.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Chương I/I. Hai Mươi Ba Cộng Đoàn Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam

Chương II/I. Diễn Tiến Một Ơn Gọi Đi Tu Dòng Mến Thánh Giá

Chương III/I. Vài Hàng Tiểu Sử Giám Mục Lambert de La Motte

Chương IV/I. Năm 1670, Năm Thành Lập Dòng Mến Thánh Giá

Chương V/I. Đặc Sủng hay Đoàn Sủng Ơn Gọi Cao Quí “Mến Thánh Giá”

Chương VI/I. Những Chặng Đường Mền Thánh Giá Việt Nam

Chương VII/I. Một Thí Dụ Về Sinh Hoạt Của Nữ Tu Mến Thánh Giá Việt Nam

Chương VIII/I. Một Báo Cáo Tổng Kết Điển Hình

Phần Hai : Giới Thiệu Từng Hội Dòng

Chương X/II. Giáo Tình Huế

Chương XI/II. Giáo Tỉnh Sàigòn

Chương XII/II. Giáo Tỉnh Sàigòn

Chương Kết Luận

Một Số Tài Liệu Tham Khảo

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
“Mến Thánh Giá” (1670-2008)
Tác giả: Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
CHƯƠNG III/I. VÀI HÀNG TIỂU SỬ GIÁM MỤC LAMBERT DE LA MOTTE

Từ Dòng Tên Đến Hội Thừa Sai Paris 

Nguồn gốc và quá thành hình của Hội Dòng Mến Thánh Giá, gắn liền với lịch sử Giáo Hội Việt Nam.

Dòng Mến Thánh Giá đã được khai sinh vào thời điểm mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cũng đang chập chững vào đời.

Từ thế kỷ thứ 16, các nhà truyền giáo đến từ Âu Châu. Các linh mụcDòng Đa Minh và Phanxicô là những người đầu tiên đến Việt Nam từ Macao và Phi Luật Tân. Đấu thế kỷ thứ 17 nhiều nhà truyền giáo Dòng Tên, với đóng góp lớn lao của nhiều người nhất là LM Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes).

Đắc Lộ sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp. Ngài chịu chức linh mục trong dòng Tên năm 1612 và bắt đầu sang truyền giáo tại Việt Nam năm 1623. Ngài có một viễn ảnh thực tế và bén nhạy, có óc tổ chức qui mô, được xem là người có công lớn nhất đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Chính ngài đã hăng say đem Tin Mừng đến với Giáo Hội Việt Nam. Ngài chinh phục được thiện cảm của vua chúa đương thời. Côngviệc truyền giáo của ngài không tránh khỏi những hận thù và hiểu lầm từ nhiều phía. Vì thế nhiều cơn bắt đạo thảm khốc đã diễn ra và LM Đắc Lộ bị trục xuất khỏi Việt Nam năm lần. Lần cuối cùng ngài chứng kiến tận mắt thầy giảng Anrê Phú Yên bị chặt đầu. Sự kiện ấy khiến ngài suy nghĩ: muốn truyền giáo hữu hiệu tại Việt Nam, cần các Giám Mục ngoại quốc tại Việt Nam để truyền chức cho các linh mục bản xứ. 

Vận Động Cho Công Cuộc Truyền Giáo Viễn Đông 

LM Đắc Lộ kiên trì bắt đầu cuộc hành trình ba năm rưỡi đến Roma, thương thảo với tòa thánh gửi Giám Mục sang Việt Nam, gây quỹ cho việc truyền giáo và để xin Bề Trên ngài gửi thêm các linh mục thừa sai sang Viễn Đông Năm 1649, ở Roma cuộc thương lượng bắt đầu. Những bản tường trình của ngài được Giáo Hoàng Innocent X đón nhận dè dặt, sợ ảnh hưởng đến chế độ Bào Trợ Hoàng Gia (Royal Patronage) của Bồ Đào Nha khi đó. Trong lúc chờ đợi tại Rôma, ngài được bổ nhiệm làm trưởng ban tuyển lựa ơn gọi truyền giáo cho miền Viễn Đông. LM nghĩ ngay đến quốc gia mình là nước Pháp.

Tuy nghĩ đến nước Pháp, nhưng LM Đắc Lộ không dám nghĩ đến dòng mình là dòng Tên, vì Dòng Tên đang truyền giáo tại Việt nam dưới quyền bào trợ của vua Bồ. Khi đến Paris, ngài làm quen với LM Bagot và hiệp hội của LM này nhóm "Bạn Hiền" (Les Bons Amis). Sau khi nghe LM Đắc Lộ trình bày về việc truyền giáo tại Việt Nam, ba thành viên của hiệp hội tình nguyện đi truyền giáo tại Viễn Đông. Ba người này là Francois de Montingy-Laval, Francois Pallu và Bernard Piques.

