.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Chương I : Đào sâu và thực hành đặc sủng và linh đạo dòng

Chương II : Củng cố những bước đầu phân định và sống ơn gọi

Chương II : (tiếp)

Chương III : Con đường sống thánh

Chương III : (tiếp)

Chương IV : Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm

Chương V : Sống triển nở đời sống cộng đoàn, yếu tố sống còn của tu sĩ

Chương V : (tiếp)

Chương VI : Sống tốt đời sống độc thân thánh hiến trong bối cảnh hôm nay

Chương VI : (tiếp)

Chương VII : Sống viên mãn ba lời khấn dòng

Chương VII : (tiếp)

Chương VIII : Những thời khắc quyết định

Phụ lục I

Phụ Lục II

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Người Nữ Tu Sống Tu Đức Toàn Diện
Tác giả: Lm. Trần Minh Huy, pss
CHƯƠNG III : (TIẾP)

         B. ĐỊNH NGHĨA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG 

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG

LÀ ĐỜI SỐNG NHÂN BẢN ĐƯỢC SỐNG

TRONG CHÚA THÁNH THẦN

 

Định nghĩa này phải hiểu trong tiến trình:

Con Người → Tu Đức Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm người/con Chúa) → Thánh Nhân (hiệp thông tình bạn với Chúa: Ga 15,15) 

“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ... Họ phải cảm thấy thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại” (Hiến Chế Mục Vụ "Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay: Vui Mừng và Hy Vọng" số 1). 

Đời sống nhân bản khởi sự từ khi sinh ra, trải dài cho đến lúc chết, và còn tiếp tục cả sau khi chết, qua danh thơm tiếng tốt hay ố danh tiếng xấu (“Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”). 

            Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản đó được sống trong Chúa, vì Chúa và cho Chúa: “Dầu ăn, dầu uống, dầu làm bất cứ điều gì khác, anh em hãy làm cho sáng danh Chúa” (thánh Phaolô) 

Trong cả hai cuộc sống ấy (nhân bản và thiêng liêng), mỗi người được mời gọi sống tới mức độ trưởng thành tốt nhất, mức độ trọn hảo: “Hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48), hay nói theo ngôn ngữ hiện nay là “trăm phần trăm”                        

Chính thái độ sống làm cho cuộc sống đạt tới mức 100%. Vậy thái độ của chúng ta đối với môn Tu Đức này sẽ rất có ý nghĩa. Nó không phải chỉ là một hiểu biết mang tính kiến thức về đời sống thiêng liêng, mà là một cuộc sống. Và nếu là cuộc sống, thì bao lâu còn sống, bấy lâu chúng ta còn học Tu đức, còn thực hành tu đức, sống tu đức và thăng tiến nhờ tu đức.

 

Tuy nhiên, dường như có sự thiếu liên tục giữa giai đoạn đặc biệt đào tạo chuyên sâu về tu đức như giai đoạn Nhà Tập, trong đó đời sống thiêng liêng phải vượt trổi hơn đời sống tông đồ, và các giai đoạn đào tạo kế tiếp khác.

 

Sau giai đoạn đó, việc đào tạo tu đức dần dần bị coi là xong rồi, như đã đạt được một mớ kiến thức về tu đức. Nhưng biết được chưa chắc đã sống được: “Nói thì hay mà vỗ tay thì lỗi” hay như thánh Phaolô thú nhận: "Có những điều tốt tôi muốn làm nhưng tôi không làm được, và có những điều xấu tôi không muốn làm mà tôi lại làm!"

    

Ngoài ra, nhiều khi không có sự tiếp tục đào luyện tu đức có hệ thống trong những năm kế tiếp nữa (các hình thức thường huấn, học hỏi trao đổi dịp tĩnh tâm tháng và năm).

    

Và cũng thiếu một sự tương tác giữa các môn học khác với môn học và đời sống tu đức. Chớ gì chúng ta có thể chiêm ngắm và cầu nguyện trong và qua các môn học khác.

 

Chính tinh thần sống tu đức này thổi sinh khí và gia tăng nghị lực cho chúng ta trong việc học các môn học khác nữa (chia sẻ kinh nghiệm năm chuẩn bị thi Thành Chung)

 

            Hầu hết các ngành đào tạo hiện nay đều đòi hỏi một thời gian thực tập, sau khi học xong phần lý thuyết (Y khoa, Sư phạm v.v...). Điều đó càng đúng hơn nữa với đào tạo nhân bản và đào tạo thiêng liêng.

    

Hai việc đào tạo này luôn luôn gắn kết, quyện lấy nhau và bổ túc cho nhau. Sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng không tùy thuộc vào tuổi tác và địa vị (xem Daniel và hai bậc kỳ lão trong chuyện bà Suzana).

    

Và cũng vì thế người ta nói đến “nhân đức thật” và “nhân đức ảo.” Còn Chúa Giêsu thì căn dặn “hãy nghe những lời họ nói, nhưng đừng bắt chước việc họ làm, vì họ nói mà không làm.” Và người bình dân Việt Nam lại thách đố: "Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài xuống ngài mần ngài coi!" 

            Vì thế, hai việc đào tạo nhân bản và thiêng liêng này phải song hành với nhau trong suốt cả cuộc đời mỗi người, trải nghiệm qua thành công và thất bại: “Tiên cũng có khi đọa, thánh cũng có khi lầm.” Nhưng Nguyễn Thái Học an ủi, khích lệ: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần, nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” 

            Ai trong chúng ta cũng có những lần trải nếm kinh nghiệm của thánh Phaolô về hai sức mạnh đối nghịch nhau trong bản thân mỗi người, khiến những điều tốt ta muốn làm thì lại không làm được, và những điều xấu không muốn làm thì ta lại làm.    

Hãy chấp nhận những giới hạn, bất toàn và bất lực của mình, mỗi ngày chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn về chính mình, trước mặt Chúa, cũng như trước mặt người khác. 

            Và mỗi người chúng ta cũng hãy nghĩ như thế cho tha nhân: bao lâu còn mang nặng thân phận con người, họ cũng có những yếu đuối, sai sót, lỗi lầm, bất toàn và bất lực của họ, dù họ là ai đi nữa, Bề trên hay bề dưới. Càng chấp nhận họ như họ là như thế, ta sẽ càng trở nên cảm thông với họ hơn, độ lượng với họ hơn, tha thứ và bỏ qua cho họ hơn. 

            Cảm thông, độ lượng, tha thứ, bỏ qua cho người và khiêm tốn về mình, các mối quan hệ nhân bản của ta sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống thiêng liêng cũng sẽ được phát triển đúng mức. 

            Cuộc đời nhân bản – thiêng liêng của chúng ta lắm khi cũng “ba chìm bảy nổi chín long đong.” Và tiền nhân chúng ta cũng thường nhắc nhở: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.”Chớ chi chúng ta biết chìa tay ra cho nhau như Chúa Giêsu đã chìa tay cứu Phêrô khỏi chìm.

 

Như thế, cuộc đời chúng ta không được biểu diễn như một đường thẳng, mà là những đường gợn sóng hoặc là những đường xoắn trôn ốc.

 

(slideshow CÙNG ĐI VỚI CHÚA GIÊSU) 

            Nhưng Thiên Chúa luôn luôn viết thẳng trên những đường cong của cuộc đời của chúng ta.

             Vì vậy đào tạo tu đức không chỉ là công việc và nỗ lực của con người, mà là công việc của chính Chúa Thánh Thần và đương sự, cùng với sự cộng tác tích cực của toàn thể Giáo Hội lữ hành, mang sẵn trong mình đủ các yếu tố

     - cả thần linh và nhân loại,

            - cả thánh thiện và tội lỗi,

            - cả sức mạnh và yếu đuối,

            - cả thưõng tích và chữa lành… 

Chúng ta sẽ cố gắng thực hiện hài hòa việc được đào tạo và tự đào tạo, trong đó việc tự đào tạo của chị em đóng vai chính: “chính ứng sinh là người chịu trách nhiệm trước tiên trong việc huấn luyện chính mình” (PDV 69).  

