Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Phạm Hương Sơn
Bài Viết Của
Phạm Hương Sơn
Peter Seewald: Đức Giáo Hoàng đã chiến thắng cuộc chiến truyền thông tại Đức quốc
"Giới Trẻ là Ánh Sáng Thế Gian"
Các công trình tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI được triễn lãm tại Castel Gandolfo và Freiburg
Joaquin Navarro-Valls với ĐGH Gioan Phaolô II trong biến cố 11 tháng 9
Đức Hồng Y Trần Nhật Quân: sự phi lý của một chính phủ vô thần muốn lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo
Giáo hội Công giáo (quốc doanh) Trung Quốc chuẩn bị phong chức thêm 7 giám mục
Tám giám mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng buộc phải tham gia vụ tấn phong bất hợp pháp tại Sán Đầu
Trung Quốc: Vụ tấn phong Giám Mục bất hợp pháp ngày 14 tháng 7 sẽ là một bước mới lùi ngược vào lạc hậu
Lại chuẩn bị tấn phong bất hợp pháp: Căng thẳng và lo ngại tại Trung Quốc về những vụ tấn phong mới không có phép của Đức giáo hoàng
Vatican ban hành cảnh cáo đến Trung Quốc về vấn đề tôn trọng tín lý và kỷ luật của Giáo Hội Công Giáo
Trung Quốc bất chấp Vatican tấn phong Giám mục không có phép của Đức Giáo Hoàng
Xà Sơn: cuộc chiến của Bắc Kinh và "trận giao tranh" của Giáo hoàng
Trăm Hoa Đua Nở từ chính sách “Đối thoại bằng mọi giá” với cộng sản:
Đang tiến hành những thay đổi quan trọng trong Giáo Triều Roma
Nỗi đau của ĐHY Trần Nhật Quân đối với Cha Heyndrickx và chính sách “đối thoại bằng mọi giá” của Bộ Truyền Giáo (Propaganda Fide)
Bắc Kinh và Tòa Thánh: Tiên vàn là sự hiệp nhất của Giáo Hội rồi mới đến quan hệ ngoại giao.
Giáo phận Hồng Kông: Tài liệu Thượng Hội Đồng Giáo phận
Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm người Trung Quốc vào vai trò cao cấp tại Vatican
Không có tự do tôn giáo tại Trung Quốc (Phúc Trình của ĐHY Trần Nhật Quân trước ĐGH và Công Nghị Hồng Y)
GIÁO PHẬN HỒNG KÔNG: TÀI LIỆU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁO PHẬN

  

Nhóm Một

Đào tạo Đức tin Giáo dân Thừa tác vụ Giáo dân

Li mở đu

Quả là một qùa tặng cao vời được khả dĩ trở thành con cái Thiên Chúa, để đón nhận ân sủng của Người một cách nhưng không, và bước theo Đức Kitô. Đồng thời, điều không kém phần quan trọng là khả dĩ tiếp tục cảm nghiệm tình yêu khoan dung và sự quan phòng của Người, để cảm tạ ngợi khen Người và tăng trưởng không ngừng trong đức tin. Ðây là cơ sở hình thành của bậc giáo dân. Tuy nhiên, đối với chúng ta con cái của Thiên Chúa, thảm kịch lớn nhất là cảm thấy xa lạ với tâm điểm đức tin của chúng ta: Thiên Chúa.  

Hậu quả là, chúng ta không còn có thể được nhận ra là Kitô hữu, và đức tin của chúng ta đã trở nên không ăn nhập gì tới cuộc sống hàng ngày của chúng ta, đến mức mà chẳng có gì khác biệt giữa chúng tanhững người chưa được rửa tội. Trong thực tế, mỗi một người trong chúng ta, những ai đã được chịu phép rửa trong Đức Kitô đều được gọi tiến đến sự thánh thiện, điều này nói lên rằng, Thiên Chúa đã gọi chúng ta là những dưỡng tử của Người trở nên giống như Người.

Do đó, nền tảng của sự thánh thiện là sự hòa nhập của đức tin và đời sống hàng ngày. Đây là bước quan trọng nhất cho chúng ta Kitô hữu tiến đến sự trưởng thànhĐức Kitô mời chúng ta và gọi chúng ta bước đi trên con đường thánh thiện ở trong thế gian này.

*  *  *  *  *  *  *

1. PHẢN HỒI VỀ TÌNH HUỐNG HIỆN NAY

1.1  Tại Cấp độ cá nhân

a. Đặc điểm nổi bật của các tín hữu sự hiện hữu của họ trong thế gian, tức là sống trong thế giới trần tục, thực hiện ý muốn của Thiên Chúa và kế hoạch của Người, và không ngừng phấn đấu cho sự thánh hóa của chính bản thân và của những người khác. Rất nhiều tín hữu liên tục phấn đấu để sống theo đức tin của họ, để hoàn thành nhiệm vụ Kitô hữu của mình bằng cách tham gia trong việc cử hành Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật và được nuôi dưỡng qua phụng vụ, bằng cách hoàn thành nhiệm vụ của họ như là những người dân tốt, và bằng cách thực hiện vai trò của họ trong gia đình và nơi sở làm.

b. Mặc dù hầu hết các tín hữu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong mọi tình huống từ cuộc sống của họ, nhưng do bởi những mối cám dỗ lớn lao, những thách đốnhững tấn công trong các hình thức khác nhau đến từ cuộc sống hàng ngày và trong thế giới hiện nay, thực không đủ để chống trả các cuộc tấn công chỉ đơn giản bằng cách hoàn thành nhiệm vụ của mình và đạt tới sự thánh thiện hàng ngày trong cuộc sống và để thực hiện sứ mệnh của Kitô hữu.

c. Đối với hầu hết các Kitô hữu đã nhận được sự đào tạo, mục tiêu chính là sự tăng trưởng trong đức tin cá nhân, và chẳng có nhiều ý tưởng về việc hình thành một cộng đồng Kitô hữu hoặc thực hiện sứ mệnh Kitô hữu của họ. Hầu hết các khoá đào tạo dường như cũng nhấn mạnh nhiều vào các kiến thức về đức tin nhưng kém đặt nặng  vào sự hòa nhập của đức tin và đời sống Kitô hữu hay sứ mệnh của việc xây dựng cộng đồng Kitô hữu. Mặt khác, nhiều tín hữu chẳng quan tâm đến sự hình thành của
đời sống tâm linh
cá nhân.

d. Hiện có 380,000 người Công giáo (kể cả Trung Hoa và người nước ngoài) tại
Hong Kong, nhưng chỉ có khoảng bảy mươi ngàn lẻ
người Công giáo Trung Hoa tham gia vào Thánh lễ Chuá Nhật. Con số này vẫn giống như nhau trong nhiều năm mà không tăng hoặc giảm đi. Trong thực tế, có nhiều hơn một nghìn số rửa tội của người lớn và trẻ sơ sinh mỗi năm, có nghĩa là khá nhiều tín hữu, do những lý do khác nhau, sau khi được rửa tội một thời gian, dần dần rờo bỏ, tránh xa Giáo Hội và quên đi bản sắc Thiên Chúa giáo của họ, mặc dù vẫn giữ đức tin trong tâm lòng của mình (ghi chú 1).

e. Một số tín hữu sau khi rửa tội không có một ý niệm gì về sự hình thành suốt đời trong đức tin, do đó sự tiếp xúc  của họ với Giáo Hội và đức tin phụ thuộc hoàn toàn vào việc tham dự thánh lễ ngày Chuá Nhật. Họ không tham gia vào đời sống cộng đồng của Giáo Hội, làm cho đức tin của họ không liên quan đến kinh nghiệm đời sống hàng ngày của mình.

f. Một số Kitô hữu có xu hướng theo sau cá nhân các giáo sĩ khi thực hiện thừa tác vụ của họ trong Giáo Hội và không có một tầm nhìn rõ ràng về sứ mệnh của họ và ý nghĩa của sự phục vụ. Vì vậy, bất cứ khi nào có sự thay đổi của hàng chủ chăn, nó dẫn đến hậu quả mất đi sự phối hợp và tan vỡ ảo tưởng.

g. Một số Kitô hữu tự tổ chức dựa theo sở thích và chuyên môn của họ, và biểu hiện sự đóng góp của mình cho Giáo Hội, ví dụ: thông qua kịch nghệ, ca múa, soạn nhạc, vv Họ đáp trả qua sự phục vụ cho Giáo Hội theo ngành nghề chuyên môn, và tham gia vào một số biến cố công cộng của việc truyền giáo hay hôi nghị cấp giáo phận.

h. Một số Kitô hữu thành lập các hiệp hội hoặc công ty đăng ký hợp lệ với chính phủ  để thu hút nhiều hơn vào các nguồn tài lực và năng lực cho sự phục vụ Giáo Hội. Họ mướn nhân công, thuê trung tâm riêng của họ, và cung cấp dịch vụ cho các thành viên Kitô hữu và các tín hữu khác. Điều đó chứng tỏ một nhận thức ngày càng tăng trong một số Kitô hữu mưu tìm sự công nhận và một lãnh vực phục vụ trong và ngoài Giáo Hội, để sống xứng với lý tưởng và sứ mệnh của đức tin.

i. Có một số lượng ngày càng tăng những Kitô hữu sau khi nghỉ hưu, làm việc hăng hái hơn trong Giáo Hội. Không có gánh nặng do việc làm, với thì giờ dồi dào để tự ý sử dụng, và được làm phong phú thêm bởi bản chất quản trị hành chánh và kinh nghiệm ngoài đời, sự phục vụ của họ cho Giáo Hội được xứng đáng công nhận và ngày càng mang tầm quan trọng.

j. Một số ít Kitô hữu đã chấp nhận những thách đố lớn hơn, đã rời bỏ công việc của mình và đi truyền giáo tại các nước ngoài.