Tháng 3 năm 1653, LM Đắc Lộ phấn khởi viết thư giới thiệu ba ứng viên với Tòa Thánh. Ngoài ra, Đức Ông Bagni ở Roma cũng viết thư cho tòa thánh, ủng hộ ngài và cho biết là Bà Bá Tước Avignon, Tổng Giám Mục Paris và "Hiệp Hội Thánh Thể" hứa sẽ giúp đỡ gây quỹ truyền giáo này. Một lần nữa, thư và thỉnh cầu của LM Đắc Lộ đã được tòa thánh dè dặt đón  nhận. Bồ Đào Nha đã biết cuộc vận động và đe dọa bỏ tù bất cứ giám mục Pháp nào do Tòa Thánh gửi sang truyền giáo ở Á Châu. Sự kiện này làm chậm công việc đến năm 1655. Đây cũng là năm Giáo Hoàng Innocent X qua đời. LM Đắc Lộ lúc này đã 64 tuổi. Nhận thấy ước vọng của mình bị thử thách, chưa đến lúc được thực hiện, ngài chấp nhận ý Chúa, vâng phục Bề Trên, sang truyền giáo bên Ba Tư (Persia) và qua đời tại Ba Tư năm 1660. 

François Pallu, Lambert De La Motte Đi Truyền Giáo Viễn Đông 

Việc đó dường như khiến công cuộc vận động truyền giáo cho Viễn Đông đã kết thúc. Nhưng nhóm "Bạn Hiền" gồm năm người do  Francois Pallu hướng dẫn không bỏ lỡ cơ hộ, quyết định lên đường đi Roma, xin yết kiến Giáo Hoàng Alexandre VII (1655-1667). Sau buổi triều yết, với nhiệt tình của Pallu và các bạn hữu, Giáo Hoàng Alexandre VII liền cử một ban gồm bốn Hồng Y, nghiên cứu vấn đề. Sốt ruột, bốn người trở về Pháp, một mình Pallu nán lại Roma. Trong lúc bế tắc, cha Pallu nghĩ ngay đến một người bạn luật sư mới quen trong nhóm "Bạn Hiền" và liền viết thư xin bạn đó cộng tác. Người bạn đó không ai khác hơn là Pierre Lambert de la Motte, người đã sáng lập Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam sau này. 

Giám Mục PHÊRÔ MARIA LAMBERT DE LA MOTTE

 

I. Thân Thế

Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte là một trong ba vị Giám Mục Thừa Sai người Pháp tiên khởi trong chức vụ Đại Diện Tông Tòa được gửi sang truyền giáo tại miền Đông Nam Á vào thế kỷ thứ mười bảy. Sau đây là sơ lược mấy nét cuộc đời của Giám mục Lambert de la Motte, từ quyển Tiểu Sử do Tiểu ban Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá thực hiện.

 Thời Niên Thiếu

 

Phêrô Maria sinh ngày 16 tháng 01 năm 1624 tại Lisieux,  Normandie, Tây Bắc Pháp. Song thân là ông Phêrô Lambert de la Motte và bà Catherine Heudey de Pommainville et de Bocquencey.

Sống trong gia đình đạo đức, Phêrô Maria hay tiếp xúc với các nông dân và chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo. Cậu thích đi đạo trong rừng vắng cầu nguyện một mình. Cậu say mê đọc và suy niệm sách Gương Chúa Giêsu (quen gọi là sách Gương Phúc), một tuyệt phẩm tu đức ảnh hưởng sâu sa đời sống Giáo Hội từ hai thế kỷ trước. Lúc lên chín tuổi, (1633), cậu như được linh ứng, muốn qui tụ những người yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu thành một tố chức mang tên Hội Dòng Mến Thánh Giá, thuật ngữ xuất xứ từ đầu đề chương 11, quyển II sách Gương Phúc.

Mồ côi cha mẹ, trưởng nam trong gia đình gồm bẩy anh chị em, Phêrô Maria quán xuyến việc nhà, nên không nghĩ tới bất cứ ơn gọi nào. Tuy nhiên, khi theo học phổ thông tại trường các tu sĩ Dòng Tên ở Caen, cậu được LM Hayneuve, đồ đệ của LM Louis Lallemant giúp cầu nguyện,  tìm ơn gọi  do Chúa Thánh Thần hướng dẫn.Về sau, cậu được LM Hallé, Dòng Bé Mọn (Minime) hướng dẫn vào đời sống khổ hạnh, đặc điểm  của Dòng này. Ảnh hưởng của LM linh hướng lại giúp cậu trở nên  thành viên Dòng Ba Bé Mọn.