Việc tự đào tạo biến chúng ta thành những sinh vật có xương sống hay có vỏ cứng, luôn luôn tự mình có thể đứng vững được, dù có xây xát và thương tích.

 

Nếu không có tự đào tạo, thì việc đào tạo chỉ dừng lại ở những lời hoa mỹ của phương diện tri thức lý thuyết, và chỉ tạo nên những sinh vật không có xương sống hay tầm gửi, luôn dựa dẫm vào người khác hay cộng đoàn, dễ vấp ngã khi phải sống một mình.

 

(slideshow HOA VÀ CHIM)

 

 

       C. CÁC MỐI TƯƠNG QUAN VÀ CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH

 

Con người không phải là thiên thần, mà cũng chẳng phải là con vật, nhưng mang sẵn cả hai yếu tố đó, trong mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng.  

            Tất cả mọi người đều được mời gọi nên thánh qua tiến trình làm người, làm người kitô hữu và làm người tông đồ, nghĩa là thành nhân đã rồi mới thành thánh nhân.  

            Người đi tu làm linh mục và tu sĩ vẫn không thôi là con người, khi đang nỗ lực nên thánh trong bậc sống ơn gọi và sứ vụ của mình.

VẬY THÁNH THIỆN LÀ GÌ?

 

            Trước hết, sự thánh thiện không phải là, hay không chỉ là:

            -  một cái gì trừu tượng,

            -  một cái gì chúng ta mặc vào mình,

            -  những việc đạo đức tốt lành nào đó trong đời mình,

            -  một vai trò chúng ta đảm nhận,

            -  vấn đề luân thường đạo lý,

            -  một hệ thống tự hoàn hảo của con người,

            -  chỉ qui về đời sống bên trong của một người...

 

Sự thánh thiện là tất cả những cái đó ở trong một bối cảnh rộng lớn hơn, nghĩa là, đạt đến sự thánh thiện không chỉ là nỗ lực của con người, nhưng còn là công trình của ân sủng Chúa, qua các mối tương quan của cuộc sống. 

            Như thế, sự thánh thiện có liên quan đến các mối tương quan, ở trong các mối tương quan và nhờ các mối tương quan: 

-    Đã có một thời người ta liên kết sự thánh thiện với việc đọc kinh, thực hành các bổn phận tôn giáo và những việc đạo đức, một cách cá nhân.  

-    Thực ra, sự thánh thiện được liên kết chặt chẽ với các mối tương quan với Chúa, với bản thân, với tha nhân và với môi trường thiên nhiên, trong đó tương quan với Chúa là nền tảng.  

   "Lời mời gọi nên thánh trong mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và lời mời gọi phục vụ và hy sinh dựa trên việc thiết lập những tương quan lành mạnh với mọi người" (Trích Thông cáo báo chí của Hội Nghị Các Giám Mục Á Châu từ 27/8 - 1/9/2007 tại Thái Lan) 

            CON NGƯỜI MUỐN NÊN THÁNH phải nỗ lực mỗi ngày để nên đồng hình đồng dạng với CHÚA GIÊSU (Tình yêu bao gồm và không loại trừ), trong các mối TƯƠNG QUAN

-  VỚI CHÚA

-  VỚI CHÍNH MÌNH

-  VỚI THA NHÂN

-  VỚI THIÊN NHIÊN

            -  VỚI TỨ CHUNG

dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. 

            - Các mối tương quan này rất tương thuộc và tương tác lẫn nhau, nên nếu có cái gì “trục trặc” trong một tương quan thì các tương quan khác cũng bị ảnh hưởng. Chính trong và qua các mối tương quan này mà chúng ta được lớn lên trong sự thánh thiện. Do đó, để có được sự thánh thiện, các mối tương quan này đều phải hòa nhập và giữ đúng vị trí, hài hòa, quân bình và trưởng thành.  

- Có được các mối tương quan như thế được coi là có được sự thánh thiện. Như vậy, sự thánh thiện không được hiểu theo một cá nhân biệt lập, nhưng theo mối tương quan toàn diện của cá nhân với Thiên Chúa, với tha nhân, với chính mình và với môi trường sống (thiên nhiên).            

            - Sự thiếu trưởng thành thiêng liêng của chúng ta là do việc chúng ta thiếu những tương quan đích thực, hay có những tương quan không trưởng thành, những tương quan sai lầm, những ngăn chặn và sợ hãi tâm lý của chúng ta trong những tương quan.                        

            - Khi những tương quan vắng mặt trong đời sống chúng ta thì sự thánh thiện cũng vắng mặt. Và khi những tương quan bị ngăn cản trong đời sống chúng ta thì sự thánh thiện cũng bị ngăn cản. Do đó, người ta nói đến sự thánh thiện hay nhân đức ảo và nhân đức thật.

 

THÁNH THIỆN và TỘI LỖI

 

            Chúng ta cũng cần nói đến mối tương quan giữa sự thánh thiện và tội lỗi:

            - Tội lỗi và sự thánh thiện nên được hiểu theo những mối tương quan đích thực hay không đích thực. Nếu những mối tương quan của chúng ta là những liên hệ tình yêu không chân chính hoặc thiếu tình yêu đích thực thì lúc đó có tội.            

            - Theo Kinh Thánh, tội lỗi và sự thánh thiện được hiểu trong bối cảnh của những mối tương quan. Trong Cựu Ước: tội của Ađam và Evà, tội của Israel, tội của Cain, tội của Vua Đavít… tất cả là những tội ở trong và bởi các mối tương quan. Trong Tân Ước, tội cũng được hiểu theo sự không có hoặc thất bại không thiết lập được những tương quan, hay thiếu những tương quan tình thương hoặc có những tương quan tình thương sai lầm và đi xa khỏi những tương quan ngay chính.

 

            - Chúa Giêsu coi tội là tình trạng tha hóa phẩm giá con người hơn là chỉ những vô trật tự luân lý (ngày Sabbath vì con người, chứ  không phải con người vì ngày Sabbath). Chính những người Biệt phái và Luật sĩ cũng hiểu tội lỗi và sự thánh thiện trong bối cảnh lề luật và nghi thức.

 

 

        I. LIÊN HỆ VỚI THIÊN CHÚA

            TƯƠNG QUAN NỀN TẢNG

 

1.      Tương quan với Chúa Cha

2.      Tương quan với Chúa Giêsu, đặc biệt Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu Thánh Thể

3.      Tương quan với Chúa Thánh Thần

4.      Tương quan với Đức Mẹ

5.      Tương quan với các thiên thần, nhất là thiên thần giữ mình

6.      Tương quan với thánh cả Giuse, thánh Quan Thầy và các thánh

 

Liên hệ với Thiên Chúa là khía cạnh quan trọng nhất của đời sống độc thân thánh hiến.

 

Liên hệ với Thiên Chúa là tuyệt đối then chốt để sống độc thân thánh hiến hiệu quả. Do đó quyền ưu tiên phải được dành cho liên hệ này.

Liên hệ với Thiên Chúa được bày tỏ qua đời sống thiêng liêng và cầu nguyện. Cầu nguyện không là gì khác hơn là liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Cầu nguyện là liên hệ với Thiên Chúa, đối thoại với Thiên Chúa, thông hiệp với Thiên Chúa, ở với Thiên Chúa, ở trước nhan Thiên Chúa, ý thức về Thiên Chúa.  

Đây là liên hệ siêu ngôi vị. Liên hệ siêu ngôi vị này bao gồm hai ngôi vị: một ngôi vị thần linh và một ngôi vị con người. Trong liên hệ này, ngôi vị Thần linh đến với chúng ta và chúng ta, những con người, đi tới Người, trong tiến trình cầu nguyện mang chiều kích vừa thần linh vừa nhân loại.

 

Thiên Chúa là Chúa của liên hệ và liên kết.

Khi Thiên Chúa liên hệ với chúng ta, chúng ta có thể hoặc nói “vâng” hoặc nói “không” với Ngài. Khi chúng ta nói “vâng” thì lúc ấy có liên hệ. Và đây là Liên hệ Siêu ngôi vị và cũng là sự Thánh thiện siêu ngôi vị. 

