.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Chương I : Đào sâu và thực hành đặc sủng và linh đạo dòng

Chương II : Củng cố những bước đầu phân định và sống ơn gọi

Chương II : (tiếp)

Chương III : Con đường sống thánh

Chương III : (tiếp)

Chương IV : Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm

Chương V : Sống triển nở đời sống cộng đoàn, yếu tố sống còn của tu sĩ

Chương V : (tiếp)

Chương VI : Sống tốt đời sống độc thân thánh hiến trong bối cảnh hôm nay

Chương VI : (tiếp)

Chương VII : Sống viên mãn ba lời khấn dòng

Chương VII : (tiếp)

Chương VIII : Những thời khắc quyết định

Phụ lục I

Phụ Lục II

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Người Nữ Tu Sống Tu Đức Toàn Diện
Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss
CHƯƠNG I : ĐÀO SÂU VÀ THỰC HÀNH ĐẶC SỦNG VÀ LINH ĐẠO DÒNG

I. NhẬn ĐỊnh

(Câu chuyện MỘT NỬA CỦA TÁM) 

Hơn bao giờ hết, tính tham gia, liên đới hợp tác và cộng đồng đồng tiến ngày càng gia tăng và phát triển. Đó là một nét son của thời đại chúng ta. Và thật tuyệt vời việc các lãnh đạo Giáo Hội và các Dòng Tu mở ra các trường lớp, các khóa đào tạo tu sĩ liên Dòng, vừa do thiếu nhân sự đào tạo được chuẩn bị chu đáo riêng ở mỗi Dòng, vừa do kế hoạch của thẩm quyền nhằm để các tu sĩ có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau và cộng tác với nhau, ước mong việc phục vụ dưỡng giáo và truyền giáo được hiệu quả hơn trong một Giáo Hội và Thế giới ngày càng đi vào hướng toàn cầu hóa. 

            Những trường lớp và khóa học này hẳn luôn cố gắng dẫn dắt các học viên đi sâu vào những gì là cơ bản của giáo huấn của Giáo Hội về những nét chung nhất của đời sống thánh hiến, làm cho nó được tăng triển và đáp ứng phù hợp với những đòi hỏi và mong đợi của thời đại. Các tu sĩ các Dòng Tu khác nhau trở nên hòa đồng, thân thiện và cộng tác với nhau dễ dàng hơn trong công việc chung. Phẩm chất của các tu sĩ cũng được nâng cao và thăng tiến hơn vì vừa học hỏi được cái hay cái tốt của người, vừa nhắc nhở nhau nêu cao thanh danh của Dòng mình.

            Các lợi ích thật lớn lao, nhất là về mặt kiến thức, vì đội ngũ giảng huấn vừa đông và đa dạng, vừa có nhiều khả năng và chuyên môn hơn. Tuy nhiên chúng ta không bằng lòng dừng lại đó, coi như vậy là đủ. Vì nếu chỉ có việc đào tạo chung đó từ Nhà Thử, Nhà Tập, và Học viện thì chúng ta sẽ có một mẫu tu sĩ chung chung, Dòng nào cũng như Dòng nào, thiếu đi chiều sâu của những nét độc đáo riêng biệt, khiến một số tu sĩ trẻ hoang mang như mất hướng vì chưa được đâm rễ sâu vững chắc vào đặc sủng và linh đạo của Dòng mình, là những yếu tố làm cho mình càng gắn bó với Dòng, và Dòng càng ngày càng đầy sức sống. 

            Vì thế, trước khi tham gia vào các trường lớp và khóa học chung này, mỗi Dòng cần nỗ lực làm cho các ứng sinh và thành viên trẻ của mình đào sâu và thực hành đặc sủng và linh đạo của Dòng mình, ít ra là đào tạo song song. Cánh đồng chỉ trồng một loại hoa có nét đẹp của nó, nhưng một bó hoa với nhiều loại hoa thì nét đẹp càng phong phú và qúy giá hơn. 

            Nếu được so sánh, chúng ta có thể so sánh việc đào sâu và thực hành đặc sủng và linh đạo của mỗi Dòng như là nền móng (hạ tầng cơ sở), và việc đào tạo liên Dòng như ngôi nhà đẹp đẻ (thượng tầng kiến thiết). Chúa Giêsu đã coi trọng việc xây nhà trên móng đá vững chắc. 

            Công việc này là bổn phận và trách nhiệm của mỗi Dòng, đặc biệt là của Bề Trên và các người phụ trách việc đào tạo ở trong Dòng. Các ứng sinh có quyền được đòi hỏi sự dẫn dắt đào sâu đặc sủng và linh đạo của Dòng, đồng thời được quyền nhìn thấy gương sáng thúc đẩy từ các thành viên khác trong việc thực hành sống đặc sủng và linh đạo của Dòng. 

 

            II. ĐÀO SÂU VÀ SỐNG

     ĐẶC SỦNG VÀ LINH ĐẠO DÒNG

 

1. Đặt vấn đề

Để đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng, trước hết xin chị em cố gắng trao đổi với nhau và tìm ra câu trả lời cho các vấn nạn sau đây, dưới sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm trong Dòng. Tôi xin thú nhận rằng tôi không thể biết rõ đặc sủng sáng lập và linh đạo mỗi Hội Dòng của chị em; tôi chỉ nêu lên nhu cầu và nguyên tắc để chính chị em đào sâu và thực hiện, và như thế sẽ lợi ích hơn cho chính chị em. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, dẫn dắt và cùng làm việc với chị em.