Nhờ vậy, cậu có thói quen nguyện gẫm mỗi ngày hai giờ, ăn chay nhiều lần trong tuần và rước lễ hằng ngày, điều hiếm thấy trong thế kỷ XVII. 

Thời Thanh Niên

Tốt nghiệp trung học, sinh viên Phêrô Maria học luật, rồi làm luật sư lúc mới 23 tuổi, theo truyền thống một gia đình thẩm phán quí phái. Phêrô Maria tiếp tục tham gia các sinh hoạt đạo đức, tông đồ và xã hội của Giáo Hội vùng Normandie và tìm được hướng đi cho đời mình, nhờ ảnh hưởng của ba nhân vật thời danh là:

- Ông Henri de Lévis, sáng lập Hiệp Hội Thánh Thể năm 1627 phát huy lòng tôn sùng Bí Tích Thánh Thể, thực hiện các công việc bác ái và tổ chức tuần đại phúc cho giáo dân.

 - Ông Jean de Bernières de Louvigny, một giáo dân xây dựng viện ẩn tu tại Caen, tĩnh tâm, cổ võ đời sống chiêm niệm. Ông cũng sáng lập hội giúp người nghèo khó, bệnh tật và Hiệp Hội Khổ Nhục để phát huy lòng khiêm nhường và tinh thần khổ chế.

- Thánh Jean Eudes, sáng lập Dòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria lo truyền giáo và huấn luyện hàng giáo sĩ. Thánh nhân chủ trương linh đạo mầu nhiệm Thập Giá Chúa Giêsu. Đây là kinh nghiệm thiêng liêng của Thánh Phaolô diễn tả trong câu: "Tôi hoàn tất nơi thân xác tôi những gì còn thiếu trong các nỗi tân khổ Chúa Kitô phải chịu cho thân thể mình Người là Giáo Hội." (Col:24). Sau khi trở thành bạn tâm giao của Thánh Jean Eudes, Phêrô-Maria bỏ nghề luật sư, xin vào chủng viện. 

Thời Làm Linh Mục (1655-1660) 

Muốn chịu chức linh mục, Phêrô Maria hành hương "khổ nhục kế" từ Caen đến Rennes, khoảng một trăm hai mươi cây số. Anh cải trang thành người quê mùa, cắt tóc ngắn, ăn mặc rách rưới để bị người đời khinh dể, xỉ nhục. Anh đến kính viếng và cầu nguyện chín ngày nơi ngôi mộ vị tu sĩ nổi tiếng thánh thiện Dòng Carmêlô là Jean de Saint-Samson.

Sau khi thụ phong ngày 27.12.1655 tại Coutances, Tân LM Phêrô Maria tới phục vụ ở Rouen, cộng tác với em ruột là Nicolas Lambert de la Motte, lập một chủng viện, trao cho các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria của Thánh Jean Eudes điều khiển. Đồng thời, ngài dạy giáo lý cho trẻ em, lập một cô nhi viện và một trung tâm tiếp đón những thiếu nữ hư hỏng. Ngài làm Giám đốc trung tâm xã hội Rouen, tạo công ăn việc làm cho những người thất nghiệp.

Nhân chuyến công tác tại Paris năm 1657, nhờ giới thiệu của Nicholas, ngài làm quen với nhóm Bạn Hiền như đã nói trên. LM Lambert Nicholas cho đọc lá thư của LM Pallu viết tại Marseille, trong khi chờ trẩy đi Roma vận động công việc truyền giáo tại Châu Á. Đọc xong lá thư đầy siêu nhiên, ngài tự hỏi Chúa có kêu gọi mình đi truyền giáo tại Viễn Đông xa lạ thay vì đi Canada không?

Trở về Rouen, ngài bàn hỏi với LM Hallé về xu hướng mới xuất hiện trong nội tâm. Sau ba tuần cầu nguyện và gặp LM Linh Hướng lần thứ hai, ngài thấy rõ ý Chúa, quyết định xin gia nhập Nhóm Bạn Hiền, vận động cho việc truyền giáo tại Viễn Đông. Ngài tình nguyện tháp tùng các vị Đại Diện Tông Tòa tương lai với tư cách một thừa sai thường. 

Hành Hương tại Annecy 

Từ Paris, LM Lambert đến tĩnh tâm tại Annecy, cầu nguyện tr ước  mộ Thánh François de Sales và Thánh Jeanne Françoise de Chantal là hai vị lập Dòng Thăm Viếng. Ngài nhận nhận thấy:

"Trong Giáo Hội Công Giáo, linh mục và nữ tu là hai nguồn mạch tuôn đổ Đức Tin và Đức Ái xuống trên một đất nước: linh mục là hiện thân lòng nhiệt thành, liều như một chiến sĩ xông pha mọii trận tuyến nguy hiểm, còn nữ tu biểu trưng trong trắng và kết hợp cuộc sống cầu nguyện với việc bác ái phục vụ. Gia nghiệp linh mục là chinh phục các linh hồn. Gia nghiệp nữ tu là thoa dịu những nỗi khổ đau của tha nhân.

