.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Chương 1: Mấy dặm sơn khê

Chương 2: Hải đảo Phú Quốc

Chương 3: Đà nẵng - Hội an

Chương 4: Thừa Thiên - Huế

Chương 5: Hà nội

Chương 6: Hạ Long

Chương 7: Thành phố Sapa

Chương 8: Lên miền Cao nguyên

Chương 9: Đáo Trường Thành

Chương 10: Bắc Kinh

Chương 11: Thượng Hải & Hàng Châu

Chương 12: Nhà Truyền Thống/ Văn Hóa & Đức Tin

Chương 13: Tu hội truyền giáo Vinh Sơn

Chương 14: Đan Viện Biển Đức Thiên Phước

Chương 15: Trẻ em khuyết tật

Chương 16: Những bào thai bị giết

Chương 17: Trung Tâm Trọng Điểm

Chương 18: Nhóm Tiếng Vọng

Chương 19: Khóa Tĩnh Huấn Vũng Tàu

Chương 20: Thánh lễ cầu cho bệnh nhân HIV/AIDS

Chương 21: Những thách đố đối với giáo hội Công giáo VN

Chương 22: Hiến Sinh Lâm Võ Hoàng

Chương 23: Linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích (1891-1978)

Chương 24: Cụ Văn Đình Tôn Thất Bản (1890-1973)

Chương 25: Lm. Thiên Phong Bửu Dưỡng (1907-1987)

Chương 26: Lm. Bửu Đồng (1912-1968) & Bửu Hiệp (1914-1988)

Chương 27: Bà Maria Tôn Nữ Ngọc Hoè (1897-1954)

Chương 28: Giáo sư Bùi Xuân Bào (1916-1991)

Chương 29: Giáo Sư Phan Huy Đức (1913 - +…)

Chương 30: Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương (1925…)

Chương 31: Cựu Hoàng Bảo Đại (1913-1997)

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Những Nẻo Đường Việt Nam
Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh
CHƯƠNG 31: CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI (1913-1997)

Cựu Hoàng Bảo Đại là vị vua cuối cùng Nhà Nguyễn mà mọi người đều biết. Việc trở lại đạo Công Giáo của Cựu Hoàng đã gây sửng sốt cho nhiều người, cũng như việc kết hôn của ông với một vị nữ lưu Công Giáo trước kia vậy.

 

TIẾT MỘT

NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU

Khi trình bày về Cựu Hoàng Bảo Đại mà không nhắc đến Nam Phương Hoàng Hậu – một “nữ lưu Công Giáo” – là một thiếu sót rất lớn. Gần đây, một học giả đã sưu tập một số tài liệu về Nam Phương Hoàng Hậu và được tóm tắt như dưới đây.

Gia thế

Nam Phương Hoàng Hậu  khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse – sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam thời đó. Ông Huyện Sỹ là người đã bỏ tiền xây cất Nhà Thờ ở đường Bùi Chu cũ, nay là Tôn Thất Tùng, Quận II Sài Gòn, với tên gọi là NHÀ THỜ  HUYỆN SỸ.

Du học ở Pháp

Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi đậu tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước. Tình cờ trên chiếc tàu đó có nhà vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là Vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụỵ

Cuộc gặp gỡ 

Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giữa đại dương một thời gian khá lâu, nhưng cô Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổi. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát ở Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn Quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi là khách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau.

Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước Hoàng Đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước.

Đám cưới

Ðám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó bà Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng Hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện bà Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng Hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nhà Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương Phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng Hậu.

Cuộc nhân duyên

Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng Hậu Nam Phương, Cựu Hoàng Bảo Đại đã ghi lại trong cuốn “CON RỒNG VIỆT NAM” như sau:

"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thaoâm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng.

Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng Hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng Thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng Triều Huế với người dân miền Nam”.

Về phần Hoàng Hậu Nam Phương, bà đã nhắc lại như sau:

"Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi.

Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: ‘Ông và cô phải đến bái yết Hoàng Thượng mới được’. Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:

- Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng Thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse).

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, qùy một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi Âu Tây đối với Ngài”.

Cuộc sống nơi cấm thành

Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.

Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sanh 5 người con, gồm có:

-         Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936,

-         Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937,

-         Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938,

-         Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942,

-         Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943.

Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng Hoàng Hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên Đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên Cung và Hoàng Thái Hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.

Công tác từ thiện xã hội

Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, Hoàng Hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện, như đi thăm trường nữ Trung Học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy) và Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyễn Huệ ngày nay). Bà thường tiếp xúc với các Giáo Sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô phạm.

Theo lời nữ sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng Hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại Trung Tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế.

Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cộng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây trên sáu mươi năm, Hoàng Hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều hiếm có.

Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào quốc hoặc Quốc Vương Sihanouk của Cao Mên v.v … đều có sự hiện diện của Hoàng Hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng Hậu tháp tùng.

Hòa khí giữa Công Giáo và Hoàng Tộc

Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng Hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa giới giáo sĩ Công Giáo ở Việt Nam với Hoàng Tộc nhà Nguyễn. Như đã biết, đạo Công Giáo với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương Hoàng Hậu, như một làn gió mát, đã thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.

Tình thương dân thương nước

Tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ lòng thiết tha với quê hương đất nước của Hoàng Hậu Nam Phương trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:

Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam, lúc đó vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng Hậu Nam Phương đã gởi một Thông Điệp (Message) cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:

"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng Gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.

Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào chúng tôi”.

Ký tên:

Bà Vĩnh Thụy

(tức Hoàng Hậu Nam Phương)

Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói rằng bức thông điệp trên đây đã được bà Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp.

Âm thầm ra đi

Bà Hoàng Hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Tây Nam nước Pháp theo như lời thuật lại sau đây:

«Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu Hoàng Hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sĩ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ thì bà cảm thấy khó thở. Người hầu bà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu Hoàng Hậu Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi.”

Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.

Đám tang của bà Hoàng Hậu Việt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng Tử và ba Công Chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ, không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac. Trong suốt thời gian tang lễ Cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt.

Mộ Hoàng Hậu Nam Phương nằm ở làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số. Ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:

Bia chữ Hán:

ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ

(Mộ phần của Hoàng Hậu Nam Phương nước Đại Nam)

Bia chữ Pháp:

ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYỄN HỮU THỊ LAN

(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng Hậu Việt Nam nhũ danh Marie Thérèse NGUYỄN HỮU THỊ LAN)

 

TIẾT HAI

CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI.

Lịch sử đã cho thấy nhiều sự kiện đầy bất trắc, nhưng cũng có nhiều đột biến và bất ngờ ngoài sự dự đoán của con người. Câu chuyện trở lại đạo Công Giáo của Cựu Hoàng Bảo Đại có thể coi như một bất ngờ lý thú của lịch sử. Trong quyển sách “Chút Này Làm Tin”, linh mục Nguyễn Thái Hợp đã ghi lại biến cố lịch sử có tính cách bất ngờ đó như dưới đây.

Ông vua vô tích sự

Cựu Hoàng Bảo Đại đã đóng những vai trò quan trọng trong các diễn biến lịch sử của dân tộc Việt Nam vào tiền bán thế kỷ XX. Ông cầm quyền trong một giai đoạn lịch sử cực kỳ phức tạp, nên không thể thực hiện những cải cách mong muốn. Chán nản, ông lao vào các cuộc truy hoan. Dân chúng thường coi ông như một ông vua vô tích sự, nhu nhược, bù nhìn và ham chơi.

Trước tiên Cựu Hoàng bị ép buộc thoái vị ngày 25/08/1945 rồi sống lưu vong ở Hongkong cho đến năm 1949, được người Pháp ủng hộ đưa về nước làm quốc trưởng.