1.2  Tại Cấp Giáo xứ

a. Ngoài việc hoàn thành các  thừa tác vụ vương quyền, tư tế và tiên tri trong môi trường sống của mình, các tín hữu còn tham gia tích cực hơn nữa trong các thừa tác vụ khác nhau trong đời sống Giáo Hội, ví dụ: thừa tác vụ trong các phụng vụ. Hiện nay, tại mỗi giáo xứ, có khá nhiều số lượng các tín hữu tham gia vào các phụng vụ khác nhau, cho phép tiến hành trôi chảy của việc phụng vụ, hiện thực hóa việc đồng trách nhiệm và tinh thần hiệp thông giữa giáo dân và giáo sĩ. Mặt khác, một số Kitô hữu đã cam kết sâu xa vào các lãnh vực khác của đời sống Giáo Hội, làm cho nó sinh động và
đầy năng lực.

b. Các cộng đồng cá nhân cung cấp các hoạt động đào tạo định kỳ hoặc các khóa học cho các thành viên của mình hoặc những tín hữu khác, và có thể từng phần mở các khóa học của cộng đồng mình cho những Kitô hữu quan tâm.

c. Gia nhập Giáo Hội qua phép rửa có nghĩa là tham gia vào một cộng đồng. Tuy nhiên, bởi vì cộng đồng giáo xứ thường là quá lớn, nó không thể thực hiện cách hiệu quả vai trò hỗ trợ và chia sẻ của cộng đồng . Đức Hồng Y Wu đã đề cập trong lá thư mục vụ của mình "Tiến Bước vào Thập Kỷ Tươi Sáng" năm 1989 về chức năng của các cộng đồng Kitô hữu nhỏ, hy vọng rằng những cộng đồng này có thể được lan truyền rộng rãi tại tất cả các cấp trong giáo phận. Sau khi rửa tội, các tín hữu nên tham gia vào một cộng đồng nhỏ phù hợp, để duy trì và phát triển đức tin của mình. Trong một bầu không khí hỗ trợ lẫn nhau, thông qua việc chia sẻ Lời Chúa, các thành viên của các cộng đồng này phát triển và trưởng thành. Các lai lịch tương tự của các thành viên có thể là một trợ giúp lớn hơn cho sự hình thành của các cộng đồng này, ví dụ: cộng đồng gia đình Kitô hữu và cộng đồng khu phố, thôn xóm Kitô hữu, vv Nhưng hầu hết các tín hữu không nhận thức được tầm quan trọng của các cộng đồng Kitô hữu nhỏ trong sự hình thành của đức tin, và hậu quả là, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa việc thực sự cam kết và tham gia vào các cộng đồng này và những gì đã được quảng bá hỗ trợ trong thư mục vụ. Đức tin Kitô giáo thiếu sự hỗ trợ từ cộng đồng thường bị loãng đi và đồng nhất với các giá trị thế tục, dẫn đến hậu quả ra đi khỏi Giáo Hội. Mặt khác , các cộng đồng Kitô hữu nhỏ phải đối mặt với mọi loại khó khăn, ví dụ: thiếu sức lực hợp nhất, lãnh đạo giáo dân, nguyên vật liệu cho các cuộc hội họp, những hỗ trợ thích hợp, và sự hỗ trợ từ các giáo sĩ, v v và có xu hướng kết thúc trong một sự bế tắc.

d. Bằng cách tham gia vào các bí tích, chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế phụng vụ trở thành đỉnh điểm và mùa xuân của đời sống đức tin. Trong cử hành phụng vụ, chúng ta có thể dâng lên những thành công và thất bại, niềm vui và nỗi buồn của chúng ta lên bàn thờ của Chúa Kitô, khấn cầu để được chấp nhận và nhận lấy sự an ủi.

Tuy nhiên, khá thường xuyên, phụng vụ trở thành chỉ thuần nghi thức. Hầu hết các tín hữu tham gia chỉ vì nhiệm vụ, mà khôngsự hiểu biết ý nghĩa của nó hoặc mối quan hệ giữa phụng vụ và cuộc sống của họ. 

Ngoài ra, trong phụng vụ Lời Chúa trong các Thánh lễ, một số linh mục không thể chỉ ra được các mối liên kết sâu sắc giữa Lời Chúa đời sống hàng ngày, để cuộc sống của các tín hữu nhận được sự bồi dưỡng, thiếu đi sức mạnh và hỗ trợ để đạt tới sự trưởng thành.

e. Thừa tác vụ của các tín hữu trong Giáo hội chủ yếu chú trọng vào nhiệm vụ, cung ứng thời gian cho một người để phục vụ Giáo Hội. Tuy nhiên, điều này truyền tải một ấn tượng rằng gia nhập một hiệp hội Kitô hữu là hoàn thành nhiệm vụ. Dần dần,
sau một vài năm cam kết
phục vụ trong một giáo xứ, các tín hữu cảm thấy mệt mỏi, thiếu năng lực để đào sâu đức tin của họ.

f. Mặc dù có sự phân chia công việc giữa các thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội, vẫn có một sự thiếu hợp tác, chia sẻ trao đổi, và hiệp thông. Một số có xu hướng chỉ tập trung vào nhiệm vụ riêng của mình, và bỏ qua sự cần thiết phải phối hợp và hiệp thông với các thừa tác vụ khác.

g. Linh mục quản xứ và các hội đồng mục vụ giáo xứ thường có mối quan hệ làm việc rất gần gũi, nhưng thành viên Hội đồng giáo xứ lại quá dễ dàng biến thừa tác vụ của họ thành nhiệm vụ, chỉ dựa vào nhiệt tình cá nhân của họ, và thiếu sự phối hợp cộng đồng, sự hỗ trợ và phản ánh về đức tin và kinh nghiệm. Vì vậy sau một vài năm, họ có dấu hiệu của sự mệt mỏi và bất lực. Đôi khi linh mục quản xứ không thể làm những gì họ có thể để tạo lập được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các hội đồng giáo xứ.

h. Đối với các khóa học và các hoạt động về việc đào tạo Kitô hữu, việc triển khai các nguồn lực trong lãnh vực này thường tỷ lệ tương ứng ít hơn so với các hoạt động vui chơi giải trí, như là ngày lễ của thánh bổn mạng của giáo xứ hay ngày picnic của giáo xứ. Đồng thời, bản chất của hiệp hội trong giáo xứ có xu hướng hướng tới sự thực hiện các nhiệm vụ và phục vụ. Qua cách này, các tín hữu không thể có được sự hình thành và nuôi dưỡng tinh thần thông qua các hoạt động giáo xứ, và do đó, không thể hòa nhập các phản ánh của họ về cuộc sống và đáp ứng cách hiệu quả đốo với các thách đố của cuộc sống hàng ngày.

1.3  Tại Cấp Giáo phận

a. Hiện nay, có các khóa học, hoạt động và hội thảo khác nhau cho sự đào tạo, nhằm mục đích hòa nhập đức tin và đời sống hàng ngày, và hữu ích cho kinh nghiệm và sự trưởng thành của đức tin, Mặt khác, trong nhiều cộng đồng đức tin nhỏ, các thành viên có thể hỗ trợ và thánh hóa lẫn nhau thông qua việc chia sẻ Lời Chúa và
kinh nghiệm.

b. Hàng năm, nhiều học viên tốt nghiệp của Chủng viện Chúa Thánh Linh (Viện Thần học và Triết học và Viện Khoa học Tôn giáo) và cũng như Viện Kinh Thánh Công Giáo Hồng Kông trở thành nguồn tài sản nhân lực cho Giáo Phận.

c. Tại Trung tâm Giáo lý Giáo Phận, các khóa học giảng dạy giáo lý được cung ứng mỗi năm, và cho đến bây giờ đã có được vài nghìn người hoàn thành các khóa học này, và phục vụ như là giáo lý viên tự nguyện và giáo viên các lớp học ngày Chúa nhật tại các giáo xứ.

d. Ủy ban Phụng vụ Giáo phận cũng đã cung ứng một chương trình đào tạo có hệ thống cho các giảng viên, các thừa tác viên Thánh Thể và thành viên các ca đoàn vv

e. Hội đồng Trung ương cho Giáo Dân Công Giáo cũng tiếp nhận lời mời từ các giáo xứ để cung ứng việc đào tạo cho các giáo xứ hoặc thành viên của các hiệp hội. Đồng thời, trong các cuộc họp của Hội đồng, việc chia sẻ về các chủ đề đặc biệt được thực hiện mỗi hai tháng để cung ứng sự đào tạo thích hợp cho các thành viên hội đồng giáo xứ tham dự cuộc họp. Gần đây hội đồng đã điều hành các khóa học đào tạo về “quản gia Kitô hữu "với các thành viên hội đồng giáo xứ và các lãnh đạo của các hiệp hội như là những đối tượng dự định của họ.

f. Có một sự thiếu cân bằng trong chiến lược của các công việc mục vụ của giáo phận. Hầu hết các nguồn lực được đầu tư vào trong một phần là những Kitô hữu tương đối năng động và những người đi nhà thờ thường xuyên, trong khi ba phần tư còn lại là những Kitô hữu "thờ ơ" sau khi được rửa tội lúc sơ sinh hoặc ở trường học nhưng bây giờ đã biến mất, hoặc những người trưởng thành nay đã rời bỏ Giáo Hội, đang thực sự bị giáo phận bỏ quên. Có một sự thiếu sót trong các chiến lược và hệ thống để chủ động tìm kiếm và dõi theo các tín hữu này.

g. Đối với việc phân phối các nguồn lực, dường như giáo phận đã bỏ quên những người có thể cung ứng trực tiếp việc đào tạo giáo dân bằng cách mướn thêm những giáo dân toàn thời gian hoặc bán thời gian.

h. Đối với công việc mục vụ, dường như không có các chính sách ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, hoặc đường hướng hoặc kế hoạch theo dõi về các việc đào tạo giáo dân từ giáo phận. Hậu quả là, nguồn tài nguyên chưa được sử dụng tốt. Mặc dù có những mục tiêu mục vụ như những điều được đề cập trong lá thư mục vụ "Tiến bước vào Thập kỷ Tươi sáng", chẳng hạn như: việc xây dựng cộng đồng Kitô hữu nhỏ, và những điều được đề cập trong lá thư mục vụ giữa kỳ, chẳng hạn như: việc Tin Mừng hóa, việc phát triển vương quốc của Thiên Chúa, có một ấn tượng tất cả những nỗ lực này chỉ cung cấp những kết quả rất ít ỏi tại thời điểm hiện tại dựa vào các chủ chăn và tín hữu khác nhau, những người đã xác định được những mục tiêu này.Vì vậy, thực là khó để các mục tiêu này có thể bám rễ vào cuộc sống thường ngày và để nuôi dưỡng sự trưởng thành đức tin của Kitô hữu.