 

a. Các vấn nạn liên quan việc sáng lập Dòng

  • Có những Dòng lâu đời, có những Dòng mới được sinh ra trong thời đại chúng ta.
  • Ai thực sự là vị sáng lập của chúng ta? Có những loại  sáng lập viên khác nhau không? (Sáng lập, đồng sáng lập, cải tổ…)
  • Đặc sủng của vị sáng lập cũng là đặc sủng của Dòng. Đâu là những đặc điểm chính yếu của đặc sủng sáng lập?
  • Ta phải tìm lại các dấu vết của thời kỳ đầu của Dòng và các vấn đề của nó. Mục đích, kế hoạch của vị sáng lập có được đạt tới không? Tại sao và như thế nào?
  • Chúng ta hiểu thế nào sự trung thành và chính xác đối với đặc sủng của chúng ta?
  • Đặc sủng và linh đạo hiện nay của Dòng có đúng là đặc sủng và linh đạo do vị sáng lập truyền lại không? “Chúng ta cần tiếp tục biện phân lòng trung thành của chúng ta với ý hướng sáng lập và linh hứng trung thực của vị sáng lập của chúng ta” (JP II)
  • Chúng ta phải bảo tồn và hiện tại hóa các tư tưởng sâu xa của đặc sủng nguyên thủy của chúng ta và căn tính linh đạo của chính chúng ta.
  • Các Dòng cũ được tái lập khi họ trung thành với cội nguồn đặc sủng và linh đạo của họ.
  • Đặc sủng của chúng ta chỉ dành riêng cho đời sống thánh hiến thôi hay cho mọi hình thức đời sống công giáo?

  • Đâu là vai trò của một hình thức sống cá biệt trong một đặc sủng tông đồ?
  • Đâu là vai trò của hoạt động tông đồ trong một đặc sủng chiêm niệm?

 

b. Các vấn nạn liên quan việc tái lập Dòng

  • Phải nhìn lại hoàn cảnh quá khứ của Dòng trong bối cảnh của Giáo Hội lúc đó và hiện nay.
  • Chúng ta làm thế nào để tránh cho ngọn lửa Thánh Thần đã đốt cháy trong Dòng chúng ta khỏi bị suy tàn?
  • Nếu ngọn lửa đặc sủng này bị suy tàn, chúng ta làm gì để làm cho nó hồi sinh? “Cái tồi tệ nhất không phải là có một linh hồn xấu xa, nhưng là có một linh hồn chỉ theo lề thói hằng ngày” (Charles Péguy)
  • Giữa chúng ta có ơn nói tiên tri, đặc sủng, thần trí, thị kiến không?
  • Chúng ta có thoát ra khỏi mơ mộng cách dễ dàng? Các tư tưởng mới có mâu thuẫn với những tư tưởng truyền thống và phong tục?
  • Các Dòng không cố giữ độc quyền Thần Trí dường như không có Dòng nào khác ngoài Dòng của họ.
  • Những ai được là “những con người thiêng liêng” ngày nay? Những ai thực sự là người của Chúa Thánh Thần?
  • Tình trạng hổn mang cần Thần Khí sáng tạo: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến” trên các tình trạng lộn xộn ngày nay.
  • Thời gian cần cho tính sáng tạo. Những điều kiện cho một cuộc sáng tạo mới: “Thần Khí Chúa sẽ nhập vào ông, ông sẽ lên cơn xuất thần ngôn sứ cùng với họ, và ông sẽ biến thành một con người khác” (1Sm 10,6).
  • Chúng ta đang ở trong thời đại toàn cầu hóa. Sự đổi chỗ của những đặc sủng phong phú được ban ra hết chỗ này đến chỗ nọ: sự giàu có của các quốc gia.
  • Do sự hội nhập văn hóa, một tâm thức mới được phát sinh. Các Dòng tu của chúng ta có tính cách quốc tế hơn và ít tập trung hơn trong phạm vi nhỏ hẹp.

 

Tự Vấn:

  • Cái gì đáng quan tâm và quan trọng hơn trong Dòng của chị em: Tìm đào sâu sự hiểu biết tốt hơn đặc sủng sáng lập hay tìm lại đặc sủng sáng lập trong một bối cảnh mới?
  • Những thách đố chính yếu nào liên quan đến đặc sủng và linh đạo mà Dòng chị em phải đối đầu trong thời đại chúng ta?
  • Đặc tính nào của xã hội chúng ta ngày nay có tính cách thách đố nhất?

 

2. Định nghĩa đặc sủng

 

“Khi một người đi vào một căn phòng, người ta quay đầu lại và những ai thiếu hấp dẫn cố gắng đến gần người ấy. Họ mong được vui thú với người ấy, lôi kéo sự chú ý của người ấy, kể cả đụng chạm đến người ấy. Khi con người hấp dẫn ấy đến gần, con tim bị kích thích quá mức. Dân chúng nghĩ rằng sự hấp dẫn này sẽ đưa đến thành công trong công việc và tình yêu. Ở Tây phương, chúng tôi định nghĩa và giải thích sự hấp dẫn từ tính này như là “đặc sủng”

 

Đặc Sủng nghĩa là gì? Đó là một quà tặng của Thiên Chúa được tháp nhập vào một người bởi sự phú bẩm tự nhiên. Đặc sủng không được thủ đắc bằng bất cứ phương tiện nào khác ngoài việc nhận lãnh từ Thiên Chúa. Đặc sủng này chỉ được phát triển khi mầm móng đã có sẵn nhưng vẫn ngủ yên và có thể được đánh thức bởi phương tiện khổ hạnh hay phương tiện khác.

 

Đặc điểm của đặc sủng là một phẩm tính phi thường của một người. Sức mạnh của đặc sủng tôn giáo chính yếu được mạc khải bởi sự thể hiện cuộc biến đổi đời sống con người. Đặc sủng là một sức mạnh cách mạng của lịch sử vì đặc sủng có thể tạo nên một trật tự mới ở trong thế giới.  

Khi đặc sủng nguyên thủy bị thay thế bởi luật sống mỗi ngày thì tiến trình làm cho đặc sủng trở nên quen thuộc được bắt đầu. Việc làm cho đặc sủng trở nên quen thuộc có ba hướng: 

Đặc sủng thừa kế: Đặc sủng có thể được chuyển giao qua việc thừa kế tiếp nối. Đặc sủng có thể được biến đổi từ tính chất nghịch lại truyền thống thành một vật của truyền thống. Trong tiến trình này, nền tảng của quyền bính được triệt để thay đổi từ niềm tin vào tính chất cá nhân của đặc sủng thành sự thánh thiện của truyền thống đang hiện hữu. Như thế, đặc sủng được truyền thống hóa và trở thành đặc sủng thừa kế. Quyền bính được thánh hoá nhờ truyền thống hay niềm tin vào con người của vị tiên tri.  