Sau khi bị truất phế qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955, ông sống lưu vong tại Pháp. Trong giai đoạn đầu, ông sống trong một biệt thự ở Côte d’Azur. Về sau, để có tiền đánh bạc và vui chơi, ông phải bán biệt thự đó. Vào giai đoạn cuối đời, ông sống đạm bạc ở Paris, trong một căn hộ thuộc một chung cư ở đường Fresnel, quận 16. Chung cư nầy nằm cạnh khu đồi của công viên Trocadero.

Linh mục Argomathe – chánh xứ Chaillot

Vào những ngày đẹp trời, ông thường đi dạo chung quanh khu công viên Trocadero. Thỉnh thoảng cũng ghé vào nhà thờ Saint Pierre de Chaillot, nằm gần đấy, để thăm linh mục Argomathe – một chuyên gia về lịch sử – bắt đầu cùng nhau trao đổi từ những câu chuyện văn hoá và thời sự vô thưởng vô phạt. Cùng vời thời gian, cuộc đàm đạo ngày càng đi sâu vào lãnh vực tư tưởng và tâm linh, đặc biệt về Kitô giáo. Cựu Hoàng tìm gặp nơi niềm tin tôn giáo ý nghĩa, niềm vui và lẽ sống cho cuộc đời.

Chính vì vậy, bất chấp ý kiến không đồng thuận của một số người, Cựu Hoàng nhất quyết xin gia nhập Đạo Chúa. Ngày 17/04/1988, Cựu Hoàng chịu phép Thánh Tẩy tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot, với tên Thánh là Jean Robert. Liền sau đó, Cựu Hoàng chịu phép Thêm Sức và cử hành lễ hôn phối với bà Monique Baudot.

117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam

Không hẹn mà gặp, chỉ hai tháng sau khi ông vua cuối cùng Nhà Nguyễn gia nhập Công Giáo thì 117 Chân Phước Tử Đạo tại Việt Nam cũng được phong Hiển Thánh. Trong số 117 vị Tử Đạo đó, 111 vị bị hành quyết dưới thời nhà Nguyễn. Những cuộc bách hại Đạo Chúa dưới thời các vua nhà Nguyễn diễn ra lâu dài và tàn khốc nhất, như cụ Phan Bội Châu đã viết: “Sử chép: Từ đời Lê Huyền Tôn (1663-1671), niên hiệu Cảnh Trị đến bản triều Tự Đức (1847-1883), khoảng những năm đầu đều có cái tệ cấm dương giáo, giết giáo đồ. Than ôi! Thời đại chưa khai hóa, có những việc như vậy, nay cũng không nỡ nhắc lại nữa”.

Và trơng lời phê, cụ Phan nhận định thêm: “Mỗi khi nói đến thời Tự Đức, có cái tệ bắt giáo dân tập trung một nơi, thì thấy đó là một hành động bạo ngược, kỳ quái. Chả trách mà nguyên khí nước nhà bại hoại”.

Hạt giống máu tử đạo

Tuy nhiên máu các vị tử đạo là hạt giống sinh ra các Kitô hữu, trong số đó có cả những người thuộc hoàng tộc như linh mục Bửu Dưỡng là một thí dụ điển hình. Trong bài “Cuộc hành trình của đời tôi”, linh mục đã cho thấy sự ác cảm của mình trước kia đối với Công Giáo như thế nào. Nhưng rồi, bằng những ngả đường nhiệm mầu, không những Thiên Chúa đã dẫn đưa chàng thanh nhiên Nguyễn Phúc Bửu Dưỡng tìm gặp Chúa Kitô, mà còn cho trở thành linh mục trong Dòng Đa Minh nữa.

