Mùa Chay đang về và năm nay Giáo Hội Việt Nam muốn nhìn lại chặng đường năm mươi năm. Có một nét đạo đã đi vào văn hóa quần chúng nhưng gần đây bị phai mờ: Kiêng thịt ngày Thứ Sáu. Trực giác của người giáo dân khi đi chợ ngày Thứ Sáu là mua cá; mỗi lần phải tổ chức ăn uống, người ta nhắc nhau tránh ngày Thứ Sáu. Trong thời chiến tranh, luật được giảm nhẹ rồi đến thời bình hình như người ta đang có xu hướng bỏ luôn...
Chay tịnh chính là cánh cửa nghiêm túc nhất của đối thoại tôn giáo tại Việt Nam. Thế nhưng cả chùm chìa khoá “Trai và giới”đã bị bỏ quên trên lãnh vực truyền giáo tại Việt Nam và châu Á. Khi đến Việt Nam, đạo Công Giáo đã dùng hai tiếng “ăn chay” (thọ trai) để diễn tả việc nhịn ăn. Qua nhiều thế kỷ, dần dần người Công Giáo Việt Nam dường như quên mất rằng trong tiếng Việt thực thụ, “ăn chay” không có nghĩa là nhịn ăn (nhịn ăn thì gọi là tuyệt thực) mà có nghĩa là chỉ dùng thức ăn thực vật và khoáng chất chứ không dùng các thức ăn và nước chấm làm bằng sinh mạng các động vật. Khi “ăn chay”, người Việt Nam có thể dùng sữa và trứng công nghiệp (tức là trứng không thụ tinh, không mang theo mầm sống), nhưng không dùng nước mắm làm từ cá!
Đã gần 500 năm hiện diện trên đất nước này mà trong Hội Thánh Công Giáo không có một dòng tu nào đưa hình thức “ăn chay” phương Đông này (còn gọi là “ăn lạt” hoặc “ăn chay lạt”) vào chương trình khổ chế của mình. Một số người tự biện hộ rằng áp dụng kỷ luật này tức là hiểu ngầm rằng mình tin vào thuyết luân hồi! Nói như vậy là quên rằng cả những người Việt Nam không theo Phật Giáo, không tin luân hồi, mỗi khi “ăn chay” để cầu nguyện đều sử dụng thực đơn này. Có người biện hộ rằng, “ăn chay” rất tốn kém, ngược với tinh thần nghèo khó. Thật ra, chỉ khi nào “ăn chay” theo kiểu nhà giàu, bày vẽ đủ thứ kiểu cọ mới tốn kém hơn ăn thịt cá!
Bình tâm nhận xét, ta sẽ thấy cách ăn chay phương Đông không chỉ thuộc về một quan niệm dinh dưỡng được khoa học ngày nay đề cao, nhưng còn là một phương pháp tu thân, để thêm lòng nhân từ và để thoát khỏi những đòi hỏi và thèm muốn quá đáng của thân xác. Hãy thử ăn chay, bạn sẽ thấy khả năng tự chủ của mình tăng lên. Rồi từ chỗ ăn chay, bạn đi đến chỗ tôn trọng mạng sống các sinh vật, không giết hại kể cả con sâu, cái kiến. Mà nếu bạn có lòng nhân từ cả với con kiến, con muỗi, hẳn bạn sẽ quan tâm sống tốt hơn với người bên cạnh.
Người đời không hiểu được tại sao các tu sĩ Công Giáo lại theo đuổi cuộc sống độc thân khiết tịnh. Thử ăn chay trường một thời gian, người tu sĩ Công Giáo sẽ hiểu rằng đối với tâm hồn tôn giáo phương Đông, việc ăn chay lạt này cũng là một giá trị cao quý gần giống như đức khiết tịnh ki-tô giáo, ai không yêu chuộng nó thì không hiểu được chân giá trị của nó.