2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

2.1  Thiên Chúa là Tình Yêu: Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa

Một trong những bản thái đặc biệt của tôn giáo là để giải đáp sự tìm kiếm của nhân loại cho điều tột cùng và ý nghĩa tột cùng của cuộc sống con người. Những người tin vào Đức Kitô, tin tưởng sâu sắc rằng từ trong tình yêu của Người, Thiên Chúa đã tạo ra thế giới nhìn thấy được. Thiên Chúa nội tại trong tất cả, và trong sự siêu việt của Người, Người ôm ấp bao bọc tất cả mọi thứ cùng một lúc. Nếu xa lánh địa cầu, con người không thể hát với hết tâm lòng câu Thánh vịnh 96:1: "Hát lên mừng Yavê một bài ca mới! Hát lên mừng Yavê, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Yavê, chúc tụng Thánh Danh”

Sự hiểu biết của con người và biểu hiện của lòng tin và sự thờ phượng Thiên Chúa cũng phụ thuộc trên tất cả các tác tạo. Con người là một phần và là bộ phận của cộng đồng địa cầuLoài người cùng một số phận với điạ cầu, ở trong cùng một dao động trầm bổng thường xuyên. 

Sự hình thành của bậc giáo dân bao gồm sự hình thành và nhấn mạnh trên một ý thức và sự hiểu biết của "Cộng đồng địa cầu", ghi nhớ rằng con người và những sinh vật khác nhau tạo thành một cộng đồng đa nguyên. Sự đa dạng trong cộng đồng này sẽ thể hiện đầy đủ hơn nơi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, con người và tất cả mọi loài tác tạo ca ngợi Thiên Chúa đồng loạt (Tv. 148, 19, 96, vv): "Toàn thể địa cầu hát mừng chúc tụng  Chúa! "

Thiên Chúa Ba Ngôi đã đặt bản thể thiêng liêng của tính đa vị trong hiệp nhất vào công cuộc sáng tạo của Người. Nhìn từ này quan điểm sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn rằng phúc âm được đưa đến cho tất cả các loài thụ tạo, tiến đến điểm tột cùng là một trời mới đất mới: "Hãy đi khắp thế gian; công bố tin mừng cho tất cả mọi loài thụ tạo” (Máccô 16:15)

2.2 Thiên Chúa là Tình yêu: Đức Chúa Con, Đấng Cứu Chuộc

"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời "(Ga 3:16).  

Hành trình cơ bản của Đức Kitô trên thế gian là đến từ Chúa Cha và để trở về với Chúa Cha, trút hơi thở cuối cùng trên trên thập giá: "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay ChaVới những lời này, Người trút hơi thở cuối "(Lc 23:46). Cả cuộc đời của Người là hiến dâng bản thân và cuộc đời của mình theo kế hoạch của Thiên Chúa, vì lợi ích của công cuộc cứu chuộc nhân loại trên con đường hướng tới một trời mới và đất mới. Ngài đến để ban sự sống, sự sống sung mãn (Ga 10:10).

Đức Giêsu như thế đã mang lại một bước đột phá, và trở thành Adam mới. Cuộc đời  của Người không phải để bao bọc chính mình nhưng để cống hiến chính mình. Người Công giáo cần phải học để bước đi cùng con đường trở về với Chúa Cha "hơi thở sự sống "(St 2:7) Người đã ban cho họ, hiến dâng cuộc sống của mình với Đức Kitô cho lợi ích của việc xây dựng và tham gia vào Vương quốc của Thiên Chúa. Việc đào tạo đức tin của giáo dân để xây dựng một mối quan hệ thân mật trong đời sống cá nhân với Đức Kitô.

2.3 Thiên Chúa là Tình Yêu: Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh Hóa

Sức sống trong đời sự tăng trưởng trong đức tin đến từ các nguồn mạch và sự năng động trong sâu thẳm của chúng taĐoạn Phúc âm trong cử hành Thánh Thể tại lễ khai mạc của Thượng Hội Đồng Giáo phận Công giáo Hồng Kông th hiện chính xác điểm này:

" Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: "Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống." Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. "(Ga 7:37-39).

Việc đào tạo đức tin của giáo dân nhằm giúp các tín hữu chạm đến và cảm nghiệm dòng nước hằng sống trong chính mình và cho phép dòng nước hằng sống này dẫn dắt họ trong cuộc sống của mình, phát huy sinh động tình yêu và trí tuệ tiềm ẩn sâu xa trong tâm hồn của họ.

2.4 Bản chất đa dạng và duy nhất của Ba Ngôi

Trong tính duy nhất của Người, Thiên Chúa không đơn độc hoặc bị giam hãm trong sự đồng dạng. Về bản chất, Thiên Chúa là một toàn bộ đa vịmột mối tương quan của tính đa dạng. Thiên Chúa không phải là một toàn bộ đơn độc, nhưng một cộng đồng, một cộng đồng liên đới là sự sống đầy năng lực tương tác của tình yêu. Bản chất cơ bản của Thiên Chúa đã được đặt vào trong tất cả những gì Thiên Chúa đã tạo ra, trong con người và trong toàn bộ sáng tạo. Mỗi điều được tạo thành không phải là điều đứng trong sự cô lập. Những điều được tạo thành có một sự kết nối hỗ tương và thân mật trong mối quan hệ tương tác và tăng trưởng tiến hóa. Các mối quan hệ giữa con người phản ánh bản chất của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Duy trì mối quan hệ cũng là một nhu cầu tự nhiên của con người. Khi một mối quan hệ bị phá vỡ, cần phải có sự sửa chữa và xây dựng lại nó để sự tôn trọng lẫn nhau là một đặc tính của cộng đồng. Tôn trọng tính độc đáo, tiềm năng nội tại và nhân phẩm của mỗi con người, sẽ dẫn đến cộng đồng chú trọng tính đa nguyên và đa dạng, cho phép bộc lộ ra một sự phong phú viên mãn hơn, càng biểu lộ sự tương tự với thực chất cộng đoàn của Thiên Chúa Ba Ngôi.

2.5  Khám phá nhu cầu của cuộc sống con người thế kỷ 21 cùng các giải đáp và phương pháp thông qua một sự thấu hiểu sâu sắc vào Thiên Chúa Ba Ngôi

Đào tạo đức tin nhằm giúp giáo dân tiến đến hiểu được rằng sự sung mãn nội tại trong cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là nền tảng cốt lõi của chúng ta, là cách thế Thiên Chúa trở thành biểu hiện trong thế gian, và cách thế Thiên Chúa nối kết với phương pháp và cơ sở của chuỗi trình vận hành của cuộc sống. Từ trong triển vọng này, chúng ta sẽ có thể khám phá ra nhu cầu nhân loại của thế kỷ 2l và các giải đáp cùng phương pháp đòi hỏi.

Giáo Hội và các nhà giáo dục cần phải có một con mắt sáng suốt liên quan đến thời đại và học hỏi để cảm nhận được nhu cầu mục vụ của người Công giáo trong thời đại hiện nay.

2.6  Đức tinkinh nghiệm đáp ứng với lời kêu gọi của Thiên Chúa

Hành trình đức tin của các nhân cách trong Kinh Thánh một đáp ứng liên tục với lời kêu  gọi của Thiên Chúa. Đáp ứng điển hình của Đức Maria : "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói. (Luca 1:38).

Trong vườn Gethsemane Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha." (Luca 22:42).

Qua phép rửa tội chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được tái sinh m con cái Thiên Chúa, trở nên thành viên của Thân Thể Chúa Kitô, chia sẻ sứ vụ của Thân Thể này. Vì thế, chúng ta là Giáo Hội (ghi chú 2). Thiên Chúa là nguồn gốc là sự viên mãn của cuộc sống tràn đầy phong phú, và Chúa Giêsu Kitô là đường,sự thật và sự sống. Chỉ bằng cách thiết lập một quan hệ sâu xa lâu bền với Người, chúng ta mới có thể đối mặt trong an bình với tất cả những thách thức và khó khăn của thế gian, để khẳng định các giá trị Kitô giáo trong bối cảnh của sự nhầm lẫn giá trị, thông qua tình yêu thương và phục vụ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, để thánh hóa bản thân và những người khác, và hoàn thành nhiệm vụ Kitô hữu qua việc trở nên muối và ánh sáng. (ghi chú 3)

2.7  Đức tin là một cuộc hành trình; sự đào tạo thì suốt đời và bất tận

Khởi đầu từ dự tòng lên đến tiếp nhận và tham gia trong các bí tích khai tâm của  người lớn qua phép rửa tội, thêm sức, và Thánh thể, các tín hữu vượt qua các "ngưỡng cửa" và được đón nhận vào cộng đồng Kitô hữu và bắt đầu sống một cuộc sống Kitô hữu mới.

Điều này, tuy nhiên, không phải là kết thúc của hành trình đức tin. Ngược lại, các tín hữu cần phải học hỏi từ hành trình đức tin và sự tăng triển của các nhân cách trong Kinh Thánh và liên tục làm chứng nhân cho những gì họ tin vào. Đào tạo đức tin, do đó, là một quá trình suốt đời và bất tận, liên tục đào sâu thêm và chia sẻ vào trong cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là học cách để trở nên thánh thiện trong cuộc sống.

2.8  Đào tạo tiến đến sự quân bình và hnhập của cơ thể, tâm trí và tinh thần

Để giúp giáo dân trong sự phát triển cá nhân của họ, chúng ta cần phải cho họ học hỏi cách làm thế nào để hoà nhập các hoạt động của cơ thể, tâm trí và tinh thần và xây dựng hoặc tái xây dựng mối quan hệ của họ với chính mình, với Thiên Chúa, với những người khác và với địa cầu.