Độc thân thánh hiến phải giúp chúng ta phát triển liên hệ này với Thiên Chúa. Do đó, chúng ta chú ý đến một sự nối kết chặt chẽ giữa độc thân thánh hiến và đời sống cầu nguyện.  

Độc thân thánh hiến là một hồng ân liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Chính nhờ liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta di chuyển đến tất cả những liên hệ khác. Kính mến Thiên Chúa nâng cao liên hệ tình yêu của chúng ta với người khác.  

Nếu chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi liên hệ của chúng ta, thì chúng ta có thể trở thành phá hoại chính bản thân mình và người khác.

 

Thiết lập mối liên hệ cá nhân với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện là chiều kích hàng dọc trong liên hệ của chúng ta (đối thần); còn thiết lập liên hệ cá nhân với anh chị em chúng ta là chiều kích hàng ngang trong liên hệ của chúng ta (đối nhân). Chiều kích hàng dọc này là động cơ thúc đẩy và là ý nghĩa đích thực cho chiều kích hàng ngang trong đời sống chúng ta. 

 

        II. TƯƠNG QUAN VỚI THA NHÂN 

1.      Tương quan với Bề Trên

2.      Tương quan với các nữ tu đàn chị

3.      Tương quan với bạn đồng môn

4.      Tương quan với các nữ tu đàn em

5.      Tương quan với các nữ tu tương lai và các mầm non ơn gọi tu sĩ

6.      Tương quan với các linh mục và nam tu sĩ

7.      Tương quan với các linh mục lớn tuổi và có trách    nhiệm

8.      Tương quan với các linh mục bằng tuổi và có trách     nhiệm

9.      Tương quan với các linh mục trẻ

10.  Tương quan với các mầm non ơn gọi giáo sĩ

11.  Tương quan với giáo dân nói chung

12.  Tương quan với Ban Hành Giáo

13.  Tương quan với các đoàn thể

14.  Tương quan với những người già cả, bệnh tật và hấp hối

15.  Tương quan với các đàn ông góa vợ, nhất là các đàn ông góa trẻ

16.  Tương quan với giới trẻ

17.  Tương quan với giới thiếu nhi

18.  Tương quan với những người phục vụ trong nhà xứ, nhất cô bếp

19.  Tương quan với Chính Quyền

20.  Tương quan với các tôn giáo bạn, nhất là các vị lãnh đạo

21.  Tương quan với lương dân.

22.  Tương quan với giới giàu có

23.  Tương quan với giới nghèo

 

Liên hệ của chúng ta với nhau được gọi là liên hệ liên nhân vị. Có một thời người ta cho việc liên hệ của mình với Thiên Chúa mới quan trọng, còn liên hệ với nhau thì không mấy quan trọng. Kết quả là tu sĩ tránh liên hệ gần gũi với những người mình thi hành thừa tác vụ cho.

 

Những liên hệ với con người chỉ được coi là vấn đề riêng tư. Kết quả là một số tu sĩ có liên hệ trí thức và thiêng liêng với con người, chứ không có liên hệ tình cảm và nhân bản, luôn giữ thái độ xa cách và loại trừ. Và tình trạng có thể đưa tới bất cập hay thái quá.

 

Liên hệ liên nhân vị là một chiều kích quan trọng của tình yêu của người độc thân thánh hiến. Thánh Gioan chối bỏ khả năng kính mến Chúa ở đâu thiếu vắng tình yêu con người. Ngài mặc nhiên nối kết lòng kính mến Chúa với tình yêu con người. Ngài nhấn mạnh rằng không thể kính mến Chúa là được, nếu không có tình yêu con người.

 

Tình yêu Thiên Chúa là suối nguồn, là nền tảng và động lực của tình yêu con người. Tình yêu con người là sao chép, biểu lộ và diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Người không yêu thương cận nhân của mình thì không thể biết Thiên Chúa, không thể kính mến Thiên Chúa được: “Nếu một người nói rằng mình kính mến Thiên Chúa, nhưng lại ghét anh em mình thì người ấy là kẻ nói dối. Vì người ấy không thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà người ấy không thấy, nếu người ấy không yêu thương người anh em của mình, người mà người ấy thấy. Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em” (1Ga 4, 7-21).

 

Trong khi chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải đi qua tình yêu và tình bạn nhân loại (“qua sông nên phải lụy đò, tối trời nên phải lụy O bán dầu”). Chính nhờ chúng ta cảm nghiệm tình yêu nhân loại, chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.

 

Một số người trong chúng ta chưa tiếp xúc được với tình yêu Thiên Chúa và chưa được tình yêu Thiên Chúa óac động, vì chúng ta chưa thực sự tiếp xúc với con người và chúng ta chưa để cho con người tiếp xúc với chúng ta. Nếu chúng ta không yêu thương một con người khác, mà chỉ kính mến Thiên Chúa, thì chúng ta chẳng yêu mến ai cả. Nếu chúng ta chưa phải lòng con người, thì chúng ta chưa thực sự phải lòng hữu thể thần linh: “Không thể có cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếu không được một cảm nghiệm về thế giới làm trung gian.”

 

(Hát BÀI CA YÊU THƯƠNG)

 

Cái làm trung gian cho cảm nghiệm về Thiên Chúa chủ yếu là liên hệ của con người với những con người khác” (Karl Rahner, Doctrine and Life tr. 71). Những mối liên hệ liên nhân vị là thánh thiêng tự bản chất và chúng mạc khải diện mạo của Thiên Chúa. Thái độ cá nhân “Tôi và Thiên Chúa” hay “Tôi và Chúa Giêsu” mà không có liên hệ với con người là xa lạ đối với ý thức Kitô giáo.

 

Tu sĩ trở thành một phần của cộng đoàn Dân Chúa gồm những con người phục vụ lẫn nhau. Nhờ những việc phục vụ này, tu sĩ thiết lập được mối liên hệ tình yêu với Thiên Chúa và con người. Do đó, cùng đích và cốt yếu của người tu sĩ hệ tại việc cổ vũ những mối liên hệ quân bình, hài hòa và trưởng thành.

 

Nhưng vì những việc phục vụ có đặc điểm là liên hệ tình yêu, một số trong các liên hệ với con người có thể dẫn đến chỗ vi phạm độc thân thánh hiến. Do đó, tu sĩ phải rất thận trọng trong các liên hệ của mình, vì luôn luôn có nguy cơ liên quan đến liên hệ.

 

Do có những nguy cơ liên quan đến những liên hệ của chúng ta, nên một số người trong chúng ta tránh xa con người và những mối liên hệ, và để hết tâm trí vào công việc; thậm chí trở thành những người tham công tiếc việc.

 

Tâm lý tham công tiếc việc giữ chúng ta xa khỏi sự thách đố của những liên hệ độc thân thánh hiến đích thực (không có cám dỗ khơng có công nghiệp; chưa có cám dỗ chưa chắc đã được bảo đảm), và cũng làm cho sứ vụ chúng ta trở nên xa lạ và mất hiệu quả. Khi tránh xa những liên hệ thì chúng ta sẽ xơ cứng trở thành những người thực hiện, những công chức, những cỗ máy… 

 

Chúng ta có thể thậm chí tìm những bù trừ và thay thế dễ dãi để lấp vào chỗ những liên hệ đích thực, như thích ăn nhậu, âm nhạc, báo chí, chim cá kiểng, truyền hình v.v… Những thứ đó dễ hơn nhiều so với nỗ lực thiết lập những mối liên hệ tốt với con người.

 

Một số người trong chúng ta tránh liên hệ và do đó trở thành những nhà trí thức lạnh lùng, thay vì những con người có tình có nghĩa trong liên hệ. Chúng ta trở thành những công chức thay vì những người phục vụ thân tình, thấu cảm. Chúng ta trú ẩn vào việc làm chuyện này chuyện nọ, vào xây cất, vào thành công, vào những lễ hội nọ cử hành kia, vào địa vị và quyền lực.