Đặc sủng với kỹ năng đặc biệt: Đặc sủng có thể được cá nhân đón nhận nhờ các phương pháp như khổ chế, chiêm niệm. Đặc sủng trở thành một mục đích được hợp lý hóa của cuộc sống thường ngày. Các đặc tính đặc sủng như xuất thần và các khả năng thị kiến của pháp sư, phù thủy, ngôn sứ, khổ hạnh và hồn linh đủ loại không thể bất cứ ai cũng đạt được. Liên minh các đồng bóng, hồn linh vô danh, những tín hữu khổ hạnh thời xưa, những người mộ đạo quá đáng… xét về mặt xã hội học, rõ ràng là những “giáo phái” 

Đặc sủng phận vụ: Đặc sủng phận vụ là “niềm tin vào tình trạng đặc biệt của ân sủng của một cơ chế.” Nó dựa trên niềm tin tưởng rằng tính chất đặc sủng không thể được chuyển giao qua những phương tiện giả tạo, ma thuật. Việc biến đổi thành đặc sủng phận vụ hoàn tất việc làm mất tính cách cá nhân của đặc sủng, nghĩa là sự tách biệt giữa tính cách cá nhân và phận vụ chức năng. Vậy niềm tin vào tính chức năng đặc sủng của phận vụ thay thế niềm tin vào mạc khải của tính cá nhân của đặc sủng. Nơi đây đặc sủng trở thành một phần của một cơ chế đã được thiết lập như cơ cấu thường xuyên với những truyền thống đã được hình thành.

     

3. Vị Sáng Lập và Đặc Sủng Sáng Lập

 

a. Ai là vị sáng lập?

Lắm khi họ xuất hiện trong các xã hội truyền thống như những con người không thỏa mãn với các cơ cấu tôn giáo và chính trị, và cố gắng khơi lên ngọn lửa đặc sủng: thi sĩ, triết gia, anh hùng, ngôn sứ, thánh nhân, nhà suy tưởng…

 

Có thể nói vị sáng lập giống như vị tiên tri, tức là một cá nhân đặc biệt có sứ mệnh loan báo một giáo huấn tôn giáo hay mệnh lệnh thần linh. Tiên tri công bố những mạc khải mới do đặc sủng của họ. Tiên tri như nhà ma thuật thi thố quyền năng do các ân ban cá nhân của mình, nhưng lại không như nhà ma thuật, vì tiên tri công bố các mạc khải có ý nghĩa, và nhiệm vụ của tiên tri là dạy dỗ hay kết án. 

Như những người theo một tiên tri gắn bó hơn với con người hay với giáo huấn của tiên tri, các vị sáng lập cũng có các đồ đệ như vậy.

Một người “canh tân tôn giáo” mạc khải một ý nghĩa mới trong một mạc khải cũ, có thật hay giả tưởng, trong khi một nhà “sáng lập tôn giáo” mang lại những mạc khải hoàn toàn mới.

 

Đào tạo một cộng đoàn tôn giáo mới không phải là kết quả lời loan báo của một tiên tri. Nó có thể được sản xuất ra do các hoạt động của những người cải cách không phải là tiên tri. 

Như trong tình yêu, việc phải lòng yêu thiết lập một hệ thống của khác biệt và trao đổi: Nó phân chia cái đã được kết hợp và kết hợp cái đã bị phân chia. Điều tương tự cũng xảy ra với đặc sủng. Một vị sáng lập dẫn dắt dân chúng từ tình trạng chán nản đến tình trạng khởi đầu tươi sáng, từ bạo lực để thoát khỏi tình trạng trước và tình yêu nhục dục đến việc tìm kiếm một tình trạng mới tốt đẹp hơn. Trong tình trạng mới, bổn phận và thú vui gặp nhau. Tình trạng khởi đầu mở màn việc thiết lập các cơ cấu. 

Viễn ảnh pháp lý: là một người đã khai tâm cho một tổ chức đã được thiết lập hay thiết lập một tổ chức dựa trên những nguyên tắc bền vững.  

Trước Vatican II: Bộ Phượng Tự Thánh năm 1947 đã nghiên cứu các “dấu chỉ được đòi hỏi nơi một người mà Giáo Hội nhìn nhận như vị sáng lập của một Dòng Tu” 

Sau Vatican II: Xây dựng lại đời sống của vị sáng lập ; Các sự kiện lịch sử chung quanh buỗi khởi đầu của Dòng; Việc xem xét một gia đình tu mới được thành lập lại “ex novo” ; Có thể vị sáng lập đã lấy một luật đã được phê chuẩn trước và đưa vào trong một Hiến pháp mới và đặc thù; Có thể họ là người đồng sáng lập; Sự phê chuẩn của thẩm quyền chính thức. 

 

b. Các phương thức sáng lập khác nhau:

·         Sáng tạo nên một gia đình tu trì “ex novo”, có mục đích và luật lệ của chính mình (Basil, Benedict, Francis, Ignatius…);

·         Lấy một luật đã được phê chuẩn như là nền tảng, rồi thay đổi nó thành một hiến pháp riêng hầu sáng tạo một gia đình mới (thánh Romuald  Camaldoli, thánh Bruno);

·         Lấy ý tưởng từ một người khác rồi đem ý tưởng đó ra thực hiện (thánh Jane Frances Fremiot de Chantal từ thánh Francis de Sales).

 

c. Đặc sủng sáng lập

Đặc sủng sáng lập và lãnh đạo đặc sủng:

-          Kinh nghiệm nội tâm của lãnh đạo đặc sủng hay sự sáng lập.

-          Các phẩm tính cá nhân của vị sáng lập: thân thể, tâm lý, lý do tình cảm, linh đạo...