Chăm sóc cơ thể thông qua một chế độ ăn uống quân bình sẽ đảm bảo sức khỏe và một hệ thống miễn dịch hoạt động tốt. Đây là một vấn đề nghiêm trọng và là nhu cầu mà những người dân tại Hồng Kông phải giải quyết. Chúng ta cũng phải dạy cho giáo dân dâng lời cám ơn tại các  bữa ăn và liên kết điều này với sự tạ ơn trong bí tích Thánh thể.

Nhiều người ở Hng Kông cũng cảm nghiệm những căng thẳng lớn lao và các khó khăn về cảm xúc. Học hỏi cách để nhận biết, chấp nhận và dâng lên những cảm xúc tích cực và tiêu cực của chúng ta như thế mang tầm quan trọng rất lớn. Nó sẽ mang lại kết quả là đừng quá dễ dàng trì ép cảm xúc và cũng có thể dẫn đến học hỏi để cảm nghiệm những cảm xúc như là một nội lực tốtNội lực này có thể được sử dụng vào những điều rất tốt.

Giáo dục ngày nay nghiêng về phía cung cấp quá nhiều lưu tâm đến sức khỏe của thể và cảm xúc. Các mặt tinh thần, tuy nhiên, lại dễ dàng bị bỏ qua. Cơ thể và cảm xúc có mối quan hệ trực tiếp với phía tinh thần. Chúng cũng có thể là một phương tiện tiếp cận với Thiên Chúa và chiều sâu thẳm trong linh hồn chúng ta. Đây cũng là một thành phần cơ bản trong sự hình thành người Công giáo. Sự trống vắng trong tâm hồn và tinh thần là một nguyên nhân cơ bản của nhiều vấn đề cá nhân và xã hội tại Hồng Kông.  

Tìm hiểu cách thế để giải quyết sự trống vắng của tâm hồn và tinh thần, và làm phong phú và đổ đầy vào tâm hồn bằng sức sống dồi dào, sẽ là một phương thuốc tốt để giải quyết nhiều vấn đề.

Có một phương pháp là tìm hiểu để xây dựng một mối quan hệ tốt với chính mình, với những người khác, với Thiên Chúa và với địa cầu. Về bản chất, con người không thể được phân lập từ những thứ khác. Con người cần phải xây dựng mối quan hệ tốt, khám phá bản sắc riêng và vị trí của họ, và có sự tin tưởng vào cuộc sống, sự học hỏi và cùng phát triển với nhau.

2.9  Chúa Thánh Thần ban những đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau để xây dựng Giáo Hội 

Thừa tác vụ không chỉ là thuần hoàn thành nhiệm vụ. Nó còn là một phương thế đàosâu và tiếp tục việc đào tạo đức tin. Chuá Thánh Thần ban cho các tín hữu của Giáo Hội những ơn đặc sủng đa dạng để các cộng đồng Giáo Hội có thể biểu hiện tính đa vị và đa dạng của Thiên Chúa. Thừa tác vụ giáo dân dựa trên những ơn đặc sủng để giáo dân có thể cam kết nhiều hơn vào đời sống của Giáo Hội và được chịu đồng trách nhiệm về lợi ích của Giáo Hội và sứ vụ rao giảng Tin Mừng.

Người giáo dân, do đó, phải duy trì và liên tục đào sâu sự khao khát về việc tự đào tạo và như vậy thực hiện nhiều hơn nữa các nhiệm vụ thừa tác viên của họ. Sự quyết tâm và kiên trì hết lòng của họ sẽ mang tầm quan trọng nhiều hơn kết quả. 

Chúa tán thưởng những gì chúng ta sẵn sàng thực hiện nhiều hơn những gì chúng ta có thể thực hiện được. Các thừa tác vụ khác nhau trong đời sống Giáo Hội, bao gồm cả những người trong phụng vụ và các thừa tác vụ khác, là phần mở rộng và đỉnh điểm của kinh nghiệm đức tin Kitô giáo được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Nếu không, thừa tác vụ sẽ trở nên duy nhiệm vụ, tức nhấn mạnh đến kết quả, bỏ qua những cảm nghiệm nhân loại về Thiên Chúa, một đáp ứng đối với Thiên Chúa và sự tăng trưởng trong đức tin. 

Tất cả các thừa tác vụ đều đến từ Chúa Thánh Thần, Người ban những ơn đặc sủng khác nhau cho tất cả, cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Cho dù lớn hay nhỏ, tất cả đều nhằm cho việc xây dựng Giáo Hội, và cho sự tốt lành của Giáo Hội. Mỗi người nên tìm hiểu về ơn đặc sủng cụ thể của riêng mình, để làm phong phú lẫn nhau, xây dựng Giáo Hội và mang lại vương quốc của Thiên Chúa vào trong thế gian.

2.10  Bộ Ba các thừa tác vụ cơ bản của người Công giáo

Thông qua phép rửa tội, tất cả các Kitô hữu được chia sẻ và dự phần vào Bộ Ba thừa tác vụ của Đức Kitô, và nhận mệnh lệnh và trách nhiệm phục vụ từ sự tham gia đó (ghi chú 4).

2.10.1 Thừa tác vụ Tư Tế của người giáo dân

Thừa tác vụ tư tế của giáo dân được dựa trên việc Đức Kitô sinh động hóa họ bằng Chúa Thánh Thần và sự liên kết thân thiết của với "vị Linh mục tối cao và vĩnh cửu,

Đức Giêsu Kitô "và" Đời sống và Sứ vụ của Người". Tất cả mọi công việc, những lời cầu nguyện của họ, và những nỗ lực tông đồ, cuộc sống hôn nhân và gia đình của họ, sự lao động hàng ngày của họ, sự nghỉ ngơi tinh thần và thể chất của họ, nếu được thực thi trong Chúa Thánh Thần, ngay cả những khó khăn của cuộc sống, nếu được kiên nhẫn chịu đựng, tất cả mọi điều này trở thành sự hy sinh tinh thần được khấng nhận bởi Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Trong cử hành Thánh Thể, những hy sinh này trong cách yêu thương nhất được dâng lên Chúa Cha cùng với Thân Mình của Chúa". (Hiến chế về Giáo Hội # 34)

Giáo dân cần học hỏi việc cầu bầu trong lời cầu nguyện cho những người khác và cho thế giới, đặt chúng vào trong tay Thiên Chúa trong thờ phượng , đảm nhận vai trò của người hòa giải cùng với Đức Kitô. Trong cuộc sống căng thẳng tại Hồng Kông, thường có thói quen hay đổ lỗi và tương đối ítkhuyến khích dâng hiếnRất nhiều người thiếu lòng tự tin.

Giáo dục người giáo dân thực hiện các thừa tác vụ tư tế giáo dân của họ bằng cách thường xuyên ban phước lành cho người khác sẽ giúp mang lại sự bình an và niềm vui của Đức Kitô cho người khác, thúc đẩy lòng tự tin của người được chúc lành, và giúp họ quay về hướng tích cực nhiều hơn tiêu cực và như thế để "thánh hiến chính thế gian lên Thiên Chúa "(Giáo Hội # 34).

2.10.2  Thừa tác vụ Ngôn sứ của người giáo dân

Người giáo dân cần tìm hiểu để suy nhận những thách thức mới những dấu chỉ thời đại (chẳng hạn như chủ nghĩa đa số, chủ nghĩa vật chất, sự bùng nổ thông tin, và hiện tượng toàn cầu hóa, vv.), họ sẽ cần chỉ điểm, khuyến khích hoặc cảnh cáo, với lòng can đảm và trí tuệ, những hậu quả tích cực hay tiêu cực, hậu quả từ các hành vi hiện tại, phong cách sống và hệ thống của Giáo Hội và thế giới. Đây là cách học hỏi để sống thực vai trò ngôn sứ để công bố "Vương quốc của Chúa Cha" và chỉ tới tiền ảnh "trời mới đất mới" (Giáo Hội # 35), công bố tin mừng của Đức Kitô, xây dựng và hướng tới một vương quốc thiên đường của công lý, hòa bình, sự thật và tự do.

2.10.3 Thừa Tác vụ Vương quyền của người giáo dân

Thừa tác vụ vương quyền của giáo dân là sống thực niềm tự tin và phẩm giá Kitô hữu, sẵn sàng phục vụ cách hiệu quả cho sự phát triển tích cực của Giáo Hội và, cùng với Giáo Hội, cho sự phát triển tích cực của trên thế giới. Đây là việc để tham gia vào sứ mệnh vương giả của Đức Kitô. Thông qua cái chết và sự sống lại của Người, Đức Kitô đã phá xuyên qua sự nô lệ của cái chết và tội lỗi để cho tất cả có thể được giải thoát. Trong công cuộc giải thoát và cứu chuộc như thế, "tất cả mọi loài thuộc về (Đức Kitô) cho đến khi Người tự hiến dâng chính mình và toàn thể mọi loài tác tạo lên Chúa Cha, để Thiên Chúa có thể là mọi sự cho mọi loài." (Giáo Hội # 6)

Người Công giáo cần phải học hỏi để "nhận biết bản chất nội tại, giá trị và trật tự của toàn bộ mọi thụ tạo nhắm tôn vinh Thiên Chúa ... để cho cả thế gian có thể tràn đầy tinh thần của Đức Kitô và có thể đạt được cách hiệu quả hơn vận mệnh của nó trong công lý, trong tình yêu và trong hòa bình ". (Giáo Hội # 36)

Thông qua khả năng, nỗ lực, kỹ xảo và văn hóa của họ, người giáo dân thực hiện thừa tác vụ vương quyền của họ bằng cách sản xuất ra hàng hóa lợi ích cho con người và thiên nhiên và được phân bổ phù hợp và đồng đều giữa tất cả mọi người nam nữ, thúc đẩy sự phát triển tích hợp và quân bình của nhân loại. Sự phục vụ liên quan đến thừa tác vụ vương quyền không thể sử dụng sự bóc lột và các biện pháp bất bình đẳng, nhưng là để chữa lành các tổn hại và thương tích gây ra bởi sự bất bình đẳng và không lành mạnh từ các "tổ chức và điều kiện trong thế giới" để "chúng có thể tuân thủ được theo định chuẩn của công lý, giúp tán thành chứ không cản trở việc thực hành nhân đức. Bằng cách làm như vậy họ sẽ cưu mang văn hóa và lao công con người với một giá trị đạo đức "(Giáo Hội # 36).