 

Độc thân ‘vì Nước Thiên Chúa’ phải là cái gì xây dựng được những tương quan con người mạnh mẽ. Cha Connolly nhận xét: “Giáo huấn truyền thống của chúng ta về độc thân thánh hiến đã không xử lý vấn đề này một cách tích cực hay sáng tạo. Nó mạnh mẽ can ngăn việc phát triển bất cứ liên hệ con người nồng ấm nào, bên trong hay bên ngoài cộng đoàn, và nhất là với bất cứ phần tử khác phái nào. Nó dạy chúng ta yêu người, nhưng yêu trên tầm mức phục vụ chung chung (quảng đại và dễ thương), chứ không để hết tâm trí hay không có liên hệ cá nhân” (F.B. Connolly CSSR, Religious life: A Profile of the Future. Bangalore: Asian Trading Corporation, 1985. tr. 31)

 

Việc phát triển liên hệ con người là nền tảng, vì không có những liên hệ ấy thì người độc thân thánh hiến sẽ không cảm nghiệm được hạnh phúc. Sự thiếu hạnh phúc này sẽ hạn chế chứng tá của mình cho niềm vui được tìm thấy trong sự thông hiệp với Thiên Chúa. Dân ngoại đánh giá cộng đoàn kitô đầu tiên: “Xem kìa, họ thương yêu nhau dường nào!” và họ đã muốn sống như thế mà Đạo được phát triển.

 

Không có việc phát triển những liên hệ con người thì người độc thân thánh hiến sẽ không là một thừa tác viên hữu hiệu của sứ điệp Thiên Chúa và tình yêu của Ngài được.

 

Một người được kêu gọi đến đời sống độc thân thánh hiến phải tìm kiếm sự thân mật với Thiên Chúa, và đồng thời, người ấy phải gầy dựng sự thân mật với những con người khác. Khi hai chiều kích của sự thánh thiện này vắng bóng trong cuộc đời và thừa tác vụ của chúng ta thì khả năng nên thánh của chúng ta cũng vắng bóng trong cuộc đời chúng ta.

 

Chính trong và nhờ các mối liên hệ (với Chúa và với con người) mà chúng ta lớn lên trong sự thánh thiện. Nhưng cũng chính trong và vì các mối liên hệ với con người này mà chúng ta phải chiến đấu và có khi vấp ngã, hoặc làm cho anh chị em mình phải chiến đấu và vấp ngã.

 

(Video TÌNH YÊU VÀ SỨ MỆNH)

 

      III. TƯƠNG QUAN VỚI CHÍNH MÌNH

 

1.      Người được Chúa Thánh Thần thánh hiến, chiếm hữu và hướng dẫn.

2.      Người của siêu nhiên và cầu nguyện.

3.      Người của linh thánh.

4.      Người có một nền tảng Kinh Thánh vững chắc.

5.      Người mở ra với hiệp thông.

6.      Người hăng say truyền giáo.

7.      Người cởi mở đối thoại.

8.      Người của truyền thông xã hội.

9.      Người nhạy cảm với các vấn đề xã hội.

10.  Người của sứ vụ tiên tri.

 

MÔ HÌNH NGƯỜI NỮ TU HÔM NAY VÀ NGÀY MAI

 

Tây phương có câu ngạn ngữ “Trong khi rèn, người ta trở thành thợ rèn.” Cũng thế, càng sống đời tu sĩ, chị em càng trở nên tu sĩ hơn. Nhưng công cuộc được đào luyện và tự đào luyện còn nhiều gian nan, cần ơn Chúa và cố gắng bản thân.

 

(Hát CHÚNG CON CẦN ĐẾN CHÚA)

 

 

1. TU SĨ LÀ NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA THÁNH        THẦN CHIẾM HỮU VÀ HƯỚNG DẪN

 

            Mẹ Maria là kiểu mẫu mọi thời cho người nữ tu để mình được Chúa Thánh Thần: - tác động, - chiếm hữu - và hướng dẫn.

           

            Trình thuật truyền tin tô đậm nét cho xác quyết này:

-          ‘Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!’

-          ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’

-          “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

-          “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”

Lk 1, 34-35,37-38

 

            Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu. Nhờ Mẹ mang Chúa đến thăm, bà Elizabeth được đầy Chúa Thánh Thần: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lk 1,41)

 

            Một số nhân vật Phúc Âm được đầy Chúa Thánh Thần:

-          Gioan Tẩy Giả: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa…và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần” (Lk 1,15)

-          Dacaria: “Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng…” (Lk 1,67)

-          Giuse (x. Mt 1,18-24; Lk 2,1-7)

-          Simêon: “Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên đền thờ.” (Lk 2:25-27)

 

Đặc biệt Chúa Giêsu:

- Được Isaia báo trước: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than…” (Is. 61,1-2)

 

- Chính Chúa Giêsu khẳng định về mình ở Hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa… Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lk 4,18-21)

 

            Cũng như mọi người, nữ tu đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần và trở nên đền thờ Ngài ngự. Vài đoạn Kinh Thánh nói rõ điều đó:

            - Mk 1,8 “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.“

 

            Lk 3,16 “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”

           

            Ga 1,33 “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần."

 

            Ga 3,5 Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.”

           

Tđcv 1:5 “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”

 

            Người nữ tu phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, như đã làm với chính Chúa Giêsu:

-          Mt 4,1 Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.

-          Mk 1,12 “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa.”

-          Lk 4,1 “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về.”

 

            Người nữ tu cũng được Chúa Thánh Thần dạy dỗ và nhắc nhở mọi điều Chúa Giêsu đã dạy: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26)

 

            Thánh Thần cũng sẽ dạy cho biết phải nói gì: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lk 12,11-12)

 

            Thánh Thần còn nói thay cho nữa:

            Mt 10,20 “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” MK 13,11 "Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói.”

 

            Chúa Thánh Thần giúp kiện toàn đời sống và sứ vụ bằng 7 ơn của Ngài: - Khôn ngoan, - tri thức, - thấu hiểu,             - sức mạnh, - lo liệu, - đạo đức - và kính sợ Chúa.

           

            Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình những lưỡi lửa, cho họ nói các thứ tiếng khác nhau, biến đổi họ nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo Đạo (x. Tđcv 2,1-41).

 

            Chúng ta phải trung thành và ngoan ngoãn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, hầu mang lại hoa trái: Bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, tế nhị, tốt bụng, quảng đại, hòa nhã, trung tín, khiêm tốn, tự chủ và thanh khiết.

 

            Xin Chúa Thánh Thần dùng môi miệng của ta mà

-          nói điều Chúa muốn nói;

-          xin Ngài soi sáng trong trí khôn cho ta viết lại;

-          Ngài cũng có thể cầm tay ta giúp ta viết lên điều Ngài muốn;

-          xin Ngài viết ra trên vách cho ta xem mà chép lại, như trường hợp Danien giải thích cho vua Bensatsa: “Thiên Chúa đã cho bàn tay đến viết hàng chữ kia. Đây là những chữ đã được viết ra: MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PƠ-RẾT.

 

Và đây là lời giải thích:

-          MƠ-NÊ có nghĩa là đếm: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài;

-          TƠ-KÊN có nghĩa là cân: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;

-          PƠ-RẾT có nghĩa là phân chia: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mêđi và Batư.” (Dn 5,24-28)

 

         2. TU SĨ LÀ NGƯỜI                                                                    CỦA SIÊU NHIÊN VÀ CẦU NGUYỆN

 

            Tu sĩ phải thực sự là một con người của đạo đức và cầu nguyện, nghĩa là có đời sống thông hiệp cá nhân sâu xa với Chúa Ba Ngôi.

           

Điều ấy được biểu lộ rõ nét trong mối tương quan với tha nhân: tu sĩ suy nghĩ với tinh thần của Chúa, nhìn thấy với con mắt của Chúa, và yêu thương với con tim của Chúa… 

 

            Đời sống cầu nguyện làm cho tu sĩ có khả năng ý thức về chính mình và sự lệ thuộc của đời sống ơn gọi của mình vào Thiên Chúa.

           

Tu sĩ ý thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa trong cuộc sống hằng ngày của mình bằng sự trao hiến trọn vẹn chính mình và lụy phục hoàn toàn nơi Chúa, noi gương Chúa Giêsu Kitô.