-          Ơn gọi và mạc khải

-          Cộng đoàn tập trung

-          Thiên tài của Thần Khí? “Một người thánh thiện là một con người tội lỗi đã trải nghiệm lòng thương xót của Chúa” (Paul Tillich): Mary Ward, Têrêsa Giêsu Jesus, Têrêsa Lisieux, Têrêsa Calcutta, Edit Stein, Benedict, Francis, Dominic, Ignatius… họ là những “thiên tài”

 

d. Các loại đặc sủng

·         Các đặc sủng cá nhân: mỗi người có đặc sủng của chính mình

·         Các đặc sủng của đôi vợ chồng: hai người cùng một đặc sủng, hôn nhân công giáo

·         Các vị sáng lập Dòng

·         Các đặc sủng cộng đoàn: nhiều người chia sẻ cùng một đặc sủng, trong đời sống thánh hiến, trong phong trào giáo dân.

·         Đặc sủng sáng lập: các ân ban được chia sẻ bởi các anh chị em.

·         Các đặc sủng của vị sáng lập: Phân biệt giữa các loại khác nhau của các sáng lập viên (JMR Tillard); đặc sủng của vị khởi đầu và đặc sủng được truyền lại của Dòng tu (Teresa Ledóchowska).

·         Đặc sủng của vị sáng lập: khai tâm, tính sáng tạo… Người mang đặc sủng này là vị sáng lập.

·         Các đặc điểm của đặc sủng của vị sáng lập theo “Mutuae Relationes” (MR 11): Kinh nghiệm về Thần Khí, được truyền lại, lớn lên với những nét đặc biệt, qua cung cách và truyền thống.

·         Sự truyền lại của đặc sủng sáng lập: Đặc sủng được truyền lại thành gia đình linh đạo với Luật và Hiến pháp diễn tả Con đường Phúc Âm, để hiểu và sống các Mầu nhiệm Thiên Chúa, Giáo Hội, Thế giới, Xã hội, Lịch sử.

 

      4. Chúa Thánh Thần: Nguồn Sống và Đặc Sủng 

a. Nguồn sống (St 1,1): Từ hổn mang, vực thẳm, nước nguyên sơ được Ruah tác động và Thiên Chúa sáng tạo muôn vật từ sự sung mãn của Ngài: “Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1) 

Sự siêu việt của Thiên Chúa Cha không có hình tượng, trong khi Chúa Giêsu gần gũi với chúng ta, giống như chúng ta, còn Chúa Thánh Thần (Ruah) gần gũi với chúng ta, nhưng trong mầu nhiệm, không có hình tượng. Ruah của Thiên Chúa là sức mạnh nhiệm mầu, đầy quyền năng, đôi khi khủng khiếp, gió, cuồng phong, bảo tố, lụt bảo… với ơn linh hứng, nhiệt huyết, khí lực sinh tử và sức mạnh sáng tạo.

 

b. Những biểu hiện đặc sủng của Thánh Thần

“Bây giờ thưa anh chị em, tôi không muốn để anh chị em chẳng hay biết gì về các ân huệ thiêng liêng. Anh chị em biết rằng khi còn là dân ngoại, anh chị em bị lôi cuốn lầm lạc mà thờ các ngẫu tượng câm. Vì thế, tôi muốn anh chị em hiểu rằng chẳng có ai ở trong Thần Khí Chúa mà lại nói “Giêsu đáng nguyền rủa” và cũng chẳng ai nói được “Giêsu là Chúa” mà không do Thánh Thần” (1 Cor 12, 1-3).  

“Có nhiều ân sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí; có nhiều việc phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Chúa; và có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1Cor 12, 4-6). 

“Mỗi người được Thần Khí tỏ ra một cách khác nhau vì ích chung: Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người (1Cor 12, 7-11). 

“Bây giờ anh chị em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận của thân thể đó” (1 Cor 12, 27). “Như thân thể là một nhưng có nhiều chi thể, và các chi thể của thân thể tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Trong cùng một Thần Khí, tất cả chúng ta đều được thanh tẩy trong cùng một thân thể, dù là Dothái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, và tất cả chúng ta đều được ống trong cùng một Thần Khí” (1 Cor 12,12-13). 

“Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. Giả như chân có nói: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: “Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? 

Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày.” 

Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.

 

Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao? (1 Cor 12, 14-30).

 

c. TÌNH YÊU, đặc sủng tuyệt vời:

Tính vượt trội của tình yêu trên mọi đặc sủng: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cor 13, 1-3).

 

Các đặc điểm của đặc sủng Tình yêu:

Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cor 13,4-6)

 

“Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cor 13, 7-13)

 

Đặc sủng tiên tri và ngôn ngữ

“Anh em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn nói tiên tri. Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy nói ra những điều nhiệm mầu. Còn người nói tiên tri thì nói với người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi. Kẻ nói tiếng lạ thì tự xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh. Tôi muốn cho tất cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi người này giải thích để xây dựng Hội Thánh” (1 Cor 14,1-5).

 

5. Tư cách lãnh đạo đặc sủng của Chúa Giêsu

 

Chúa Giêsu là chìa khóa để hiểu tất cả các hiện tượng tiên tri và đặc sủng. Tân Ước gọi Chúa Giêsu là “Đấng khơi nguồn sự sống” (Cvtđ 3,15); “Thủ lãnh và Đấng cứu độ” (Cvtđ 5,31), nghĩa là Đấng sáng lập, tác giả, lãnh đạo, lãnh đạo ngoại hạng. Chúa Giêsu đã mở ra cho chúng ta con đường sống mới. Đúng vậy, Tông đồ Phêrô đã nói với dân chúng: “Anh em đã giết tác giả sự sống” (Cvtđ 3,15), nhưng “Thiên Chúa đã tôn dương Ngài lên bên hữu mình như Người Lãnh đạo và Đấng Cứu Độ” (Cvtđ 5,31)

 

“Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Ngài đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10).