3. CÁC KIẾN NGHỊ CỤ THỂ

Để trở thành một Kitô hữu cơ bản có nghĩa là đảm nhận nhiệm vụ chia sẻ các kho tàng  của vương quốc Thiên Chúa với người khác, đảm nhận sứ vụ mở rộng vinh quang của Thiên Chúa, và tiến hành thừa tác vụ chia sẻ kinh nghiệm của riêng mỗi người trong đời sống trong đức tin. Như là một tiền đề cho việc thực hiện thừa tác vụ giáo dân, người tín hữu cần có một sự hiểu biết sâu sắc về nội dung của đức tin và kinh nghiệm của đời sống và niềm vui đức tin mang lại cho cuộc sống hàng ngày. Điều này có nghĩa là mỗi Kitô hữu phải trở thành một người có cuộc sống có ý nghĩa, đạt tới các chiều sâu tâm linh, sở hữu một nhận thức hoàn thành, có một sự quan tâm rộng rãi, và được hưởng một mức độ hạnh phúc bền vững. Do đó, khi chúng ta nói về các thừa tác vụ của giáo dân, chúng ta không nên nhìn vào chúng như là một công việc, tách biệt với đức tin. Chúng tôi tin tưởng sâu xa rằng khi một Kitô hữu tiến bộ trong đức tin, một cách tự nhiên thừa tác vụ của mỗi người nam hay nữ sẽ tỏ lộ và phát triển.

3.1 Tại Cấp cá nhân

1/ a. Đọc Kinh Thánh 

Các thói quen đọc Kinh Thánh hàng ngày cho phép Kitô hữu đạt được sự trưởng thành trong đức tin, và sự thánh hóa của đời sống người đó. Bằng công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông, như điện thoại, trang web và các tài liệu in ấn, các tín hữu có thể đào sâu hơn sự hiểu biết về Lời Chúa và tăng cường sự liên kết giữa Lời Chúa và cuộc sống hàng ngày của một con người. Thực cần thiết để khuyến khích các tín hữu tìm hiểu phương thức "Lectio Divina. Bởi qua nhiều lần cân nhắc về Lời Chúa, hướng cái nhìn của mình vào khuôn mặt của Đức Kitô, và bằng cách tiến vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cho phép Lời Chúa chạm vào linh hồn của chúng ta, để dần dần hình thành và thay đổi toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Bên cạnh đó, các tín hữu nên đặt cao tầm quan trọng của việc chia sẻ Kinh Thánh trong một cộng đồng Kitô hữu nhỏ và sứ vụ công bố Lời Chúa.

2/ b. Cầu nguyện

Sự nhấn mạnh phải đặt vào cho sự liên kết giữa những lời cầu nguyện trước khi ăn và cử hành thánh thể, qua đó chúng ta hiến dâng, cùng với Đức Kitô lên Chúa Cha, những công việc hàng ngày của chúng ta, niềm vui, nỗi khổ và những lời cầu nguyện, để chúng có thể trở thành lương thực cho cuộc sống chúng ta, tinh thần của chúng tachúng có thể lưu hành với Đức Kitô vũ trụ. Trong lời cầu nguyện của mình, chúng ta cũng nên có những quan tâm đến sức khỏe thể chất của chúng ta và chế độ ăn uống, việc bảo vệ môi trường và sự dinh dưỡng, và đặt sự quan trọng vào mối quan hệ giữa các điều răn thứ năm, thứ bảy và thứ mười. Điều này mang ý nghĩa liên kết giữa vật chất với tinh thần, giữa cơ thể với tâm hồn trong lời cầu nguyện của chúng ta 

Khi tinh thần của chúng ta bị tổn thương, chúng ta có thể tìm kiếm sự chữa trị tinh thần phù hợp, và cho phép Chúa Thánh Linh chữa lành cho chúng ta. Các tín hữu cần phải có thời gian hàng ngày để suy niệm và phản ánh, để tham gia vào việc đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Một cách định kỳ, nên dành riêng một thời gian dài cho các tĩnh tâm cá nhân, tốt hơn là theo hướng dẫn của một vị linh hướng tinh thần, để phản ánh về mức độ của cuộc sống mà mình thực hiện được theo ý của Chúa,và để có thể trả lời tiếng gọi của Thiên Chúa. Các tín hữu nên tìm kiếm một linh đạo tinh thần phù hợp với mình, và thúc đẩy các thành đạt về sự thánh thiện, và hiệp thông với Thiên Chúa. Cuộc sống cầu nguyện với cộng đồng, đặc biệt là sự tham gia tích cực trong phụng vụ không nên xem thường.

3/ c. Học cách chiêm ngắm và suy ngẫm

Các tín hữu nên học cách làm thế nào để chiêm ngắm và suy ngẫm để tiếp cận với thế giới tâm linh của riêng mình, để hiểu mình và để cảm nghiệm Thiên Chúa và "sự tốt lành" của Người, và cho phép sự "tốt lành", sự khôn ngoan và tiềm năng Thiên Chúa đã đặt vào tâm lòng của chúng ta được phát triển. Tốt hơn là sự suy ngẫm như vậy phải được thực hành liên tục và trở thành một thói quen. Từ đó, chúng ta sẽ có một
cảm nghiệm và sự hiểu biết sâu xa hơn về lợi ích đến từ sự chiêm ngắm và suy ngẫm, và có thể đạt được mối quan hệ gần gũi hơn và hiệp nhất lớn hơn với Thiên Chúa.

4/ d. Tham gia vào các cộng đoàn Đức tin nhỏ

Đời sống cộng đồng có thể giúp các tín hữu cách hiệu quả hơn cho sự tăng triển liên tục trong đức tin. Do đó, các tín hữu, đặc biệt là các Kitô hữu mới được rửa tội cần được khuyến khích chọn một cộng đoàn đức tin nhỏ phù hợp với các nhu cầu của người đó. Thông qua sự chứng kiến của cộng đoàn, họ có thể sống thực đức tin của họ và chấp nhận sứ vụ truyền giáo.

5/ e. Khám phá các bản sắc khác nhau của một Kitô hữu

Tinh thần được đề nghị trong lá thư mục vụ: "Tiến Bước vào Thập kỷ Tươi sáng" phải được liên tục duy trì. Nó nhấn mạnh đến ba bản sắc của chúng ta: công dân của Hồng Kông, công dân Trung Hoa và người Công giáo, và khuyến khích chúng ta tìm biết thêm về nhân dân Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa và mối quan hệ giữa công dân Trung Hoa và Giáo Hội tại Trung Hoa. Nó cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết để khám phá những chiều kích rộng lớn hơn và ý nghĩa của thế giới và vũ trụ, để đem vào sử dụng những khoa học mới các phát minh của thế kỷ hai mươi mốt (Lý thuyết mới về vũ trụ học, sự tiến hóa, sinh học, vật lý lượng tử, thiên văn học, sinh thái học, vv) để đào sâu đức tin của chúng ta, và để phát triển đối thoại với các bậc thức giả để đạt được sự phong phú hóa lẫn nhau. 

3.2 Ở cấp giáo xứ 

6a. Cộng đồng dự tòng

Ủy ban giáo lý giáo phận nên định kỳ tiến hành đánh giá tổng thể về các nội dung, giáo trình và mô thức của tình trạng dự tòng và thiết lập một hệ thống lượng giá các giáo lý viên. Linh mục quản xứ cần phải có mối quan tâm về chất lượng của tình trạng dự tòng của giáo xứ. Trong quá trình giảng dạy giáo lý, các quan tâm cần phải được đặt vào quan điểm đức tin năng động và linh hoạt của người dự tòng, tránh đi bất kỳ lối thông tin một chiều và giảng thuyết (ví dụ như hội thảo về các chủ đề đặc thù). Đối với nội dung, cần không chỉ đơn thuần là việc chuyển giao kiến thức, nhưng phải thông qua một hình thức chia sẻ nhóm, chú trọng đối với sự hội nhập của Lời Chúa đời sống  hàng ngày, và các nhóm như vậy đóng vai trò như một hình thức sơ bộ của cộng đồng đức tin nhỏ, trong đó thành phần cơ bản là lời cầu nguyện phụng vụ, Lời Chúa, sự phục vụ và đức tin đưa vào thực hành cũng như những chứng từ cụ thểNgười dự tòng nên được giúp đỡ để có được một ý thức về sứ vụviệc truyền giáo, các cảm nghiệm từ việc cầu nguyện và thói quen đọc Lời Chúa (Ví dụ: họ cần được dạy về phương thức Lectio Divina). Họ cần được khuyến khích để đọc sách (bao gồm Kinh Thánh, Kung Kao Po và sách tinh thần), tham gia vào các hoạt động đào tạo Kitô hữu được tổ chức bởi các nhóm khác nhau, để có được một thói quen tham gia vào đời sống phụng vụ của các giáo xứ, đặc biệt là trong phụng vụ Mùa Chay và Tuần Thánh. Các mối quan hệ và giao tiếp giữa giáo xứ và những người dự tòng cần được củng cố, ví dụ, thành viên của nhóm mục vụ hoặc hội đồng mục vụ phải thăm những người dự tòng định kỳ, và chia sẻ những phát triển mới nhất của giáo xứ, mời gọi người dự tòng tham gia vào các hoạt động giáo xứ và nên tiến hành việc đến thăm nhà những người dự tòng vv linh mục quản xứ nên được khuyến khích để thỉnh giảng các lớp dự tòng cũng như có liên hệ nhiều hơn với các dự tòng.

7 b. Các nhà bảo trợ cho người dự tòng

Bên cạnh cha mẹ đỡ đầu, các giáo xứ cần công khai tuyển dụng các nhà bảo trợ cho người dự tòng. Là một phần của công tác dự tòng, các nhà bảo trợ trên một mặt có thể hợp tác với các giáo lý viên, qua đó giảm bớt khối lượng công việc cho họ, mặt khác, nó có thể là một dịp ôn lại giáo lý cho các nhà bảo trợ, để trong tương lai họ có tiềm năng trở thành những giáo lý viên, và có thể hỗ trợ cho việc theo dõi sinh hoạt của các cộng đồng đức tin nhỏ được thành lập do những người mới được rửa tội.