Hai sứ mạng của đạo Công Giáo, trong đó linh mục được lương dân ngưỡng mộ như một anh hùng, còn nữ tu được họ tôn kính như một thiên thần. Hai hình thức dấn thân phục vụ này liên kết với nhau, sẽ diễn tả cách viên mãn tính năng động của Kitô Giáo, là một tổng hợp huyền nhiệm giữa sức mạnh và sự dịu hiền, giống như ngày xưa trên Núi Sọ, mẫu người trinh nữ đã cùng với mẫu người tông đồ tham gia vào công cuộc Cứu Thế." 

Quá Trình Một Quyết Định Tại Roma Và Chuyến Đi Sang Đông Á 

Chính tại Annecy, LM Lambert nhận được thư của LM François Pallu mời sang Roma cùng thương lượng với Tòa Thánh về chương trình Viễn Đông. Nhờ dấn thân nhiệt thành của LM Lambert, chương trình Viễn Đông được chấp thuận nhanh chóng.

Ngày 29.7.1658, Giáo Hoàng Alexandre VII bổ nhiệm LM Pallu làm Giám Mục hiệu tòa Heliopolis và LM Lambert làm Giám Mục hiệu tòa Bérythe (tức Beyrouth, thủ đô nước Liban ngày nay). Giám Mục Lambert trở về Pháp ngay để thu xếp công việc tại Rouen.

Ngày 9.9.1659, Tòa Thánh lại bổ nhiệm hai vị tân Giám Mục này làm Đại Diện Tông Tòa đi truyền giáo cho lương dân. Giám Mục F. Pallu đảm nhiệm miền Đàng Ngoài Việt Nam, Lào và năm tỉnh miền Nam Trung Hoa; Giám Mục Lambert phụ trách Đàng Trong Việt Nam, Chiêm Thành, Cam Bốt, bốn tỉnh miền Tây và Nam Trung Hoa với đảo Hải Nam.

Ngày 11.6.1660, sau một tuần tĩnh tâm, LM Lambert được tấn phong Giám Mục trong nguyện đường Dòng Thăm Viếng tại Paris. Từ ngày nhận nhiệm vụ mới, hai Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte và François Pallu đã trở nên hai cột trụ của chương trình truyền giáo Đông Á, hai vị sáng lập chính của Hội Thừa Sai Paris.

Ngày 18.6.1660, Giám Mục Lambert cùng với đoàn thừa sai rời Paris đi Marseilles để lên tầu vượt Địa Trung Hải đi Xiêm La. Cuộc hành trình đường biển và đường bộ đầy gian nan kéo dài hơn hai năm. Cuối cùng, ngày 22.8.1662, Giám Mục Lambert và phái đoàn đến Juthia, thủ đô Xiêm La khi đó. Đúng lúc ấy ở Việt Nam đang có những cuộc bách hại dữ dội, vì thế ngài không thể tới Miền Truyền Giáo Đàng Trong được. Juthia trong thế kỷ XVII là trụ sở tạm trú an toàn cho các vị thừa sai từ Châu Âu đến truyền giáo tại vùng Đông Á.  

II. Công Cuộc Truyền Giáo (1660-1676) Tại Đồng Á 

Việc đầu tiên của Giám Mục Lambert tại Juthia là tĩnh tâm 40 ngày trọn. Sau đó, ngài xây dựng cơ sở cần thiết như nhà ở, nguyện đường, trường học để dạy văn hóa cho trẻ em và một nhà thương. Ngài cũng bắt đầu học tiếng Xiêm La và Việt Nam với nhóm Việt Kiều Công Giáo Đàng Trong sống tại đây.

Các hoạt động đa diện bên ngoài không làm giảm sút đời sống nội tâm của Ngài. Trái lại, trong Ngài luôn luôn sôi sục ý chí mãnh liệt muốn đồng hóa với Đức Kitô chịu đóng đinh và sống khổ hạnh, khiêm nhường. Trong thời gian này, ngài đã trải qua một kinh nghiệm thiêng liêng rất đặc biệt. Chính trong kinh nghiệm thiêng liêng này, một lần nữa ngài lại nhận ra ơn Chúa soi sáng muốn ngài thành lập một Hiệp Hội Những Người Yêu Mến Thánh Giá.