 

“Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại” (Mk. 10,32-33)

 

Chúa Giêsu là một Ông Chủ, một vị Thầy, chứ không phải là một người viết. Ngài dạy mặt đối mặt: truyền khẩu, với biệt tài dùng dụ ngôn, gương mẫu, điệu bộ, tư tưởng ẩn dụ. Ngài qui tụ đàn ông đàn bà làm môn đệ, lôi họ ra khỏi thói thường cuộc sống, quyến dủ họ bằng những đòi hỏi mãnh liệt của Ngài, nên con số các môn đệ được tuyển chọn chỉ có giới hạn. Một số người đố kỵ, ghen ghét Chúa Giêsu. Họ không có thể đi theo Ngài vì sự giả hình của họ. Ngay cả giữa các môn đồ cũng có ghen ghét và đố kỵ. Ngài có một bài giảng tuyệt vời về tình yêu vì Ngài đã trải nghiệm lòng thù hận trong thế giới.

 

Sự hấp dẫn của Chúa Giêsu: Dân chúng nghèo khổ được Chúa Giêsu lôi cuốn. Sự hấp dẫn ấy vẫn theo Ngài lên trên thập giá: “Khi Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12,32); đặc sủng của Chúa Giêsu trên thập giá bộc lộ lòng khao khát giải thoát nhân loại.

 

Nguồn suối sự hấp dẫn của Chúa Giêsu: Nhân tính của Ngài: sự phong phú nhân bản; Người yêu dấu, Người được Thánh Thần xức dầu; Sự sống lại: tin vào sự hiện diện thường xuyên của Chúa Giêsu. Giáo Hội được sinh ra từ đặc sủng của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu có tất cả mọi nét chính của một lãnh đạo đặc sủng. Những người tin vào Chúa Giêsu được phân tán khắp nơi trong Đế quốc Roma. Và ngày nay, con người chịu đóng đinh chết trên thập giá ấy vẫn tiếp tục lôi cuốn và lãnh đạo vô vàn người đi theo và sẵn sàng sống chết cho Ngài, trong khi tiếp tục sứ mạng của Ngài.

 

Chúa Giêsu không phải là người sáng lập đời sống thánh hiến, nhưng Ngài sống như một tu sĩ của Thiên Chúa, và cộng đoàn tông đồ của Ngài, rồi cộng đoàn tín hữu kitô đầu tiên đã trở nên nguồn gốc và mẫu gương của đời sống thánh hiến, mà Ngài là nhà lãnh đạo đặc sủng bậc nhất.

 

Tự vấn:

·         Chị có ý thức về đặc sủng của chính chị không? Chị có bầu khí thích hợp để phát triển đặc sủng của mình không?

·         Chị có phải từ bỏ vài khía cạnh nào đó của đặc sủng riêng của chị để hội nhập vào đặc sủng của Dòng không?

·         Loại thân thể nào được hình thành trong nhóm của chị? Sức mạnh đặc sủng tình yêu ở giữa chị em là gì?

 

 

6. Chúng ta là những đồ đệ anh dũng

 

·         Dù nhẫn nại và độ lượng, chúng ta không chấp nhận sự thất bại cuối cùng.

·         Chúng ta không nhắm lấy bất cứ cái gì làm của riêng, khi bước theo một vị lãnh đạo mà mục tiêu là bảo vệ người yếu và bị áp bức.

·         Để bảo vệ ý thức bẩm sinh về nhân phẩm, người môn đệ được chuẩn bị hiến dâng cả mạng sống mình cách vui vẻ.

·         Là những người theo Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận sự lãnh đạo nào khác sự lãnh đạo của Ngài.

·         Không ai xứng đáng thay thế tư cách lãnh đạo của Chúa Giêsu, mà chỉ trở nên người đại diện cho Đấng Lãnh Đạo và là Chúa duy nhất.

·         Chúa Giêsu là cục nam châm thường hằng, các lãnh đạo kitô khác giống như từ trường.

·         Mỗi đặc sủng trong Giáo Hội diễn tả các khía cạnh khác nhau của đặc sủng của Chúa Giêsu.

·         Trước hết và trên hết, chúng ta đi theo Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì phần rỗi của chúng ta.

·         Chúng ta sống với Mẹ Maria như kiểu mẫu và nhà hướng đạo của chúng ta.

·         Chúng ta đi theo các vị sáng lập thánh thiện của chúng ta, là những đấng đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu qua chọn lựa của họ đứng về phía người nghèo.

·         Chúng ta theo các dấu chân của các cộng đoàn đầu tiên của chúng ta đã cùng với các vị sáng lập hy sinh đời mình vì Nước Thiên Chúa.

·         Các giá trị này là nguồn cam kết đời sống thánh hiến chứng nhân vui tươi và hạnh phúc của chúng ta.

 

 

III. NHỮNG GIAI ĐOẠN NẮN ĐÚC CĂN TÍNH TU SĨ

 

1. Ứng sinh sẵn sàng được đào tạo

    (Suy niệm từ Giêrêmia 18,1-6)

 

Tôi là cục đất sét. Từ ban đầu khi Chúa tạo dựng mặt đất, tôi đã có đó như một phần của vũ trụ bao la mà Chúa đã hình thành. Tôi hài lòng có mặt ở đó đơn giản chẳng có hình hài chi, nhưng người thợ gốm đến và lấy tôi ra khỏi mặt đất. Ông phơi khô tôi, nghiền tán tôi ra, và rây hết các vật lạ khỏi tôi. Ông thấy sự khô khát của tôi. Ông dấp nước cho tôi rồi bỏ tôi vào trong chỗ tối. Trong nơi tối tăm và riêng biệt đó, tôi nẫu ra và trở nên mềm dẻo. Tôi được hòa với nước và một chất dẻo mới được sinh ra, sẵn sàng cho đôi tay tạo hình của người thợ gốm.  

Ông đã trở lại, đụng vào tôi và ngắm nghía. Vâng, tôi đã sẵn sàng để được bẻ ra,  vắt, dồi, ném (một tiến trình để thanh luyện tôi). Đôi khi tôi chống lại vẻ thô bạo của ông trong tiến trình chẻ bửa đó. Ông thử uốn nắn và định hình tôi trên một bàn quay trước khi tôi sẵn sàng. Vì những bất toàn bên trong người tôi, ông chỉ sản xuất ra những bình lọ cong, dày, thô tháp, cả những chiếc chậu xấu xí… Tuy nhiên, ông đã giữ lại và trân quí, đơn giản chỉ vì ông đã làm ra tôi. 