8 c. Cha mẹ đỡ đầu

Thực là điều cần thiết để xem xét và tăng cường vai trò và thừa tác vụ của cha mẹ đỡ đầu. Đối với người lớn, sau khi được chính thức chấp nhận như là các dự tòng (một năm rưỡi trước khi họ được rửa tội), giáo xứ phải khuyến khích các giáo dân xứng hợp làm cha mẹ đỡ đầu. Các cuộc họp đào tạo sau đó nên được tổ chức cho họ. Họ cần được khuyến khích không nên làm cha mẹ đỡ đầu cho quá nhiều dự tòng. Sau khi rửa tội, cha mẹ đỡ đầu cần phải duy trì liên lạc chặt chẽ với con cái đỡ đầu, và trở thành bạn đồng hành trong cuộc sống của đức tin cho họ.

9 d. Khuyến khích người mới được rửa tội gia nhập cộng đoàn

Trong quá trình dạy giáo lý, người dự tòng cần được giúp đỡ để nhận thức được và kinh nghiệm về cộng đoàn đức tin nhỏ, và giáo lý viên nên khuyến khích họ tham gia các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ của giáo xứ sau khi rửa tội, để gặp gỡ thường xuyên, để chia sẻ Lời Chúa, và sống xứng với đức tin của một tín hữu trong cuộc sống hàng ngày và đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Họ cũng nên để cho các tín hữu vừa được rửa tội thành lập những cộng đồng đức tin mới, và để tiếp tục cảm nghiệm những điều họ thích thú trong thời gian dự tòng, để trưởng thành trong đức tin. Giáo Lý viên hoặc trợ giảng nên theo dõi các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ một khoảng thời gian, để họ có thể tiếp tục tăng trưởng trong đức tin. Ví dụ như họ nên cung cấp các nhóm hỗ trợ và các nguồn lực đào tạo trong Giáo Hội cho các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ. Cũng như các cuộc thăm viếng thăm thường xuyên của các giáo lý viên có thể trở nên hữu ích

10 e.  Bí tích Rửa tội cho trẻ sơ sinh

Giáo xứ nên đến nhà thăm viếng các gia đình yêu cầu rửa tội cho trẻ sơ sinh, để hiểu được điều kiện của các gia đình này, các thực hành tôn giáo của cha mẹ, và sử dụng những dịp này để liên hệ với những người không thường xuyên đi nhà thờ. Còn hơn thế nữa, các giáo xứ cần cung ứng những họp mặt đào tạo đức tin cho các bậc cha mẹ, trong khi cha mẹ về mặt khác cũng có nghĩa vụ tham dự các cuộc họp đào tạo như thế. Sau khi có hệ thống các dữ liệu liên quan của gia đình và nộp đơn cho họ, giáo xứ có thể chủ động đến thăm những gia đình đó vài năm sau đó để hiểu được tình cảnh của họ và mời trẻ em tham dự các lớp học ngày Chúa Nhật.

11 f. Trường học Ngày Chúa Nhật

Ủy Ban Giáo Lý giáo phận nên tiến hành tổng thể xem xét về nội dung, giáo trình và hình thái tổ chức của Trường học Ngày Chúa Nhật (Trường Chúa Nhật), và tăng cường mạch sống của và mức độ quan tâm đến sinh hoạt này. Cần có nhiều hơn các sáng tác và sắp xếp cho các bài hát, trò chơi tôn giáo và giảng cụ phù hợp vv. Trường Chúa Nhật cho trẻ em tuổi tiền mẫu giáo (từ 3 đến 6) như là nhóm đối tượng cần được xem xét. Đối với giáo viên, các tín hữu với kiến thức chuyên môn (như trường học sơ cấp, nhà trẻ hoặc trung tâm giữ trẻ) nên được tuyển dụng là người chịu trách nhiệm cho Trường Chúa Nhật, cho việc hướng dẫn và hỗ trợ các giáo viên khác. Trường Chúa Nhật nên định kỳ và công khai tuyển dụng giáo dân làm giáo viên. Linh mục quản xứ phải gặp gỡ các giáo viên Trường Chúa Nhật để có một cái nhìn cập nhật tổng quan về tình hình. Các Giáo phận nên tổ chức hoạt động thường xuyên để tăng cường kỹ năng giảng dạy của giáo viên, và để thúc đẩy một sự chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và chiều sâu của đức tin.

12 g. Đời Sống Gia Đình

Để giúp tín hữu thấy tầm quan trọng của đời sống gia đình, giáo xứ cần đẩy mạnh hoạt động gia đình, và nuôi dưỡng mối thông đạt và sự hiểu biết giữa các thành viên trong gia đình. Thành lập các cộng đồng đức tin nhỏ (small faith communities – nhóm niềm tin) với gia đình là đơn vị cơ bản cần được khuyến khích trong các giáo xứ. Cả giáo phận và giáo xứ cần phát huy mạnh mẽ việc đào tạo tinh thần của các gia đình, ví dụ: đọc Kinh Thánh trong gia đình, gia đình cầu nguyện, gia đình hòa giải vv có thể sử dụng các nguồn lực hiện có trong xã hội và trong Giáo Hội, ví dụ: mời Caritas hoặc C.M.A.C. tổ chức các khóa học và các hoạt động nhằm tăng cường sự hiểu biết của về chính mình (kể cả cảm xúc và cá tính của một người vv) và phát triển sự hội nhập, và tập trung vào việc giúp các tín hữu tạo nền móng cho một nhân cách lành mạnh, cho phép cảm nghiệm về bản chất tự nhiên của con người thực, để trở thành một người khỏe mạnh và toàn bộ, và để cho phép tích hợp với kinh nghiệm của niềm tin.

13 h. Sử dụng ngày Chúa Nhật để tăng cường việc đào tạo Kitô hữu

Thánh Lễ Chúa Nhật, là một trong phụng vụ Giáo Hội với mức tham gia cao nhất, có thểữđược sử dụng cách thích hợp để tăng cường việc đào tạo Kitô hữu. Các yếu tố của công cuộc đào tạo đức tin có thể được giới thiệu, mà không ảnh hưởng đến việc phụng vụ, ví dụ, sau khi Rước lễ hoặc trước khi bắt đầu cử hành Thánh Thể, một vài phút đào tạo có thể được cung ứng cho các tín hữu.

Nội dung có thể là một bài giáo lý triển khai ngắn và cô đọng, hoặc giải thích những yếu tố khác nhau của phụng vụ, hoặc ý nghĩa của bài đọc ngày hôm đó. Mặt khác, trên một số ngày Chuá Nhật đặc biệt, chúng ta có thể để cho các tín hữu chia sẻ những chứng từ của họ về Lời Chúa một cách trang trọng, ví dụ: các gia đình có thể làm như vậy vào ngày lễ Thánh Gia, các giáo viên vào ngày Chủ Nhật Giáo dục, các công nhân vào ngày Chúa Nhật lao động, vv…Có thể là điều tốt hơn nếu những chứng từ này do giáo dân trong xứ, và họ cần chuẩn bị kỹ. Họ có thể cung cấp các  kinh nghiệm sống của họ như là những minh họa liên hệ. Điều đáng khuyến khích các linh mục nên cho một kết luận ngắn sau các chia sẻ. Ngòai ra đó có thể là một dịp đào tạo và phản ánh về niềm tin và đời sống Kitô hữu đối với những người chia sẻ chứng từ của họ.

14 i. Bí Tích Hòa Giải

Điều cần thiết là nên chọn một giáo xứ ở mỗi hạt để cung ứng cơ hội cho các tín hữu nhận lãnh  bí tích hòa giải, vào mỗi ngày thứ bảy trong những giờ cố định.

15 j. Tăng cường các hoạt động đào tạo

Điều cần thiết củng cố những nỗ lực hướng tới việc đào tạo đức tin trong giáo xứ. Các hoạt động như thế cần phải được hỗ trợ bởi các tổ chức giáo phận có liên quan và các cộng đồng Hội đồng mục vụ của mỗi giáo xứ nên thiết lập một đội đào tạo có trách nhiệm lập kế hoạch và phối hợp hoạt động đào tạo hoặc các khóa học trong giáo xứ, hoặc mời các đơn vị có liên quan trong Giáo Phận hoặc các tổ chức khác nhau cung ứng các khóa học cho việc đào tạo giáo dân.  Các  đội đào tạo trong cùng một hạt có thể hình thành một mạng lưới hỗ trợ, thúc đẩy các chia sẻ định kỳ, đổi mới, học hỏi, và để cùng hỗ trợ trong các hoạt động thích hợp trong hạt hay các khóa học về đào tạo.

Các giáo xứ nên tổ chức các khóa học thường xuyên về cập nhật giáo lý cho các tín hữu. Các diễn giả thích hợp có thể được mời, ví dụ như thành viên hội đồng mục vụ, các giáo dân đã tốt nghiệp từ Viện Thần Học, Triết học và Khoa học Tôn giáo của Đại Chủng viện Chúa Thánh Linh hoặc Học viện Kinh Thánh, các giáo lý viên của giáo xứ hoặc thành viên của đội ngũ đào tạo của giáo phận, nhằm cho phép các tín hữu lượng định một cách có hệ thống các mối quan hệ giữa đời sống hàng ngày với Thánh Kinh, phụng vụ, luân lý và giáo lý.

16 k. Đào tạo về Tinh thần Svụ

Trong các giai đoạn khác nhau của quá trình đào tạo, nhiều chú trọng nên được đặt vào sứ vụ của Kitô hữu, và những cách thế để phát triển tinh thần sứ vụ và phục vụ Giáo Hội thông qua các thừa tác vụ khác nhau. Các giáo xứ nên khuyến khích nhiều giáo dân theo đuổi việc tự đào tạođào tạo cả cuộc đời, ví dụ: bằng cách bảo trợ một số tín hữu để khai triển sâu xa hơn việc đào tạo, tạo cơ hội cho các giáo dân để phát triển những gì họ đã học được sau khi hoàn thành việc đào tạo căn bản của họ. Tự các hạt có thể quy tập thành các nhóm trong khu vực của mình những giáo dân đã hoàn thành việc đào tạo cơ bản và cung cấp cho họ đầy đủ tự do và hỗ trợ (cả về vật chất lẫn tinh thần), từ đó, họ có thể lên kế hoạch cho các hoạt động tiếp theo hoặc các khóa học về đào tạo đức tin.