 

            Đời sống cầu nguyện giúp tu sĩ tìm thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân, đặc biệt nơi những người đau khổ, bệnh tật, nghèo hèn, ở bên lề, bị áp bức, và thấp cổ bé miệng,… ngõ hầu yêu thương và phục vụ họ, như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm gương.

 

            Dân chúng mong đợi nhìn thấy tu sĩ là người của Chúa, có kinh nghiệm sống với Chúa và dạy cho họ biết làm thế nào để cầu nguyện.

 

         3. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA LINH THÁNH

 

            Tu sĩ phải nên giống Chúa Giêsu, tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian để cứu độ trần gian (Jn 10,36).

            Tu sĩ phải để mình được đào luyện và tự đào luyện trở thành con người của linh thánh, bởi vì tu sĩ là “người của Chúa, thuộc về Chúa và làm cho dân chúng nghĩ tới Chúa, đồng thời giúp dân chúng trở về với Chúa và đạt tới Chúa” (PDV số 47).

 

            Yếu tố linh thánh này rất quan trọng trong các tôn giáo truyền thống Á Châu. Nó có khả năng giúp sứ mệnh khơi dậy niềm tin tại Việt Nam. Tông huấn Ecclesia in Asia nhấn mạnh rằng dân chúng Á Châu cần nhìn thấy nhà tu là “những con người mà tâm trí luôn hướng về những sự cao siêu của Thánh Thần” (EA số 43)

 

            Các sư sãi và ni cô của Phật giáo có một kỹ luật tu đức nhấn mạnh đến tự chế, bỏ mình và thanh thoát khỏi thế trần, hầu chiến đấu chống lại các cám dỗ và say mê tìm kiếm giải thoát. Sự kiện này thách thức chúng ta đào sâu tu đức của mình; nếu không, chứng tá của chúng ta trong xã hội Việt Nam sẽ giảm bớt khả năng thuyết phục.

 

            Chúng ta cần học hỏi ở họ lối sống như cửa mở vào cõi thiêng và phương tiện hiệp thông với linh thánh, đồng thời củng cố đời sống nội tâm tông đồ truyền giáo của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự sống cách vui tươi, hạnh phúc và trung thành nếp sống Phúc Âm và các nhân đức kitô giáo (đặc biệt vâng lời, khó nghèo, thanh khiết), chứng tá và sứ vụ của chúng ta sẽ rất hữu hiệu. “Điều đó rất đúng với bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng cảm thấy được thuyết phục bởi đời sống thánh thiện hơn là bởi những tri thức lý sự” (EA số 42).

 

            Đức Phaolô VI bảo rằng thời đại này tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào các thầy dạy thì bởi vì các thầy dạy đó là những chứng nhân.

 

            Ở trong Giáo Hội, chúng ta có đủ mọi phương tiện thích hợp, tự nhiên cũng như siêu nhiên, để trở nên con người của linh thánh. Việc quan trọng nhất là chúng ta kiên trì thực hành các phương thế ấy trong cuộc sống hằng ngày.

 

          4. TU SĨ LÀ NGƯỜI CÓ NỀN TẢNG                                          KINH THÁNH VỮNG CHẮC

(Hát theo slideshow LẮNG NGHE LỜI CHÚA)

 

            Sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, tu sĩ “được mời gọi biến đổi thế gian, chứ không phải để bị thế gian biến đổi.”

 

            Ma quỉ đã dùng lời Kinh Thánh để cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, Chúa Giêsu cũng đã dùng Lời Chúa mà chiến thắng và xua đuổi ma quỉ. Do đó, tu sĩ phải là một con người đức tin, được đức tin tác động mãnh liệt, với một nền tảng Thánh Kinh vững chắc, vì mọi cuộc khủng hoảng đều do thiếu đức tin mà ra.

 

            Tuy nhiên, tu sĩ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức xã hội, chính trị, kinh tế (nạn gian lận, hưởng thụ…). Vì thế, việc đào tạo và tự đào tạo hôm nay cần ghi nhớ các yếu tố này trong khi nỗ lực xây dựng và phát triển sức mạnh siêu nhiên hầu thăng tiến và hoàn thiện tự nhiên.

 

            Chúng ta cũng phải ý thức về trình độ trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của từng người, để sống và đào luyện thích hợp như thánh Phaolô nói: “Tôi cho anh em ăn sữa chứ không phải thức ăn cứng, vì anh em chưa đủ sức, và cho đến nay anh em vẫn chưa thể” (cf. 1 Cor 3,2).

 

            Chúa Giêsu cũng nhắc các tông đồ tương tự: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật tồn vẹn” (Ga 16,12-13)

 

            Với nền tảng Thánh Kinh vững chắc, tu sĩ sẽ vượt thắng những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lý phục và tâm phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng lòng” để sống đức vâng lời trọn vẹn, vì vâng lời chính là lắng nghe: « Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. »

 

            Quả thế, với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội, vì các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, tu sĩ sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu của Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.

 

         5. TU SĨ LÀ NGƯỜI MỞ RA VỚI HIỆP THÔNG

 

            Hiệp thông và hiệp nhất là lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Cứu Thế cho các môn đệ của Ngài. Mối hiệp thông này bắt rễ trong Chúa Ba Ngôi và từ Chúa Ba Ngôi (ad intra – ad extra).

 

            Tu sĩ phải sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh trong tâm tình vâng phục thảo hiếu, để xây dựng nhiệm thể toàn vẹn của Chúa Kitô (x. Eph 4:12)

 

            Theo tinh thần Tông huấn Ecclesia in Asia số 43, tu sĩ phải sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông và cộng tác để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.

 

            Tu sĩ phải góp phần xây dựng mối hiệp thông của toàn thể nhân loại và thế giới được tạo thành vẫn hằng ngóng chờ ngày giải thoát (x. Rm 8:18-23)

 

            Đối với sứ vụ của Giáo Hội, hiệp thông và truyền giáo luôn song hành và kết nối không thể tách lìa nhau (x. Ecclesia in Asia số 24), bởi vì trước khi nói về Chúa, thì phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa, nói với Chúa và nghe Chúa nói đã: không ai có thể cho cái mình không có !

 

6. TU SĨ LÀ NGƯỜI HĂNG SAY TRUYỀN GIÁO

 

            Chúa Giêsu là nhà truyền giáo được Chúa Cha sai đi đầu tiên. Và Đức Mẹ thực hiện sứ mệnh truyền giáo khi mang Chúa Giêsu đến thăm bà Elizabeth.

 

            Công Đồng Vaticanô II giúp Giáo Hội tái khám phá căn tính truyền giáo của mình. Truyền giáo là bản chất, là cảm thức và lẽ sống, là ý nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Giáo Hội (x. Ad Gentes số 2)

 

            Do đó, tu sĩ là nhà truyền giáo tự bản chất và phải luôn hăng say truyền giáo. Nếu không thế, tu sĩ sẽ không còn là tu sĩ nữa và đánh mất căn tính của mình: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1 Cor 9,16).

 

            Đấng Cứu Thế đã sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ở Á châu ngày nay vẫn còn là một thiểu số tuyệt đối ở cái lục địa rộng lớn nhất địa cầu này, với gần hai phần ba dân số thế giới. Vậy chúng ta phải có trong trí óc và con tim lời kêu gọi khẩn thiết tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với ước vọng nồng cháy làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.

 

            Vatican II mở rộng tầm nhìn của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa (lớn hơn là Giáo Hội mà chúng ta thường quan niệm) và thúc đẩy chúng ta truyền giáo, tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần đã khơi dậy một tinh thần truyền giáo thực sự nơi con tim của nhiều người.

 

            7. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA ĐỐI THOẠI

 

Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã chỉ rõ con đường hiện diện mới của Giáo Hội với ba chiều kích đối thoại:

-          đối thoại với các nền văn hóa,

-          đối thoại với các tôn giáo khác,

-          và đối thoại với người nghèo.