Mỗi khi người thợ gốm muốn nắn một cái chậu khác, ông cầm lấy tôi, một cục đất sét mới nguyên. Mỗi khi ông bẻ, nghiền tán, vắt, dồi, ném…, tôi cứ để ông thanh tẩy tôi trọn vẹn. Rồi ông nhẹ nhàng nắm lấy tôi trong tay. Ông đặt tôi trong một quả cầu tròn trĩnh. Bây giờ tôi rất muốn được đặt trên bánh quay của ông vì tôi biết rằng chính tại đó ông sẽ đặt bàn tay quanh tôi và tiến trình tập trung tạo hình tuyệt vời sẽ bắt đầu. Tôi quay thật nhanh, nhưng tôi không sợ, vì tôi ở trong đôi tay của ông, chúng sẽ không bao giờ rời tôi.  

Tôi ở yên bất động chỉ nghe tiếng bánh xe quay (giống như lời cầu nguyện tập trung và yên lặng). Tôi cảm thấy mình nhẹ nhàng mở rộng, được căng ra và được lôi kéo khi ông kiểm soát chuyển động của tôi. Tôi được nắn theo hình mẫu ở trong tay ông. Ông chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tôi và một cảm giác mãn nguyện, thích thú trỗi lên trong toàn thân ông.  

Rồi ông vui vẻ đặt tôi xuống trên một khối cứng. Ông muốn làm tôi nên bất cứ đồ vật gì ông muốn và những lời Thánh Kinh này đến với tôi: “Ta không thể làm cho ngươi như người thợ gốm này đã làm sao?” (Gr 18,6a).  

Bây giờ những ngón tay tài hoa của Ngài nhanh chóng tạo hình cho tôi. Tôi kinh nghiệm sự trọn hảo của hình thái mình, hoàn hảo không chút sai sót như chính Người Thợ Gốm. Bây giờ tôi là một tạo vật mới, là công trình của Tay Ngài. Tôi thuộc về Ngài. Tôi không còn là một khối đất sét nữa. Tôi đã được biến đổi thành một cái chậu bằng đất, sẵn sàng để được Ngài sử dụng. Dù là cái chậu, tôi không bao giờ quên kinh nghiệm ấy: “Như miếng đất sét trong tay người thợ gốm, ngươi cũng ở trong tay Ta như vậy” (Gr 18,6b).

 

2. Những yếu tố căn bản trong việc đào tạo ứng sinh

 

Thiên Chúa có sáng kiến và cần con người đáp trả. Việc đào tạo bắt rễ từ trong Thánh Kinh, và đặt trọng tâm vào Chúa Kitô. Việc đào tạo là để phục vụ sứ mạng của Giáo Hội và do đó phải thích hợp với các thực tại của thế giới hôm nay.  

Việc đào tạo phải được tăng trưởng toàn diện, nhân bản và thiêng liêng, trong niềm hy vọng tràn đầy của Thánh Kinh và trong đối thoại cởi mở về mầu nhiệm.  

Vì mỗi cá nhân ứng sinh có lịch sử cá nhân của chính mình, nên công cuộc đào tạo phải là một tiến trình cá biệt trong sự tôn trọng và phát triển tính độc đáo của ơn gọi của họ. Công cuộc đào tạo là một tiến trình lâu dài của phân định, thực hiện và trưởng thành trong lời đáp trả của con người đối với một lối sống Phúc Âm trong một Dòng Tu. 

Đời sống thánh hiến bao gồm Ơn gọi, Việc Hiến Thánh, và Sứ Vụ dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Đào tạo người tu sĩ trong ánh sáng của một căn tính thần học để được đưa vào trong thế giới như chứng nhân có ý nghĩa, hữu hiệu và trung thành.

Bốn điều phải trung thành: Trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm; Trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội; Trung thành với đời sống thánh hiến và đặc sủng của Hội Dòng và Trung thành với các thời triệu.  

Tác nhân và Môi trường đào tạo: Thánh Thần Chúa; Giáo Hội và Cộng đoàn Dòng; Chính Ứng sinh; Các Nhà Đào Tạo; Môi trường Mục vụ ; theo gương Trinh Nữ Maria. 

 

3. Các giai đoạn đào tạo tu sĩ

 

a. Giai đoạn Tiền Tập viện

 

Thời kỳ đi trước và chuẩn bị giai đoạn Tập viện là giai đoạn thử thách (Nhà Thử) nhằm tìm bảo đảm rằng ứng sinh đã đạt tới sự trưởng thành đầy đủ về nhân bản và kitô chứng tỏ có khả năng đảm đương dần dần tất cả những đòi buộc của đời sống thánh hiến. 

Thời kỳ này để ứng sinh nghiêm chỉnh bắt đầu khám phá ơn gọi đời sống thánh hiến của mình và thực hiện cuộc điều chỉnh tiệm tiến về mặt thiêng liêng cũng như tâm lý để chuẩn bị một sự cắt đứt cần thiết nào đó với môi trường xã hội của mình ngõ hầu tham gia trọn vẹn tiến trình đào tạo và tự đào tạo. 

“Hầu hết những khó khăn gặp phải ngày nay trong việc đào tạo các tập sinh thường do sự kiện khi họ được nhận vào nhà tập thì họ chưa có được sự trưởng thành đòi buộc” (Directives on Formation in Religious Institutes [DFRI] n 42). Do đó không được đòi hỏi một ứng sinh vào đời sống thánh hiến phải có ngay lập tức khả năng đảm trách tất cả mọi bó buộc của đời sống thánh hiến, mà là có khả năng làm việc ấy cách tăng tiến dần dần.   

Xác định và đánh giá khả năng này là mục đích của giai đoạn này. Việc này có thể tóm tắt trong bốn động từ sau đây: xác minh, làm sáng tỏ, không trì hoãn, không trì hoãn quá mức (DFRI n 43). 