Đối với những người coi sự ăn chay lạt là một giá trị hết sức cao quý như thế, nếu có một tôn giáo nào không thừa nhận giá trị ấy thì tôn giáo ấy không đáng giá là mấy! Mà đã thua kém về giá trị thì theo làm gì! Khi ta cứ nhất định phủ nhận một giá trị khách quan, thì đừng lấy làm lạ nếu người khác phủ nhận tất cả những gì ta cho là giá trị. Bạn còn nhớ lời thánh Phaolô: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1Cr 8,13; xem thêm Rm 14,1-15,2; 1Cr 8,1-12).
Cho đến nay, việc tiếp nhận các hình thức trong sáng của lễ nghi thờ cúng tổ tiên đã dần dần xoá bỏ được thành kiến “theo đạo là bỏ ông bỏ bà”. Tiến thêm một bước, để gặt hái hoa quả truyền giáo, thiết tưởng cần hô hào giới công giáo, trước hết là trong hàng ngũ những người sống đời thánh hiến, chia sẻ với các tâm hồn tôn giáo phương Đông cùng một kinh nghiệm khổ chế về ăn chay lạt.
Vấn đề không phải là ăn chay trường nhưng là nhìn nhận giá trị khách quan của việc ăn chay lạt bằng cách đưa nó vào việc thực hành của đời sống ki-tô-hữu thông thường. Chẳng hạn, cổ võ áp dụng hình thức này để giữ luật “kiêng thịt ngày thứ sáu”. Mỗi tuần một ngày, mỗi tháng sẽ thành bốn ngày, kể như đã hơn một ngày so với những người ăn chay “ngày rằm, ba mươi và mùng một”.
Cũng còn phải thêm rằng “trai” đi với “giới” tức là sự tự răn đe, tự cấm. Ngoài “giới sát sinh”, còn có “giới ẩm tửu” cũng gắn liền với chay lạt. Giới này song song với điều thứ năm trong kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”. Rất nhiều người lương sửng sốt tự hỏi: “Tại sao những tu sĩ có vẻ tốt lành như vậy mà lại uống rượu”. Mà nếu người ta nhìn chúng ta bằng một cái nhìn thương hại, tội nghiệp, thì làm sao họ có thể đánh giá cao cái tôn giáo mà chúng ta rao giảng?
Có một tân tòng phát biểu rằng, việc hội nhập văn hóa và đối thoại liên tôn của người Công Giáo Việt Nam có vẻ thiếu nghiêm túc. Theo chị, bao lâu người Công Giáo Việt Nam còn xa lạ với chay lạt, những đường cong trên mái nhà thờ và áo dài khăn xếp trên tượng Đức Mẹ chỉ là trò đùa. Vâng, thiết tưởng, bao lâu chúng ta chưa đề cao giá trị của các hình thức khổ chế này, chay lạt và giới tửu, thì mọi hô hào hội nhập văn hoá vẫn còn có phần thiếu trung thực.
Thật tình mà nói, kiến trúc phượng Đông và mẫu mã Việt Nam cho các pho tượng là chuyện quá dễ, càng làm càng thể hiện chính mình chứ không có vấn đề phải bỏ mình. Còn chay tịnh chạm tới sự sống có thật. Khó thật, nhưng vì lòng yêu mến Chúa Kitô, vì sự hoàn thiện bản thân và vì ơn cứu rỗi cho các dân tộc châu Á, đây là một việc làm được và đáng làm. Đã có những cố gắng nhưng vì lẻ tẻ rời rạc nên không gây được chú ý và không bền. Nhân kỷ niệm 2010 xin thử nêu gợi ý một câu lạc bộ chay lạt Công Giáo để cùng trao đổi kinh nghiệm và gây men cho Dân Chúa. Rất mong nhận được hồi đáp của các vị quan tâm nhất là của quý Bề Trên Thượng Cấp các Dòng.
Lm TRĂNG THẬP TỰ VÕ TÁ KHÁNH
juanpesocd@yahoo.com