 

            Con đường đối thoại bắt rễ trong Thiên Chúa và bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy trì cuộc đối thoại với nhân loại, đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi…

 

            Là chứng tá của Tin Mừng, tu sĩ phải là một con người của đối thoại, với cả bên ngoài lẫn bên trong Giáo Hội. Đáng buồn là lắm khi cuộc đối thoại bên trong Giáo Hội và cộng đoàn không mấy dễ dàng!

 

            Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều truyền thống văn hóa, tôn giáo lớn và đại đa số người nghèo của thế giới, sứ mệnh đối thoại và truyền giáo lại còn thích hợp và cấp bách hơn. Do đó, tu sĩ cần được huấn luyện và tự đào luyện tốt các kỹ năng đối thoại.

 

            Chúng ta cần, không chỉ đối thoại ba chiều như đường lối hiện hữu và truyền giáo mới của Giáo Hội; nhưng trong bối cảnh đặc biệt của Việt Nam, chúng ta còn cần đến chiều kích đối thoại thứ tư, đối thoại với người Cộng Sản.

 

            Cuộc đối thoại này bao gồm hai khía cạnh:

            - Đối thoại bằng cuộc sống: sống tinh thần cởi mở và thân thiện, chia sẻ niềm vui nỗi buồn, những vấn đề nhân sinh và những mối bận tâm vì công lý, hòa bình và tình thương.

           

            - Đối thọai bằng hành động: hợp tác lành mạnh vì sự phát triển toàn diện con người và lợi ích của cộng đồng, nhất là bằng việc làm chứng tá cho tình yêu Thiên Chúa đối với họ: một tình yêu lớn hơn vượt thắng một tình yêu nhỏ hơn và những lôi cuốn của nó.

 

            Tình yêu ấy biến đổi mọi sự, một sự biến đổi từ bên trong của mỗi cơ cấu (ngày nay không ai chờ đợi một Revolution, cho bằng mong đợi một Evolution).

 

            Nhưng trước hết, chúng ta phải bắt đầu, bắt đầu lại, và luôn tiếp tục cuộc đối thoại đại kết bên trong lòng Giáo Hội (x. Ecclesia in Asia số 30), vì lắm khi cuộc đối thoại với bên trong lòng Giáo Hội còn khó khăn hơn cuộc đối thoại với bên ngoài!

 

        8. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

 

            Ngày nay, không ai phủ nhận vai trò quan trọng và ảnh hưởng vạn năng của truyền thông đại chúng, với những lợi ích và những tác hại của nó, trong đời sống của con người, “đặc biệt cuộc sống của thế hệ trẻ được sinh ra và lớn lên trong một thế giới bị điều kiện bởi truyền thông đại chúng” (Ecclesia in Asia số 48).

 

            Tu sĩ ngày nay phải biết sử dụng các phương tiện tân tiến của Truyền thông xã hội, như những dụng cụ hữu hiệu để sống trong mối hiệp thông con tim và khối óc của toàn thể Giáo Hội, để cập nhật các hiểu biết về thần học và mục vụ, cũng như những giáo huấn về xã hội và luân lý của Giáo Hội, để truyền thông sứ điệp Phúc Âm, và để thăng tiến đời sống thiêng liêng của mình.

            Tu sĩ trong thời đại chúng ta phải học cách sử dụng hợp pháp các phương tiện truyền thông, không như các chuyên gia nghề nghiệp thuộc lãnh vực này, ngõ hầu sử dụng và hướng dẫn kẻ khác, nhất là giới trẻ, làm sao sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông trong cuộc sống hằng ngày.

 

            Chính vì thế mà ĐGH Gioan Phaolô II khuyên rằng giáo dục truyền thông cần phải là một phần không ngừng gia tăng trong công cuộc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, giáo dân chuyên nghiệp, sinh viên… theo những chỉ dẫn mục vụ của Aetatis Novae, với sự lưu tâm thích hợp tới những hoàn cảnh hiện hành ở Á Châu và Việt Nam (x. Ecclesia in Asia số 48).

 

         9. TU SĨ LÀ NGƯỜI NHẠY BÉN VỚI NHỮNG ĐỔI THAY XÃ HỘI 

            Mọi sự đang thay đổi và tiếp tục thay đổi đến chóng mặt. Tu sĩ phải là những người bắt nhịp hài hòa với tình hình hiện nay của một thế giới đang thay đổi; phải luôn sẵn sàng và bén nhạy để đọc được các thời triệu, chấp nhận các mới mẻ của những đổi thay, và can đảm thích nghi chính mình cách khôn ngoan sáng suốt với những bước chân của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng làm cho mọi sự nên mới (x. Kh 21:5).

 

            Sự nhạy cảm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn các nhu cầu của dân chúng, nhận thức được những vấn nạn không lời của họ, đáp ứng các thỉnh nguyện, chia sẻ những hy vọng, những trông đợi, những niềm vui và những gánh nặng của họ (x. Gaudium et Spes số 1).

 

            Vì vậy, Công Đồng Vaticanô II thúc bách không ngừng hoàn thiện các hiểu biết về những sự của Thiên Chúa và những việc của con người, ngõ hầu đi vào đối thoại cách thích đáng với những người đương thời.

            Sự nhạy bén này sẽ gợi ý và hướng dẫn những đổi thay trí não và con tim hướng tới cuộc trở lại liên lĩ với Chúa và với tha nhân, bằng việc “để cho qua đi và để cho Chúa liệu.” Đặt Chúa vào giữa thì mọi sự sẽ đến cùng nhau, với cái nhìn tích cực (thấy khía cạnh tốt của những gì xảy đến), với lòng cảm thông (tha nhân không muốn thế, nhưng Chúa bắt phải làm thế) và biết ơn Chúa và tha nhân (nhờ đó mà ta được biến đổi và lớn lên).

 

            Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta, là những người theo Chúa Giêsu, cũng phải đổi mới sự đáp trả của mình cho tương xứng.

           

            Mọi việc Chúa Kitô làm đều mang dấu ấn của thay đổi, thay đổi từ cũ sang mới, từ điều được trông đợi đến điều bất ngờ: Ngài ngồi ăn với người những tội lỗi, nói chuyện với người Xamari, vượt quá luật ngày Xabát, yêu thương kẻ thù, và Ngài hy sinh mạng sống vì người khác.

 

            Mọi hành động ấy đều là những thay đổi. Qua những thay đổi ấy, Hội Thánh được sinh ra, và hôm nay, cũng qua hững thay đổi như thế mà Hội Thánh còn tồn tại và tiếp tục sống động.

 

            Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, từ lúc được sinh ra cho đến lúc chết đi, trải qua tích cực cũng như tiêu cực: « Mai nam, trưa nắng, chiều nồm ; trời còn luân chuyển huống mòm thế gian »

 

            Trong chiều hướng này, tu sĩ được mời gọi trở thành những con người phục vụ khiêm tốn trong bất cứ cái gì, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ thế nào, mà dân chúng cần đến.

 

 

         10. TU SĨ LÀ NGƯỜI CỦA SỨ VỤ TIÊN TRI

 

            Với sự tham dự vào chức linh mục cộng đồng, tu sĩ được thúc đẩy sống sứ vụ tiên tri.

 

            Để thực hiện sứ vụ tiên tri của mình, Chúa Giêsu đã nói đến Bát Phúc, người con hoang đàng, người Samaritanô tốt bụng… Ngài đã đến với người tội lỗi, gái điếm, ngoại tình, bị bỏ rơi, nghèo hèn, ở bên lề và bị loại trừ, dù Ngài bị chỉ trích là điên khùng, phản động, phạm thượng, đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.

 

            Tu sĩ phải thực thi sứ vụ tiên tri của mình, với tất cả con tim, với tất cả linh hồn, và với tất cả sức mạnh của mình:

            - Loan báo và sống tình yêu nồng cháy của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa, Nước Chúa, và đối với dân chúng.

 

            - Tố cáo thói giả hình, bất công, áp bức,… dù phải trả với giá đắt của thập giá và cái chết: Giám mục Oscar Romero và Mục sư Martin Luther King là những chứng tá hùng hồn hiện đại cho sứ vụ tiên tri này.