Những điểm lợi ích đặc biệt của việc biện phân cần được thẩm tra nơi các ứng sinh vào đời sống thánh hiến là: Trình độ trưởng thành về nhân bản và kitô; nền văn hóa chung; sự quân bình tình cảm và giới tính, bao hàm việc chấp nhận tha nhân trong sự tôn trọng cái độc đáo duy nhất của mình; và khả năng sống cộng đoàn. 

Ba hình thức thực hiện giai đoạn tiền tập viện: Đón tiếp ứng sinh vào một cộng đoàn Dòng; Các thời kỳ giao tiếp với một cá nhân hay cộng đoàn; Cuộc sống chung trong một nhà nơi các ứng sinh được đón nhận (DFRI n 44)           

Điều đó nói rõ rằng các thỉnh sinh chưa phải là những thành viên đầy đủ của Dòng. Một sự kết nạp tiệm tiến được bảo đảm. Phải nhớ rằng con người đang được đồng hành thì quan trọng hơn các động lực hay cơ cấu tiếp nhận.

 

b. Giai đoạn Tập viện

 

Giai đoạn tập sinh là thời kỳ của việc kết nạp toàn diện; là một thời gian đặc ân để cầu nguyện và chiêm niệm để biện phân ơn gọi đích thực vào đời sống thánh hiến.  

Việc trau dồi các giá trị và hòa nhập thực tại kêu gọi-đáp trả qua cầu nguyện, suy nghĩ, học hỏi, thời gian nhàn rỗi, sự mở ra và phục vụ lẫn nhau với các cộng đoàn địa phương, với những bộ phận khác nhau trong xã hội, nhất là với những kẻ bên lề và bị thua thiệt mất mát.   

Mục đích của tập sinh được mô tả bởi GL 646 trong 4 động từ (nhận biết, kinh nghiệm, được đào tạo và được thử thách) (DFRI n 45): Tập sinh phải nhận biết tốt hơn ơn gọi của Chúa, phù hợp với Dòng mình; Tập sinh phải được đào tạo trí óc và con tim theo tinh thần Dòng qua việc đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng; Tập sinh phải kinh nghiệm lối sống của Dòng; Các động lực của Tập sinh (phương diện chủ quan) và tính thích hợp (phương diện khách quan) phải được thử thách, kiểm chứng.  

Việc khai tâm để kết nạp quan trọng hơn nhiều việc dạy dỗ đơn thuần. Nó dần dần dẫn dắt tập sinh đi vào những thành phần khác nhau cấu tạo nên đặc sủng đời sống thánh hiến (DFRI n 46-47): Khai tâm vào một sự hiểu biết sâu xa và sống động về Chúa Kitô và Cha Ngài (qua Thánh Kinh, Phụng vụ, Cầu nguyện cá nhân và Lectio Divina); Khai tâm vào Mầu nhiệm Phục sinh (các lời khuyên Phúc Âm, sự khổ chế vui tươi, chấp nhận can đảm mầu nhiệm thập giá); Khai tâm vào đời sống huynh đệ Phúc Âm; Khai tâm vào lịch sử, sứ mệnh đặc biệt, đặc sủng và linh đạo của Dòng (các thời kỳ hoạt động tông đồ ở bên ngoài cộng đoàn) 

Mấy điều kiện tập sinh phải thực hiện (n 49-50): Tính mềm dẻo và thận trọng; Bầu khí thanh bình để có thể cắm rễ sâu vào cuộc sống với Chúa Kitô; Sự cắt đứt và tước bỏ chính mình (một điều kiện cần thiết cho những chọn lựa mới có ý nghĩa); Lồng ghép tập sinh vào các cộng đoàn là tuyệt đối không nên. Trong thời gian tập viện, đời sống thiêng liêng trổi vượt hơn đời sống tông đồ.  

Chị giáo tập (DFRI n 51) là người trách nhiệm chính chăm sóc các tập sinh, nhưng ở dưới quyền của Bề trên thượng cấp. Để chu toàn cách thích hợp sứ vụ đào tạo của mình: Chị giáo tập phải được tự do khỏi mọi bó buộc khác có thể cản trở việc chu toàn trách nhiệm của mình; Các cộng tác viên phải lệ thuộc chị giáo tập, nhưng họ có một vai trò quan trọng trong việc biện phân và quyết định liên quan đến tập sinh; Chị giáo tập là người đồng hành của mỗi người và tất cả các tập sinh: tập sinh là nơi chốn thừa tác vụ của chị. Các giáo tập trong các Dòng giáo sĩ thường không cho các tập sinh xưng tội, trừ khi gặp hoàn cảnh phải thu xếp như vậy.

 

c. Giai đoạn Học viện

 

Là thời kỳ đào tạo giữa thời gian tiên khấn và vĩnh khấn. Đào sâu sự cam kết với Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài, đồng thời sống cao độ bốn sự trung thành (Trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm; Trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội; Trung thành với đời sống thánh hiến và đặc sủng của Hội Dòng; Trung thành với các thời triệu). Biện phân cho sự cam kết suốt đời với Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài trong tinh thần và đặc sủng của Dòng. 

Những gì Giáo Hội truyền dạy (n 58): GL 659 nói rõ ràng: trong mỗi Dòng, việc đào tạo tất cả các thành viên phải được tiếp tục, nhờ đó họ có thể sống đầy đủ hơn cuộc sống thích hợp với Dòng mình và chăm lo sứ vụ của mình cách phù hợp hơn. GL 660 thêm rằng công cuộc đào tạo này phải: Có hệ thống, chứ không theo lối phân mảnh; được thích nghi với khả năng của các thành viên; có tính cách thiêng liêng và tông đồ; vừa giáo thuyết vừa thực hành, với nhiều trình độ khác nhau. Đàng sau những chỉ thị đó là nguyên lý hội nhập và quân bình.  

Nội dung và phương tiện đào tạo (n 60 – 61). Mỗi Dòng được yêu cầu cung ứng cho ứng sinh:

·         Một cộng đoàn đào tạo: Đời sống cộng đoàn mang lại thực tiễn cho ứng sinh; giúp ứng sinh trưởng thành cá nhân, tự trọng và kích thích tinh thần đồng trách nhiệm.