Năm 1951, nhân dịp lễ phong chân phước cho một số anh hùng tử đạo Việt Nam, linh mục Bửu Dưỡng đã nói lên lời tạ lỗi đối với Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo vì những đối xử bất công mà các vua quan nhà Nguyễn đã thực hiện trong quá khứ. Đây là những lời chân thành, phát xuất từ niềm tin và sự xác tín của một người vừa thuộc hoàng tộc, vừa là tu sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, một số người phản đối, vì cho rằng linh mục chưa đủ tư cách đại diện cho Nhà Nguyễn.

Lời xin lỗi của Cựu Hoàng Bảo Đại

Năm 1995, chính Cựu Hoàng Bảo Đại, với tư cách là vị vua cuối cùng Nhà Nguyễn và đồng thời là người Công Giáo, đã xin yết kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II để chính thức thay mặt Nhà Nguyễn nói lên lời xin lỗi Thiên Chúa và Giáo Hội.

Trong lá thư đề ngày 31/03/1995 gởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II để xin yết kiến, Cựu Hoàng đã viết: “Đây sẽ là dịp hạnh phúc cho chúng tôi được quỳ bên cạnh Đấng kế vị Thánh Phêrô để cầu nguyện cho Việt Nam và Giáo Hội đang chịu đau khổ ở đó và qua sự kiện chúng tôi đã chịu phép Thánh Tẩy đem lại cho đồng bào chúng tôi niềm xác tín vào tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng an ủi những người đau khổ”. Ngày 24/06/1995, Cựu Hoàng và phu nhân được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại điện Vatican.

Linh mục chánh xứ Chaillot cho biết sau khi gia nhập Đạo Chúa, Cựu Hoàng Bảo Đại rất ngoan đạo. Cựu Hoàng thường đến nhà thờ cầu nguyện và đặc biệt sùng kính Đức Mẹ Maria. Trong các kinh nguyện, Cựu Hoàng thích nhất bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Mẹ Maria. Cựu Hoàng thường ngâm nga bằng tiếng Pháp mấy câu sau đây:

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi

 Biết bao điều cao cả,

 Danh Ngài thật chí thánh chí tôn!

 Đời nọ tới đời kia,

 Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài.

 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

 Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

 Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

 Người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1, 49-53).

Trở về nhà Cha

Cuối tháng 6/1997, Cựu Hoàng Bảo Đại được đưa vào Quân Y Viện Val de Grâce ở Paris – một bệnh viện dành cho các sĩ quan và viên chức cao cấp của chính phủ Pháp. Cựu Hoàng đã từ trần lúc 5 giờ sáng ngày 31/07/1997, hưởng thọ 87 tuổi.

Tổng Thống Pháp Jacques Chirac gởi lời phân ưu và cử đại diện tham dự tang lễ. Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Angelo Sordano –  đại diện Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II – gởi đến bà vương phi Monique điện văn phân ưu của Tòa Thánh như sau:

Rất đau buồn khi hay tin Ngài Hoàng Đế Bảo Đại đã từ trần. Trong cảnh đau buồn nầy, Đức Thánh Cha ủy thác cho tôi gởi tới bà lời phân ưu và niềm cảm thông sâu xa. Đức Thánh Cha xin phó thác Hoàng Đế quá cố trong tình thương của Chúa Phục Sinh, chính nơi Ngài mà Hoàng Đế đã đặt niềm tin của mình. Đức Thánh Cha đã cầu xin Thiên Chúa dẫn đưa Hoàng Đế vào cõi bình an và đầy ánh sáng. Để bày tỏ lòng ưu ái và tinh thần hiệp thông với bà cũng như tất cả những ai đang đau buồn trong tang lễ nầy, Đức Thánh Cha xin gởi tới bà cùng tất cả thân tộc phép lành đặc biệt của Tòa Thánh”.

Thánh Lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot ngày 05/08/1997, dưới sự chủ lễ của linh mục Guyard, đại diện Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Paris. Bài “Magnificat” một lần nữa đã trang trọng ngân vang trong thánh đường, theo đúng ý nguyện của người quá cố.

Tác giả Nhà Văn Hương Vĩnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!