Vì Đức Cha Pallu bận rộn với nhiều chuyến công tác qua lại giữa Âu Châu và vùng Đông Nam Á, nên Đức Cha Lambert đã thay thế ngài một mình điều hành công việc truyền giáo cho cả vùng Đông Á. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn do người Bồ Đào Nha và các nhóm thừa sai thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha gây ra, ngài đã thực hiện được những chương trình sau đây:

Kinh lý Đàng Trong và Đàng Ngoài

Truyền chức cho các linh mục bản xứ

Triệu tập Công đồng Juthia năm 1664

Soạn thảo Huấn Thị gửi các vị Thừa Sai

Lập Hội Tông Đồ năm 1665 (1669: tòa thánh không phê chuẩn vì kỷ luật quá nghiêm khắc)

Lập chủng viện Thánh Giuse cho vùng Đông Nam Á

Lập Hiệp Hội Mến Thánh Giá Tại Thế

Triệu tập Công đồng Phố Hiến (1670)

Thành lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá tại Đàng Ngoài và Đàng Trong (năm 1670-1671)

Triệu tập công đồng Hội An (1672)

Thành Lập Dòng Mến Thánh Giá tại Xiêm La (1672)

Tấn phong Giám Mục và bổ nhiệm Giám Mục Laneau làm Đại Diện Tông Tòa thay Giám Mục Cotolendi (1674)

Một trong những trở ngại của sự nghiệp truyền giáo của Giám Mục Lambert tại Đông Á là vấn đề hiểu lầm về quyền hành giữa các LM thừa sai Dòng Tên và các vị Đại Diện Tông Tòa. Cuối cùng, những xáo trộn trong việc tranh chấp này cũng được lắng dịu và ngài luôn tìm cách duy trì mối thân tình với các LM Dòng Tên. 

III. Thời Gian Sau Cùng (1676-1679)

 Nhiệm Vụ Cuối Đời 

Từ ngày trở lại Xiêm La giữa tháng 5.1676, sức khỏe Giám Mục Lambert suy nhược dần. Tuy nhiên tại chủng viện Thánh Giuse ở Juthia, Ngài vẫn tiếp đón nhiều nhân vật quan trọng đạo đời và tạo nhiều quan hệ thân tình sâu sắc với giới tăng lữ Phật Giáo. Điều ngài thích nhất là nguyện ngắm và làm những việc khiêm tốn như săn sóc bệnh nhân, thăm viếng tù nhân và rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khổ.

Ngài mãn nguyện hưởng niềm vui đã chu toàn sứ mạng do Tòa Thánh trao phó là tranh đấu cho nguyện ước truyền giáo như LM Đắc Lộ đề xuất. Đó là lập chức vụ Đại Diện Tông Tòa điều khiển công việc truyền giáo tại Đông Á. Vào những năm cuối đời, uy tín của ngài ngày càng lên cao. Vua Phra-na-rai ở Xiêm La cũng như chúa Hiền tại Đàng Trong quí trọng ngài. Nhiều thừa sai thuộc các dòng tu hoạt động tại vùng này nhìn nhận quyền bính của ngài. Phía Giám Mục đã làm một nghĩa cử cao đẹp: trong di chúc ngày 22.7.1675, ngài quyết định gởi tặng nhà thờ các LM Dòng Tên tại Ma-Cao tượng Thánh Giá lưu niệm của LM Nicolas, em ruột Giám Mục để chứng tỏ tình thân hữu của mình dành cho Dòng Tên. 

“Đến Muôn Đời Con Ca Khen Lòng Thương xót Chúa” 

Bệnh đường ruột và sạn thận làm cho Giám Mục Lambert đau đớn, khiến Ngài cảm thấy cần được yên tĩnh để cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô chịu đóng đinh trên Thập Giá. Ngài cho đặt sẵn chiếc áo quan trong phòng để suy niệm về sự chết và chuẩn bị "bước vào ngày trọng đại của đời sống vĩnh cữu" (Sn 24). Trong cơn bệnh, ngài thường tự nhủ: "Can đảm lên, giờ gần đến, ta hãy chịu khó vì Chúa". Và ngài không ngừng dâng lời tạ ơn: "Đến muôn đời con ca khen lòng thương xót Chúa".

Bốn giờ sáng ngày 15.6.1679, Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte an giấc ngàn thu trong Chúa tại Juthia, Thái Lan.

Đứng trước cái chết của ngài, mọi người đều hợp nhất với nhau trong một tâm tình quí mến và ngưỡng mộ một con người vừa khiêm nhu vừa cương nghị, không chịu khuất phục trước bất cứ một đe dọa nào. Riêng các tín hữu Đại Việt Đàng Trong và Đàng Ngoài, đặc biệt các nữ tu Mến Thánh Giá tự nguyện ăn chay chín ngày liên tiếp, dâng các hi sinh và lời cầu nguyện sốt sắng để tỏ lòng tri ân của những người con thảo đối với cha hiền, của đoàn chiên đối với vị chủ chăn nhân hậu.

