao bọc của lễ này. Và Ngài xứng đáng được
đó nhận những lời ca tụng của Hội Thánh: “Do gắn bó chặt chẽ với các
mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài
trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho
đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những
nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành
và đích thực của Chúa Kitô.” (Sắc Lệnh Bộ Phụng Tự và Kỷ
Luật Bí Tích, 01.05.2013)
Thánh Tiến Sĩ Têrêsa
d’Avila đã nói về quyền năng và thần thế của Thánh Giuse:
“Tôi thấy không lần
nào xin sự gì cùng Thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn
cho các Thánh giúp ta việc này, việc khác. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh
Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai
không tin lời tôi hãy thử mà xem”. Ite ad Joseph - Hãy đến cùng Giuse.