 

            Tu sĩ luôn có cơ hội để tuyên bố và trình bày cho thế giới và Dân Chúa sứ điệp yêu thương của Chúa, tại đây và lúc này. Đồng thời tu sĩ cũng phải nhắc nhở dân chúng về mối liên hệ giao ước của họ với Thiên Chúa.

 

            Tuy sứ vụ tiên tri là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, tu sĩ phải đóng vai trò chỉnh sữa ở trong Giáo Hội cũng như ở ngoài Xã Hội, khi có quá nhiều áp bức xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo cực đoan, vì “kiến nghĩa bất vi bất nghĩa”

 

            Hơn nữa phải theo nguyên tắc của Phêrô: “Các ông nghĩ thế nào cho phải lẽ trước mặt Chúa, vâng lời các ông hay là vâng lời Chúa hơn” (Tđcv 4,19) – “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người” (Tđcv 5,29)

 

            Dĩ nhiên chỉ khi nào tu sĩ sống được cái đức dũng này: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” nghĩa là giàu sang không ham, bần hèn không thay đổi lòng, bạo lực không khuất phục được, vì đã có Chúa làm gia nghiệp. 

(Hát GIA NGHIỆP ĐỜI CON)

 

KẾT LUẬN

 

            Một khi đã có bản vẽ, đã có mô hình, đã có mẫu, chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện công trình.

 

            Cầu mong mỗi người chúng ta đều cố gắng hình thành cho mình một mẫu nữ tu thích hợp, và nỗ lực xây dựng đời sống ơn gọi của mình theo cái mẫu đó, trong sự cộng tác tích cực và hữu hiệu giữa được đào tạo và tự đào tạo, theo đường lối của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 

            Với sức con người lắm khi rất khó, nhưng với Chúa thì mọi sự luôn đều là có thể.

 

 

      IV. TƯƠNG QUAN VỚI MÔI TRƯỜNG THIÊN  NHIÊN 

Cuộc sống nhân bản, thiêng liêng và tông đồ của người tu sĩ cũng cần đến mối tương quan với môi trường thiên nhiên. 

Trong thời đạo đức sinh học của chúng ta hôm nay, tu sĩ cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh với toàn thể thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng hoạt động.  

“Thiên Chúa ở trong tất cả” là lối hiểu nền tảng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo: Thiên Chúa không ở ngoài thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài cho đến kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài (2 Cr 5,19; 1 Cr 8,6; Eph 1,3-14; Cl 1,15-29; Ga 1,1-3; Kh 21,5), và cứu chuộc nó (Rm 8,19). Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này của Thiên Chúa (St 1, 28) như một trách nhiệm tôn giáo.

 

Thật vậy, đời sống thiêng liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần Khí, nên khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta.

 

Để chu toàn đời sống và sứ vụ của mình, ta phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển, cây nho, cây vả, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, nắm men, thúng bột, ngọn đèn, v.v.… (nhổ cỏ / nhổ tận gốc tật xấu; chăm cây cảnh / chăm nhân đức v.v.)

 

Chúa Giêsu được Thần Khí hướng dẫn và Ngài thường ra đi từ sáng sớm tinh sương hay muộn màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng, một mình, vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp thông thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và củng cố (x. Mc 6,31).

 

Ta nên tìm thư giãn trong các môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và gia tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để cho trí óc và con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật.

 

Ta có thể dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện ngay trên bờ biển lúc rạng đông lên hay khi hoàng hôn xuống, dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm giữa cánh đồng bao la bát ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè …. lắng nghe tiếng sóng vỗ của đại dương, tiếng reo của suối, tiếng thì thầm của cây cối, tiếng líu lo của chim chóc, tiếng xào xạc của hoa cỏ …. như là nghe thấy Chúa Thánh Thần (Ecclesia in Asia, no. 15) nói trong trí khôn, trong con tim và trong linh hồn vậy.

 

Ta sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện thân tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời cảm nhận được sự cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ta sẽ học thực hành sống khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với tạo thành (xem ý nghĩa và nội dung biến cố “Tráng sinh lên đường”)

 

Chúng ta cũng thực hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi thở: Khi hít vào, ta tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần đang chuyển vào trong mình ta để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm sức mạnh, và trong khi thở ra lại nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đang đẩy những điều xấu ra khỏi cuộc sống mình.

 

Tập thư giản bằng cách: Hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác ta.

 

Cuộc đời không luôn luôn xảy ra như lòng ta mong ước. Có những điều tích cực mong mãi không được. Lại có những điều tiêu cực không chờ đợi vẫn đến, cố tránh mà vẫn phải gặp. Vận dụng hơi thở để giải trừ: Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất cả những gì là tiêu cực từ bất cứ đâu mà đến.

 

Với cách này, ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương’.

 

Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và bảo vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực cho chúng ta. (Ecclesia in Asia, no.41). Chẳng hạn câu chuyện “cây thầu dầu với tiên tri Giôna”:

 

“Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giôna để có bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giôna vui, vui lắm vì cây thầu dầu. Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. Khi mặt trời mọc, Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông Giôna; ông ngất xỉu và xin cho mình được chết, ông nói: "Thà tôi chết còn hơn là sống.” Chúa hỏi ông Giôna: "Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không? " Ông trả lời: "Con có lý để nổi giận đến chết được!" Chúa phán: "Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?” (Giona 4,6-11)

 

(xem Phụ Lục I: SỐNG TƯƠNG QUAN VỚI THIÊN NHIÊN QUA MỘT SỐ THÁNH THI)

 

 

            V. TƯƠNG QUAN VỚI “TỨ CHUNG”

 

1.      Cái chết

2.      Phán xét

3.      Thiên Đàng

4.      Hỏa Ngục

 

Không có cái gì chắc chắn sẽ đến như cái chết; không có gì công bằng và nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm; không có gì cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục; và không có gì dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng.

 

nghĩ vỀ cái cHẾt

“Hãy để cái chết làm thấy dạy cho chúng ta” (Thánh Augustinô)

 

1. CÁI CHẾT: MỘT CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH

 

“Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,6-8)

 

“Nếu ngày nào ta cũng sống như thể đó là ngày tận thế của mình, đến một lúc nào đó ta sẽ thấy mình đúng.” Hãy luôn nhìn vào gương mỗi ngày để tự hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình, liệu tôi có muốn làm những việc hôm nay tôi sắp làm mà lương tâm tôi sẽ ân hận không?” Và khi nhận ra câu trả lời là “không” thì ngày này qua ngày khác, tôi biết mình cần thay đổi điều gì đó.

 

Ghi nhớ rằng "một ngày nào đó gần thôi mình sẽ chết đi" là một bí quyết vô cùng quan trọng giúp ta quyết định những lựa chọn lớn trong đời, bởi vì hầu hết mọi thứ - những mong đợi của người khác, lòng kiêu hãnh, nỗi lo sợ xấu hổ khi thất bại - đều phù phiếm trước cái chết, chẳng có gì quan trọng cả.  

Luôn nhớ rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất để biết tránh sa vào cái bẫy suy nghĩ rằng mình không muốn mất đi cái gì đó. Lòng ta được thanh thoát, chẳng có lý gì để không đi theo tiếng gọi của Chúa: “Không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình.” 

Không ai muốn chết cả. Thế mà cái chết lại là điểm đến của tất cả chúng ta. Không ai có thể trốn khỏi nó. Có lẽ đó cũng là điều hợp lẽ, bởi Cái Chết là sản phẩm tuyệt vời nhất của Cuộc Sống. Nó là yếu tố làm thay đổi cuộc sống. Nó gạt bỏ cái cũ và mở đường cho cái mới. Ngay bây giờ “cái mới” là thế hệ chúng ta, nhưng không xa nữa đâu, chúng ta sẽ trở thành cái cũ và bị loại bỏ. Xin thứ lỗi cho tôi, nói như thế là quá gay, nhưng mà đúng như vậy đấy.  

Thời gian của chúng ta là có hạn, nên đừng phí phạm bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng rơi vào bẫy của sự độc đoán, giáo điều của người khác. Đừng để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm tiếng nói của Chúa ở bên trong chúng ta. Và quan trọng nhất, hãy có dũng cảm để đi theo tiếng gọi của lương tâm chúng ta và lời thúc giục của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta sẽ biết được cái gì thực sự là quan trọng, còn mọi thứ khác chỉ là thứ yếu thôi.  