Trong lúc thư đưa tin mất mát lớn lao này đang trên đường về Roma, thì ngày 4.6.1679, Giáo Hoàng Innocent XI viết cho Giám Mục Lambert một đoản sắc với những lời lẽ rất trân trọng:

"Ta rất hân hoan được tin mùa gặt dồi dào đang làm phong phú cánh đồng của Chúa nơi những miền đất xa xôi kia. Ta tin chắc rằng con đang hăng say hoạt động cho công trình đáng ngưỡng mộ ấy và đem hết nhiệt huyết truyền bá đức tin Công Giáo. Vì thế, với tình cảm thân thiết nhất của tấm lòng từ phụ, ta ôm hôn con trong Chúa và con hãy tin chắc rằng sự hậu thuẫn của ta sẽ trợ giúp các nỗ lực đầy tinh thần đạo đức của con nhằm mục đích cao quí mà con đang theo đuổi và lãnh nhận phần thưởng dọn sẵn cho con trên trời... Ta cầu xin Thiên Chúa đổ tràn đầy hồng ân xuống trên con và ta âu yếm ban Phép Lành Tòa Thánh cho con".

Nhưng đó là vòng hoa muộn màng của một Giáo Hoàng đặt lên mộ Đức Cha Lambert đã an nghỉ trong Chúa hơn ba tháng trước. 

IV. Di Sản Tinh Thần  

Tính Cương Nghị Và Lòng Nhiệt Thành 

Giám mục Phêrô Maria Lambert de la Motte là một tổng hợp giữa vẻ oai nghiêm và nét mộc mạc, giữa một ý chí cương nghị và một trí tuệ thông minh phi thường. Từ lúc thiếu thời, ngài dè dặt, khiêm tốn, nhưng hiếu học, có trí phán đoán quân bình và lập trường vững chắc. Ngài khôn ngoan và cẩn trọng.

Theo nhận định của  Giám Mục B. Jacqueline, "Đức Cha Lambert de la Motte có sự khôn ngoan của vị thẩm phán và tính giản dị của bác nông dân, lòng nhiệt thành của nhà tiên tri và vẻ uy nghi của Đấng kế vị các thánh tông đồ". Khoa luật và nghề trạng sư đã tôi luyện cho ngài có biệt tài lý luận tinh vi và sắc bén. Ngài có sức thuyết phục phi thường khiến cho những ai đã tiếp xúc đều bị thu hút. Những đức tính căn bản này là chỗ dựa vững chắc cho đời sống thiêng liêng và tông đồ của ngài.  

Lý Tưởng Tu Đức 

Giám Mục Lambert có tâm hồn luôn lắng nghe Thánh Linh, hoàn toàn chịu sát tế với Đức Kitô và ký thác mình trọn vẹn trong tay Cha trên trời. Đời sống thiêng liêng của ngài quy hướng vào Ba Ngôi Thiên Chúa. Về điểm này, ngài tổng hợp giáo huấn của ba nhà linh đạo lớn thuộc thế kỷ XVII.

Thánh François de Sales: nhấn mạnh đặc biệt lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha.

Hồng Y de Bérulle: Vị Sáng Lập trường phái linh đạo mệnh danh Trường Phái Pháp Quốc, cổ võ hiệp nhất với Chúa Giêsu: mỗi người phải chọn Đức Kitô làm đối tượng duy nhất cho tâm hồn mình và học hỏi để hiểu biết Người. Giám Mục Lambert chịu ảnh hưởng trường phái này qua trung gian Thánh Jean Eudes, bạn thân ngài và là môn sinh Hồng Y de Bérulle.

Do ảnh hưởng trực tiếp của thánh nhân, lòng yêu mến đặc biệt dành cho mầu nhiệm Thập Giá đạt tới những chiều kích sâu sắc. Bí quyết riêng của Giám Mục Lambert là luôn luôn hành động trong sự lệ thuộc vào Đức Kitô. Ngài nói: "Trước khi thi hành bất cứ một dự định nào, chúng ta phải khiêm tốn xin phép Chúa Kitô như tu sĩ xin phép bề trên mình".

Còn thái độ ngoan hiền đối với tác động của Chúa Thánh Linh, ngài học nơi trường phái LM Louis Lallemant, Dòng Tên. Chính vị linh mục thánh thiện này đã từng nói: "Các môn đệ Chúa Kitô phải làm theo mọi tác động thúc đẩy của Chúa Thánh Linh cách sâu sắc và coi đó như mệnh lệnh Người gửi đến cho linh hồn mình".  