17 lGia tăng mối giao tiếp với các Kitô hữu "ítnhận thức thuộc về giáo xứ "

Điều cần thiết là nhằm nâng cao nhận thức của mọi tín hữu trong việc chủ động liên hệ với những Kitô hữu "đang có ít ý thức thuộc về giáo xứ. Toàn thể nhân viên của giáo xứ cần có nhận thức sâu xa hơn về thái độ của họ đối với tín hữu. Các giáo phận nên tổ chức các khóa học đào tạo cho tất cả các nhân viên của giáo xứ, củng cố các huấn luyện trong cách xúc tiếp và thái độ của họ, và tăng cường ý thức phục vụ trong Giáo Hội. Các giáo xứ phải cố gắng để tìm hiểu những điều kiện hiện thời và nhu cầu của các tín hữu trong những dịp con cái rửa tội, đám cưới hay đám tang, và mời họ tham gia vào đời sống của Giáo Hội. Các giáo xứ cần phải tích cực hỗ trợ những người vừa dời dọn đến hoặc hiếm khi xuất hiện trong nhà thờ, hoan nghênh họ tham gia vào đời sống giáo xứ, ví dụ: tham gia các hiệp hội hay các nhóm niềm tin, khuyến khích con cái của họ tham dự Trường Chúa Nhật, vvMặt khác, các thừa tác viên mục vụ của giáo xứ cần phải tích cực liên hệ với các trường học Công giáo ở đíc phương, lợi dụng cơ hội tốt để liên hệ với cha mẹ công giáo, và để tổ chức các hoạt động đào tạo hay giới thiệu cuộc sống giáo xứ cho họ.

18 m. Phát triển các cộng đồng Kitô hữu nhỏ

Các giáo xứ cần cung ứng việc đào tạo hay thăm viếng các nhóm Kitô hữu nhỏ khác nhau, và khuyến khích sự thăm viếng lẫn nhau giữa các nhóm như thế. Thông qua các liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau, họ có thể rút kinh nghiệm cụ thể về tinh thần một gia đình của cộng đồng Giáo Hội. Các thừa tác viên mục vụ của giáo xứ nên tận tình khuyến khích nhiều hơn nữa những giáo dân với ơn đặc sủng lãnh đạo để dấn bước, và chủ động mời gọi và khuyến khích họ tiếp nhận các đào tạo cần thiết. Các tổ chức chuyên lo việc đào tạo nên cung cấp tài liệu nhiều hơn cho các các hội họp của các nhóm Kitô hữu nhỏ, và tổ chức các hoạt động đào tạo thích  hợp, cũng như giúp hỗ trợ họ một khi có khủng hoảng xảy ra trong các nhóm này.

19 n. Xây dựng đội ngũ Hội đồng mục vụ giáo xứ 

Các cơ quan chuyên trách đào tạo của Giáo phận nên thiết kế các khóa học đào tạo đặc biệt hoặc các hoạt động cho các thành viên của Hội đồng mục vụ. Thông qua các sinh hoạt năng động, trò chơi, vv với chú trọng đặc biệt về việc xây dựng đội ngũ, liên hệ cá nhân, các khóa học như vậy cho phép các tham gia viên xây dựng mối quan hệ hợp tác, tăng cường khả năng giải quyết vấn đề, tinh thần đồng đội, và cải thiện kỹ thuật ủy quyền và đàm phán, v v… Chúng sẽ rất hữu ích cho quy hoạch của một hướng mục vụ trong tương lai và các dự án vững chắc khả thi của toàn bộ giáo xứ, cũng như  hướng dẫn các thành viên hội đồng mục vụ sống theo sứ vụ Kitô hữu của mình và tinh thần cộng đoàn

Linh mục quản xứ nên tham gia các khóa học như thế. Điều này sẽ có lợi cho cả hai bên cùng hợp tác và hiệp thông trong hội đồng. Điều này sẽ trở thành đặc biệt tốt đẹp trong việc thúc đẩy một mối quan hệ hợp tác, hiệp thông, yêu thương và sự tha thứ giữa tín hữu và giáo sĩ, đồng thời, nó cần thiết để tái thâu nhận một hệ thống đội ngũ mục vụ trong các giáo xứ (bao gồm linh mục, nữ tu và phụ tá mục vụ), để giáo sĩ và giáo dân trở thành đồng-trách nhiệm trong công tác mục vụ của giáo xứ.

20 o. Tăng cường sự trao đổi giữa các giáo xứ

Bên cạnh việc thúc đẩy sự chia sẻ giữa các viên chức của hội đồng mục vụ giáo xứ tại các phiên họp khoáng đại của mình, Hội đồng Trung ương về Giáo dân nên tăng cường sự chia sẻ và giao tiếp giữa các giáo xứ, và làm sâu sắc tinh thần hiệp thông và hợp tác trong Giáo Hội thông qua sự học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau. Hội đồng Giáo dân có thể xem xét việc thành lập các trạm trao đổi (chat) trên trang web của mình, mời gọi tất cả các viên chức trong mỗi giáo xứ chia sẻ, thông qua lời nói và hình ảnh, về tình hình hiện tại của các giáo xứ kinh nghiệm của họ trong các chương trình đang tiến hành.

3.3 Tại Cấp Giáo Phận

21 a. Thúc đẩy việc giảng dạy Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo

Thực là điều cần thiết để khuyến khích các giáo dân đào sâu kiến thức về giáo lý của Giáo Hội Công Giáo. Đồng thời, nội dung của bộ Giáo lý cũng có thể được chia thành một loạt các khóa học đào tạo đơn giản. Qua chia sẻ, sinh hoạt, các câu hỏi, trò chơi, trạng huống điển hình, mối quan hệ giữa giáo lý và cuộc sống hàng ngày có thể được minh họa. Các cơ quan giáo phận hoặc các nhóm có thể cung cấp tài liệu nhằm mục đích giới thiệu một cách đơn giản mối quan hệ giữa giáo lý và sinh hoạt hàng ngày. Các tài liệu này có thể được gửi đến và được in ra bởi các giáo xứ cho các tín hữu. Điều cần thiết tổ chức các khóa đào tạo liên tục cho những tân tòng mới được rửa tội, và bắt buộc họ tham gia trong giai đoạn khai tâm tôn giáo. Các khóa học này cần cung ứng việc đào tạo đức tin liên tục ngắn hạn có hệ thống cho  các tân tòng mới được rửa tội, và cung ứng các phương tiện đào tạo đức tin cho họ về sau. Các cơ qua giáo phận hoặc các nhóm làm việc trong lĩnh vực đào tạo có thể sử dụng kỹ thuật thông tin để làm cho nội dung giáo lý sinh động và mang tính tương tác hơn, và để cung ứng cách thức tự đào tạo cho giáo dân bằng cách sản xuất các đĩa CD tự học hoặc cài đặt các tài liệu trên các trang website.

22 b. Đẩy mạnh quảng bá giáo huấn xã hội của Giáo Hội Công Giáo

Các tổ chức và các cộng đồng liên hệ nên tạo cho giáo dân biết kho tàng độc đáo này của Giáo hội Công giáo trong một cách mới và tạo điều kiện cho sự hội nhập của giáo huấn xã hội với môi trường sống. Các nhóm quan tâm xã hội của giáo xứ thông qua các cách thế khác nhau, ví dụ: các trang web, đĩa CD, các khóa học đào tạo, hội thảo, đố vui, vv… và tại các cấp độ khác nhau của Giáo hội (trường học, các giáo xứ, Caritas) có thể giúp các tín hữu trong vấn đề này để hiểu biết hơn và để sống phù hợp, cũng như tạo điều kiện để cho họ đáp ứng và phản ánh về môi trường làm việc của họ, và phải đối mặt với những cuộc tấn công và thách thức của văn hóa xã hội. 

Giáo Lý viên nên khuyến khích các dự tòng phản ánh về các vấn đề của đời sống hàng ngày dựa trên các nguyên tắc về giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Điều này có thể được thực hiện qua mô thức của ngày hội thảo cho các chủ đề cụ thể, nhằm cho phép người dự tòng tra vấn sâu xa hơn phản ánh về những thách thức đối mặt với đức tin và đời sống hàng ngày.

23 c. Quảng bá thói quen đọc sách trong Giáo Dân

Bên cạnh Hiệp hội Chân lý Công giáo, Giáo phận nên khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động in ấn khác trong Giáo Hội nhằm xuất bản nhiều hơn cácc loại sách vở liên quan đến đức tin. Tại cấp độ khác nhau, giáo dân cần được hỗ trợ để có một thói quen đọc sách báo tôn giáo đặc biệt là Văn kiện Giáo Hội, ví dụ: trong thời gian dạy giáo lý, các dự tòng sẽ được yêu cầu để tường trình (bằng vấn đáp hoặc bằng văn bản) các sách tôn giáo theo ý thích của riêng mình và để chia sẻ với với các tòng khác. Các tổ chức và các nhóm đào tạo và xuất bản phải định kỳ giới thiệu các cuốn sách tôn giáo hay cho các tín hữu. Mỗi năm, mười cuốn sách có thể được lựa chọn bởi giáo dân cho chung để giới thiệu. Điều cần thiết là việc thành lập các nhóm đọc sách trong giáo xứ, và mời các tổ chức in ấn sách đến triển lãm hoặc các sinh hoạt để quảng bá các sách mới.

