CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY.
(Stk 12, 1-4a; 2Tm 1,
8b-10; Mt 17, 1-9).
Để
chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ
phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi
đã cao mà chưa có con nối dòng. Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và
một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa,
ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua
biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay
cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự
trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ
phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được
Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế
hệ từ đời nọ tới đời kia.
Dân
tộc Do-thái thuộc dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu
thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay,
khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng
dõi con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa.
Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ
đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu
tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã
bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại
Babylon. Năm 515 B.C., con dân được trở
về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất
hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ bình địa của đền thờ
Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá tan hoang bởi
Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới ngày nay.
Trải
qua 20 thế kỷ, dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô
hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi
tới năm 1948, Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị.
Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa
cảm dũng lực của thần dân Do-thái từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ
đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới
rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc,
giờ đây, dân tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã
dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ
phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính
trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày
kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các
ông.
Tất
cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài
người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy
của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho
các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực. Chúa biến hình là
để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông đồ.
Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng,
Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ
nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất
diệt.
Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ
vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và
vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng.
Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp
các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã
dong duổi khắp chốn qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự
thật về nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn.
Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua
ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác
loan truyền tin mừng cứu độ. Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non
trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông
đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị
xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin
tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô
sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ
cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.
Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi
vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về
nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.
Lm. Giuse Trần
Việt Hùng.