Sùng Mến Và Tôn Thờ Thánh Giá 

Giám Mục Lambert rất tôn sùng Thánh Thể và thích cầu nguyện lâu giờ trước Nhà Tạm, nhất là khi phải tìm giải pháp cho những vấn đề khó khăn. Vì coi trọng đời sống phụng vụ, ngài muốn Thánh Lễ và các giờ kinh phải được cử hành trang nghiêm, sốt sắng, nhất là các ngày đại lễ, để tôn thờ Thiên Chúa xứng hợp.

Ngài tha thiết yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu và khát khao đồng hóa với Người trong mầu nhiệm tử nạn. Ngài muốn tiếp nối cuộc đời đau khổ của Chúa Cứu Thế, và sẵn sàng cho Người mượn thân xác mình để tiếp tục hi sinh. Có lần Ngài nói với các linh mục của mình: "Hãy học hỏi Chúa Kitô chịu đóng đinh, đó là phương thế chắc chắn đem lại sự khôn ngoan và lòng yêu mến".

Giám Mục Lambert cũng đặc biệt yêu mến Mẹ Maria và Thánh Giuse. Ngài quí chuộng kinh Mân Côi và tuần cửu nhật kính Đức Trinh Nữ. Ngài dành cho Đức Mẹ tước hiệu đầy vinh dự "Đấng Sáng Lập các miền truyền giáo của chúng tôi". Riêng Thánh Giuse được chọn làm quan thầy cho Dòng Mến Thánh Giá, chủng viện chung, nhà thờ, nhà thương tại Juthia, cho cả Giáo Hội Đại Việt và Giáo Hội Đông Á.

Khổ Hạnh Và Nghèo Khó 

Giám Mục Lambert sống khắc khổ. Ngài thường xuyên đánh tội, ăn chay, kiêng thịt và rượu, trừ ba lễ lớn: Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống. Về điểm này ngài đã chịu ảnh hưởng của LM Hallé, ông Jean de Bernières de Louvigny, và các tăng lữ Phật Giáo Xiêm La. Tinh thần khổ hạnh của ngài phản ảnh rõ nét trong các bản qui luật của Hội Tông Đồ, Hiệp Hội Mến Thánh Giá Tại Thế và Dòng Nữ Tu Mến Thánh Giá.

Khi còn là linh mục, Giám Mục Lambert tự nguyện dâng tài sản riêng của mình cho chương trình truyền giáo Viễn Đông. Trong cơn bệnh nguy tử năm 1660 tại Lyon, ngài xin được chôn cất như những người nghèo khó, và sau đó tại Juthia, ngài muốn nhường chức Giám Mục cho một người khác.

 Theo LM A. Launay, nét nổi bật trong tính tình của Giám Mục Lambert là tự nguyện và ham thích tìm kiếm sự xỉ nhục cho mình. Một lần khi còn làm nghề luật sư, bị ngã ngựa trên đường đi dự tiệc cưới, dầu trang phục vấy bẩn và mũ đội đầu bay mất, ngài vẫn cảm thấy sung sướng vì được ơn soi sáng trong chốc lát: hãy can đảm lên!

Rồi ngài tiến vào phòng tiệc dưới cái nhìn ngỡ ngàng và khinh bỉ của thực khách. Hôm đó ngài đã thắng được mình cách vẻ vang. Lần khác, ngài cải trang làm người nghèo khó đi ăn xin tại thành phố Rennes (Bretagne). Sau một ngày hứng chịu bao điều xỉ nhục, ngài được bố thí một đồng xu mà ngài coi như chiến lợi phẩm thánh thiêng đem lại cho tâm hồn ngài niềm vui khôn tả. Và lần thứ ba là cuộc hành hương khổ nhục thực hiện năm 1655. 

Sứ Mệnh Tông Đồ 

Giám Mục Lambert có ý niệm cao về đời sống của nguời tông đồ. Theo ngài, người tông đồ phải có đời sống trổi vượt phi thường, để tạo uy tín và để gây ảnh hưởng tốt nơi môi trường truyền giáo. Phải có tinh thần khổ hạnh, nghèo khó, và sẵn sàng hi sinh vì đoàn chiên. Người tông đồ phải kết hợp hi sinh với cầu nguyện. Nhiều lần Giám Mục Lambert đã nhắn nhủ các vị thừa sai của mình: "Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc Âm, anh em hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc từ trời sa xuống trên cánh đồng."

Giám Mục Lambert quan niệm người tông đồ là cánh tay hữu hình và trung gian của Chúa Kitô, để thoa dịu nỗi khổ đau của tha nhân, trao ban cho mọi người những điều thiện hảo và phúc lành của Thiên Chúa, cùng dâng lên Người những khát vọng và đau thương của thế giới.