24 d. Bảo vệ môi trường

Điều được khuyến nghị trong các lĩnh vực đào tạo giáo dân, đời sống đức tin và sinh hoạt cộng đồng, là các chú trọng mới nên đặt vào tín điều Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa, qua đó, để cảm nhận, đánh giá cao và chúc phúc cùng với Chúa Cha những gì Người đã tạo ra (Gen 1:01-2:03), để các tín hữu đáp trả trong sự vâng phục Chúa Cha và hiểu ra hệ sinh thái là một phần nội tại của đức tin Công giáo. Trong thái độ và trong thực hành, điều cần thiết mở rộng lòng kính trọng của chúng ta đối với sự sống và phẩm giá con người đến những tạo vật khác. Trong lời cầu nguyện và phụng vụ, chúng ta phải biết làm thế nào để ca tụng Chúa cùng với toàn bộ tạo vật

Các bậc thầy đào tạo như linh mục, nữ tu, giáo lý viên, các tổ chức, và các nhóm đào tạo khác, giáo xứ, trường học, vv được khẩn trương yêu cầu kết hợp các mối quan tâm đối với môi trường sinh thái vào các chương trình nghị sự của họ, và để xem xét việc bổ túc thêm các khóa học và đào tạo như thế, trong đó các khoa thần học và tâm linh về hệ sinh thái được coi là một phần thiết yếu, để sự hội nhập đầy đủthể đạt được giữa "trời, đất và con người,". Điều này là để sửa đổi những gì đã thiếu sót của quá trình đào tạo trong quá khứ, do chỉ giới hạn vào mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người và các mối quan hệ giữa con người với nhau. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị rằng "trời, đất con người" cần phải trở thành những chiều kích hoàn chỉnh và không thể thiếu, là tiêu chuẩn và nguyên tắc, cũng như quá trình lên kế hoạch và đánh giá của việc đào tạo đức tin.

Việc đào tạo có hiệu quả bao gồm các thực hành trong cuộc sống, do đó, chúng tôi đề nghị giáo dân nên tham gia nhiều hơn vào các hoạt động bảo vệ môi trường, và tiếp nhận hoặc hỗ trợ các hoạt động quan tâm về môi trường. Là một khía cạnh quan trọng của sự đào tạo, các giáo xứ cần mang chủ đề về bảo vệ môi trường từ vị trí ngoài lề và bị bỏ rơi vào một ưu tiên cao trong các hoạt động và các nghị sự soạn thảo kế hoạch. Chúng tôi cũng đề nghị giáo phận thiết lập một hội đồng về bảo vệ môi trường để thực hiện các đề xuất nêu trên, và để đáp ứng và đóng góp thích hợp đối với các chính sách xã hội và các tình huống liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.

25 e. Sử dụng kỹ thuật truyền thông cho việc cập nhật giáo lý

Bên cạnh các khóa học Giáo Lý được cung ứng bởi Hội đồng Trung ương của Giáo Dân Công Giáo (bao gồm mô hình văn bản và mô hình web), hy vọng rằng các cơ quan khác (trung tâm thâu hình thâu thanh và văn phòng Đào tạo Giáo dân của Giáo Phận,vv) có thể sử dụng kỹ thuật truyền thông để sản xuất các khóa học giáo lý đa dạng bằng các phương tiện tự học như đĩa CD và trang web, nhấn mạnh đến sự tương tác và ý thíchCác khóa học như vậy thậm chí có thể cung cấp cho giáo viên, những người sẽ tổ chức các cuộc họp định kỳ, việc theo dõi quá trình học tập. Hơn nữa, nội dung các khóa học nên tập trung chung quanh việc hội nhập đức tin và cuộc sống hàng ngày.

26 f. Tập trung các nguồn lực nhằm thúc đẩy việc đào tạo giáo dân

Phối hợp với một hoặc nhiều đơn vị giáo phận (hoặc một đơn vị mới được tạo ra) để thiết lập một cơ sở internet nhằm cung ứng các tài liệu đào tạo đức tin, tập họp các nội dung của các cơ quan và cộng đồng khác nhau trong giáo phận, từ đó, tạo thuận lợi cho người sử dng trong việc tìm kiếm dữ liệu về đức tin. Các chức năng tương tác cho nguồn tài liệu đào tạo này nên được gia tăng, đ người sử dng có thể bày tỏ quan điểm của họ sau khi sử dụng các tài liệu khác nhau (ví dụ như sách tôn giáo, các bài hát, phim ảnh, vv) Bằng cách này, chúng ta có thể tạo ra một bầu khí thảo luận và chia sẻ cùng với những người khác trên trang web. Các chức năng khác bao gồm cả các email hàng ngày về Thánh Kinh, thẻ đức tin điện tử, để lắng nghe (hoặc xem) các trình bày về việc đào tạo hoặc chứng từ được đưa ra bởi giáo dân, các cuộc phỏng vấn của những vị khách đặc biệt,các sự kiện thời sự của Giáo Hội hoàn vũ lẫn Giáo Hội địa phương, quảng cáo về các hoạt động đào tạo, đặt mua các hàng tôn giáo và sách vở tinh thần, tất cả các mục trên có thể tăng cường sự quan tâm và nhu cầu cho việc đào tạo đức tin.

27 g. Tăng cường hợp tác và phối trí giữa các cơ quan Giáo phận và các cộng đồng

Các giáo phận nên tăng cường trao đổi truyền thông, sự hợp tác và quan hệ đối tác giữa các Hội Đồng Giáo Phận,các Cơ quancác Cộng đồng hoạt động cho việc đào tạo giáo dân. Đặc biệt là phải hỗ trợ công việc đào tạo đức tin của các giáo xứ, và đặt ra những hướng dẫn về sự hợp tác giữa các nhóm, ví dụ: Bảy đơn vị thuộc Giáo Phận và các nhóm hỗ trợ của giáo xứ về các quan tâm xã hội đã được thiết lập, để hỗ trợ công việc đào tạo của các giáo xứ trong lãnh vực quan tâm xã hội.

28 h. Khuyếch trương Quỹ Đào tạo Giáo Dân

Điều này có nghĩa là thêm một hoạt động gây quỹ, để tăng tài khoản cho Quỹ tài trợ, để nó có thhỗ trợ giáo dân nhiều hơn trong việc tự đào tạođào tạo lâu dài và đồng thời mở rộng các lãnh vực hoạt động. Đối với việc cân nhắc các ứng dụng, cần nên sự linh động, ví dụ: bao gồm cả sự hỗ trợ cho các chi phí trong cuộc sống hàng ngày, cho các khóa học ở nước ngoài, và yêu cầu tất cả các ứng viên đóng góp cho Giáo Hội (ví dụ, soạn thảo một kế hoạch hành động) sau khi hoàn thành khóa học của họ. Bên cạnh việc hỗ trợ giáo dân trong việc đào tạo lâu dài, Quỹ tài trợ có thể hỗ trợ các tổ chức, các giáo xứ nỗ lực của họ để điều hành cách sáng tạo và hiệu quả các hoạt động mang bản chất đào tạo, ví dụ, mời chuyên gia nước ngoài hoặc các nhóm để tiến hành các hoạt động đào tạo.

29 i. Cơ chế cho các Phụ tá mục vụ trong sinh hoạt Kế hoạch và Phối trí

Nhằm mục đích lên kế hoạch, phối trí và phát triển thừa tác vụ phụ tá mục vụ tại giáo xứ cách hiệu quả hơn, Giáo Phận nên áp dụng một cơ chế càng sớm càng tốt, để nghiên cứu và xác định bản chất công việc của phụ tá lý mục vụ, trình độ, thủ tục tuyển dụng trung ương, nội dung huấn luyện của các giai đoạn trước và trong khi phục vụ, thủ tục xử lý tranh chấp, vvvà để thực hiện các quy tắc và lề luật liên quan. Rồi sau đó, các cuộc họp đào tạo định kỳ sẽ được tổ chức để tạo điều kiện chia sẻ và trao đổi giữa các phụ tá lý mục vụ. Những người làm việc trong giáo xứ phải gặp gỡ theo định kỳ để thúc đẩy chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau. Điều mong muốn nhất có một đại diện của Giáo phận đ hỗ trợ và làm điều phối viên của họ.

30 j. Sử dụng các học viên tốt nghiệp từ Khoa Thần học và Triết học và Viện Kinh Thánh, Chủng viện Chúa Thánh Linh m tài nguyên nhân lực cho hoạt động mục vụ

Giáo phận phải coi trọng, khẳng định giá trị và sử dụng các sinh viên và học viên tốt nghiệp từ Khoa Thần học và Triết học và Viện Kinh Thánh và nhìn nhận họ như là các tài nguyên nhân lực cho công việc mục vụ của mình. Giáo phận nên tiến hành việc tuyển dụng tập trung các phụ tá mục vụ cho các giáo xứ hàng năm từ các ứng cử viên thích hợp trong số những học viên tốt nghiệp.

Giáo phận (hoặc một cơ quan mới thành lập) sau khi tham khảo ý kiến các phụ tá mục vụ và các linh mục quản xứ, sẽ gửi các phụ tá đến giúp việc mục vụ cho những giáo xứ thích hợp và thiếu thốn. Trong các trường hợp khả thi lý tưởng, phụ tá mục vụ nên tham gia trong đội ngũ hội đồng mục vụ, và cùng với các linh mục và nữ tu chia sẻ trách nhiệm và hợp tác trong hiệp thông, thúc đẩy hoạt động mục vụ của giáo xứ, ví dụ: hỗ trợ các cộng đoàn đức tin nhỏ, thúc đẩy việc đào tạo đức tin, lên kế hoạch cho công việc truyền giáo vv…Khoa Thần học và Triết học và Viện Kinh Thánh của Chủng viện Chuá Thánh Linh nên hợp tác với cơ quan liên hệ của Giáo phận để cung ứng những sinh viên hoặc học viên tốt nghiệp có ý muốn trở thành phụ tá mục vụ toàn thời gian, cung ứng các khóa học đào tạo thích hợp trong công việc mục vụ, bao gồm cả gợi ý lý thuyết và sắp xếp cho lĩnh vực thực hành.
 

Ghi chú 1: "Who are near, who are far – the reason why I distant myself from the Church”, page36. I992.

Ghi chú 2:  Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 899

Ghi chú 3: Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo  898

Ghi chú 4: Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo  783
 

Tác giả: Phạm Hương Sơn

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!