·         Các nhà giáo dục/đào tạo, đồng hành thành thạo.

·         Chương trình học nghiêm túc

·         Vị linh hướng (n 63):Vị linh hướng phải khác biệt với Bề trên: liên quan đến việc chọn vị linh hướng, điều quan trọng là phải giúp ứng sinh cảm thấy được tự do trong lương tâm để chọn một người mà ứng sinh cho là thích hợp hơn. Đàng khác, người làm tác vụ này phải có ơn đặc biệt và làm cho mình có khả năng để làm việc đó.          

Cam kết tông đồ và kinh nghiệm xã hội cũng như Giáo Hội (n. 62): Đi trong đặc sủng của Dòng;  để ý các năng khiếu và hoài bảo. Tài liệu cung cấp các tiêu chuẩn suy tư một vấn đề đặc biệt. “Cam kết phục vụ Giáo Hội và xã hội là tiêu chuẩn để biện phân.” Tài liệu tham chiếu về số 18 nói về đức vâng lời như con đường trực tiếp để thực thi sự thống nhất đời sống trong tương quan với bốn diều phải trung thành (với Chúa Kitô và Phúc Âm, với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, với đời sống thánh hiến và đặc sủng Dòng, với nhân loại và thời đại chúng ta)

 

d. Giai đoạn đào tạo tiếp tục (Đào tạo thường xuyên)

 

Vì các giới hạn nhân loại, con người không bao giờ hoàn toàn đạt tới cuộc sống của “một tạo vật mới” phản ánh được thần trí Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh sống (VC 69). Do đó, tu sĩ cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyện, với nhiều trình độ và tuổi tác khác nhau (tuổi tu và tuổi đời). Đào tạo thường xuyên là một chương trình tổng quát nhằm canh tân mọi chiều kích của cá nhân cũng như của cả nhà Dòng.  

Những năm đầu tiên dấn thân trọn vẹn trong việc tông đồ, đi từ một cuộc sống được trông nom đến một tình trạng chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc mình làm, từ lúc cần có người đồng hành trong cuộc sống đến lúc triển nở đầy đủ về tình yêu và lòng nhiệt huyết cho Chúa Kitô.

Tuổi trung niên là thời gian tìm kiếm những gì là căn bản: Sự nổi bật của con người thật và thách đố để hòa nhập mọi cực của cuộc sống. Thời kỳ cho sự cô đơn sáng tạo và sinh hoa kết trái thiêng liêng. Hành trình hướng nội để sống mầu nhiệm Phục sinh. Tuy nhiên, tu sĩ trong độ tuổi này cũng có thể liều mình vấp phải thói quen. Cần có sự thúc đẩy và các động lực tươi mới, sự hiểu biết và chấp nhận mùa vọng của tiến trình tuổi già. 

Vị tu sĩ tiến dần đến giai đoạn cuối đời, tuổi của trưởng thành và trọn vẹn. Người thánh hiến nhận diện được hơn bao giờ cả những gì là thật, căn bản và không thể bị phá hủy trong đời sống. Đây là giai đoạn vị tha, biết ơn, khôn ngoan và bình an, hướng tới sự hòa nhập tích cực của sự sống và sự chết nhằm đến đời sống sung mãn và hiệp thông với Chúa. Tuy nhiên cũng không thiếu người cảm thấy những hụt hẫng, nặng lòng vì bất lực, trở nên vô dụng hay bị bỏ quên... cần được nâng đỡ, chăm sóc giúp nhớ lại và sống tình yêu hăng say của buỗi ban đầu “một lần đã quảng đại thì cố quảng đại cho đến cùng.”  

Các lý do của thường huấn: Người có sáng kiến là Thiên Chúa, Đấng kêu gọi trong thời gian và những hoàn cảnh mới. Cần phải đi theo Chúa Kitô, luôn đặt mình lên đường. Đặc sủng là một quà tặng phải được đón nhận trong những điều kiện mới mẻ.

     Việc thường huấn đòi hỏi: Trí thông minh để đọc được các hoàn cảnh, những dấu chỉ thời đại và những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần; Ý chí dấn thân trong Giáo Hội; Tính táo bạo trong sáng kiến; Tính kiên trì trong cam kết; Lòng khiêm tốn để chấp nhận và vượt qua mâu thuẫn; Chức năng biểu tượng cánh chung phù hợp với đời sống thánh hiến; Thách đố do tương lai đặt ra cho đức tin công giáo, kể cả tương lai của các Dòng Tu. 

Ngoài ra cũng có dữ liệu tâm lý về nhu cầu đào tạo trong các hoạt động chuyên nghiệp. Đào tạo khởi đầu có mục tiêu chính là giúp ứng sinh đạt được đủ tự lập để sống những cam kết trong sự tín trung. Đào tạo thường xuyên có mục tiêu giúp các ứng sinh hội nhập với lòng trung thành. Đòi hỏi đào tạo thiêng liêng với đời sống nội tâm được thống nhất luôn luôn phải được đặt lên địa vị ưu tiên. Đào tạo thường xuyên phải đề cập tới các vấn đề thiêng liêng, tham dự vào đời sống Giáo Hội như những tác nhân canh tân giáo thuyết và nghiệp vụ, cũng như hiện tại hóa đặc sủng của Hội Dòng.

 

            e. Tính Quyết định của Tự Đào Tạo 

            Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của chị. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được trong việc đào tạo của chính mình: “Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào tạo, kể cả đào tạo linh mục. Không ai có thể thay thế chúng ta trong sự tự do có trách nhiệm mà chúng ta có được như là những nhân vị độc đáo” (John Paul II, Pastores Dabo Vobis 69) 

            Vâng, tự đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài. Cũng thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ “trở nên thực sự và đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của chính chị vào công cuộc đào tạo này.”  

            Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” ngày nay đã được thay đổi: nếu không có sự thực hành của trò thì những giáo điều và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa mỹ thôi. Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện.  

            Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến họ” (John Paul II, Pastores Dabo Vobis 82)  

(Slideshow BÀI HỌC QUÉT LÁ)

Tác giả Lm. Trần Minh Huy, pss

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!