Người tông đồ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm sẽ có thái độ hiền lành, khiêm nhường khi tiếp xúc với tín đồ các tôn giáo bạn. Giám Mục Lambert khuyên các vị thừa sai nên đối xử với họ như "những người đã có màu sắc chân lý Kitô Giáo" và phải kính trọng, noi theo những đức tính cao quí của họ.  

V. Thử Đi Đến Một Kết Luận 

Về chân dung tinh thần của Giám Mục Lambert de la Motte, mọi người chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa những cực đoan. Ngài vừa nghiêm khắc, vừa nhân từ, vừa cương nghị, vừa khiêm nhu, vừa mực thước vừa giàu óc sáng tạo thích nghi. Ngài mang nhiều nỗi ưu tư, nhưng trong thâm sâu luôn an bình thanh thản. Đặc biệt ngài có tâm hồn chiêm niệm sâu sắc, luôn qui hướng về Chúa Kitô chịu đóng đinh, giữa những sinh hoạt tông đồ đa dạng. Ngài còn là một con người với tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, tinh thần đồng trách nhiệm, biết thích nghi và hội nhập văn hóa, quan tâm xây dựng Giáo Hội địa phương và luôn thao thức về sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Tóm lại, Giám Mục Lambert đã sống Phúc Âm một cách triệt để. Ngài là một trong những thừa sai đáng kể nhất của thời đại mới, một nhà tu đức sâu sắc, mà tiếc thay chưa một học giả nào nghiên cứu chuyên đề về người.

Riêng đối với những nữ tu Mến Thánh Giá, Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte là Vị Sáng Lập, là người cha thiêng liêng đã khai sinh bên bờ Đông Nam lục địa Châu Á, Dòng Nữ đầu tiên mang bản sắc Á Châu và trực tiếp hướng về công cuộc truyền giáo cho lương dân. Tên tuổi ngài gắn liền với sự nghiệp thiết lập hàng giáo sĩ và giới nữ tu địa phương như hai cột trụ của công cuộc Phúc Âm hóa miền Viễn Đông.

Trong bối cảnh đó, việc sáng lập Dòng Mến Thánh Giá đáp ứng một nhu cầu mục vụ, mà ngài với tư cách mục tử, đã được ơn Chúa giúp xác định đúng lúc. Nhưng nhìn sâu xa hơn, phải nói rằng việc sáng lập Dòng Mến Thánh Giá xuất phát từ một kinh nghiệm thiêng liêng đặc biệt của ngài về Chúa Kitô chịu đóng đinh. Lòng yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô đã trở thành nơi ngài một đam mê, một ý lực, một xác tín mãnh liệt, một động cơ thúc đẩy mọi sinh hoạt của một con người hoàn toàn là tông đồ: từ sinh hoạt nội tâm đến sinh hoạt giáo hội và xã hội.

Ngài được Chúa Thánh Thần chọn làm trung gian chuyển đạt ơn đoàn sủng cho Dòng Mến Thánh Giá với những đặc điểm sau:

* Sống Linh đạo Mến Thánh Giá, tiếp nối cuộc đời lữ thứ hi sinh của Chúa Kitô để cứu độ loài người.

* Chăm lo phần rỗi của đồng bào bằng đời sống cầu nguyện, hi sinh và những hoạt động tông đồ chuyên biệt nhằm phục vụ ưu tiên giới nữ và giới trẻ.

* Sống liên đới chặt chẽ với Giáo Hội địa phương.

* Nỗ lực phát huy những đức tính dân tộc: giản dị, cần cù, đảm đang, quên mình và quả cảm.

* Phát huy tinh thần Nazareth của Mẹ Maria và Thánh Giuse: sống sát cánh Chúa Giêsu trong đời sống bác ái nồng nhiệt, lao động chuyên chăm, yêu thích thinh lặng, và kiên trì cầu nguyện, dưới bóng Thánh Giá của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.

Giám Mục Lambert đã sống chính đoàn sủng đó trong đời sống thiêng liêng và tông đồ, đến mức độ trở thành mẫu mực cho con cái mình là các Nữ Tu Mến Thánh Giá.

[Tham khảo "Tiểu sử-Bút tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte - Đấng sáng lập Dòng Mến Thánh Giá" - do nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá tại VN thực hiện. Nhóm này do Cố Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình khởi xướng năm 1995. Ấn bản đầu tiên tại Hoa Kỳ được in trong Thời Điểm Công Giáo số 33, tháng 7-1995. Bài này được tóm gọn dựa trên ấn bản thứ hai về cơ bản được nhóm soạn thảo lại tháng 5-1998.

Tác giả Gs. Đỗ Hữu Nghiêm

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!