Con người là con vật duy nhất biết mình sẽ chết. Nhưng cái biết này vẫn còn là lý thuyết xa lạ, nhất là đối với người trẻ, đang khoẻ mạnh, đang yêu, đang thành công, tương lai đang hứa hẹn và cuộc đời đang mĩm cười với. Chỉ khi nào vấp phải một chứng bệnh nan trị, khi y học khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình và buộc lòng phải tàn nhẫn tuyên bố bản án tử, thì khi đó sự biết mình sắp chết mới trở nên gần gũi thiết thân, hay nhức nhối đến từng làn da thớ thịt. 

Trước cái biết sắp chết này, có người tuyệt vọng, buông xuôi hoặc bất mãn, căm hận, nổi loạn “trả thù đời”, để rồi chết đi khổ sở không bình an. Nhưng có người lại coi đó là một may mắn: có thời gian chuẩn bị hành trình tốt đẹp đi về vĩnh cửu. 

Vì thế, các bậc thánh hiền dạy hãy năng nghĩ đến cái chết, vì nó giúp mình sống một cuộc đời tốt lành thánh thiện hơn. Thật vậy, có ai biết chốc lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công, hận thù, còn ghen ghét tranh chấp hơn thua nữa, mà không trái lại, an hòa với mọi người, tôn trọng lương tâm của kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa? 

Cái may mắn cho mình, cho người và cho đời là ở chỗ đó: có gì nữa để mất đâu mà sợ mất, có gì cần được nữa ở đời này đâu mà lo cho được?! Cảm nhận được điều đó đem lại cho chúng ta sự thanh thản và sức mạnh cho tâm hồn; đồng thời nỗ lực sống một cuộc sống đẹp như lời khuyên: “Ngày con sinh ra, mọi người cười (vui mừng vì con ra đời) mà con khóc. Con hãy sống thế nào để ngày con chết đi, con cười (mãn nguyện) mà mọi người khóc (vì thương tiếc con)”

 

(slideshow BÀI HỌC QUÉT LÁ)

 

 

2. Cái chẾt: hẠnh phúc trỞ vỀ

(trích CHÚA VẪN THƯƠNG tr.114-117)

 

Bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy

Những kẻ khác giảng về sự khủng khiếp của cái chết. Còn bạn hãy giảng về niềm vui của cái chết. “Ta sẽ đến như kẻ trộm”, Chúa đã nói như vậy không phải để làm cho bạn sợ, nhưng vì thương bạn, muốn bạn luôn luôn sẵn sàng và sống từng phút giây dường như lúc bạn phải vĩnh viễn ra đi: “Con ơi, hôm nay có thể là ngày cuối cùng rồi đó!” 

Bạn hãy sống trên trần gian như người đang chờ chết, như người từ cõi bên kia trở lại. Chúa luôn có mặt bên bạn, ngay cả lúc mọi sự dường như đổ vỡ, và nhất là trong giờ chết của bạn. Bạn sẽ thấy đôi bàn tay Chúa choàng xuống trên bạn và ôm chặt bạn vào lòng. Bạn sẽ khám phá ra bạn đã làm việc, đã đau khổ cho ai.  

Bạn sẽ cám ơn Chúa đã đối xử với bạn như thế, đã gìn giữ bạn khỏi bao nhiêu nguy hiểm phần hồn phần xác, đã dẫn dắt bạn trên những con đường hết sức bất ngờ, đôi khi như lạc lối nữa, nhưng đã làm cho đời sống bạn được đồng nhất trong việc phục vụ anh chị em của bạn. Lời tạ ơn của bạn sẽ không ngừng vang lên khi bạn khám phá thấy lòng thương xót của Chúa trên bạn cũng như trên thế giới. 

Bạn hãy năng dâng cho Chúa cái chết của con người để họ được sống bằng sự sống của Chúa. Bạn hãy nghĩ đến cuộc gặp gỡ của chúng ta trong ánh sáng. Chính vì vậy mà bạn đã được tạo dựng, đã làm việc, đã đau khổ. Khi đến phiên bạn, Chúa sẽ hái lấy bạn. Bạn hãy năng nghĩ đến đó và dâng trước cho Chúa giờ chết của bạn hiệp nhất với cái chết của Chúa Giêsu. 

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến cái gì sẽ đến sau cái chết. Phải, bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy và hãy tận dụng chuỗi ngày cuối đời mà chuẩn bị chết với tình yêu. Bạn cũng hãy nghĩ đến cái chết của anh chị em đồng loại, ba bốn trăm ngàn người mỗi ngày vĩnh viễn ra đi. Bạn hãy cầu nguyện cho những người không hề nghĩ tới lúc phải ra đi. Đó là một cách hữu hiệu nhất làm cho Hy Tế Can-vê của Chúa Giêsu thêm giá trị và thánh lễ bạn dâng mỗi ngày thêm phong phú. 

Nhiều người chẳng hề nghĩ Chúa sẽ đến gọi họ chiều nay! Bao nhiêu tai nạn, bao nhiêu thiên tai bất ngờ, còn bạn, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa chiều nay. Bạn hãy làm mọi việc trong khi nghĩ đến lúc đó, nó sẽ giúp bạn. Chính vì yêu bạn mà Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết. Bạn chỉ có thể cho Chúa bằng chứng lớn lao khi chấp nhận cái chết kết hiệp với Chúa Giêsu. 

Bạn hãy tiếp tục năng liên kết cái chết của bạn với cái chết của Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha qua tay Mẹ Maria, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Nhân danh cái chết của bạn liên kết với cái chết của Chúa Giêsu, bạn có thể xin những ơn trợ giúp cấp thời để sống tốt hơn trong hiện tại. Bạn hãy tận dụng điều đó. 

Chính bằng cái chết của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã làm cho thế gian được sống. Và bằng sự hiến dâng cái chết của Chúa Giêsu mà Chúa tiếp tục ban sự sống cho loài người. Bạn hãy tín nhiệm Chúa. Chúa luôn có mặt mọi lúc trong cuộc sống trần gian của bạn. Chúa sẽ có mặt lúc bạn đi vào đời sống vĩnh cửu. Và Mẹ Chúa, người đã tỏ ra quá tốt với bạn như thế, Mẹ cũng sẽ có mặt với bạn, với tất cả sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ. 

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến anh chị em của bạn trong luyện ngục, họ không thể tự mình làm chi cho mình thêm công nghiệp. Họ cần đến công nghiệp của anh chị em còn ở trần gian giúp cho họ. Chớ gì mọi người, những ngươi già cả, ốm đau, bệnh tật biết dùng những năm tháng cuối đời để thêm ơn và công nghiệp cho các linh hồn và cho chính mình. Cái chết của họ sẽ dịu dàng hơn, vì Chúa đã hứa ban một ơn trợ giúp đặc biệt vào lúc trọng đại đó cho những ai sống cho kẻ khác trước mình. Chính đó là tình yêu. Với những hy sinh nhỏ bé, hãy dọn mình chết bằng cách yêu mến. 

Chúa biết giờ chết của bạn và cách nó sẽ xảy ra. Chính Chúa đã chọn cho bạn với tất cả tình yêu. Chúa sẽ có mặt vào giờ ra đi trọng đại cuối cùng của bạn, với mọi ơn cần thiết. Chính mức độ tình yêu của bạn sẽ cho bạn dự phần cách sung mãn. Người ta chết như người ta đã sống. Nếu bạn sống trong yêu thương, cái chết sẽ đến với bạn trong tình yêu. Chính Chúa sẽ đợi bạn ở cuối đường đời, sau khi đã là bạn đồng hành của bạn suốt cả cuộc sống bạn. Còn bạn, hãy dùng cho tốt quãng thời gian còn lại. 

Bạn hãy rao giảng tinh thần lạc quan cho những người ngã lòng. Chúa ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế. Thay vì ngã lòng, họ hãy kêu đến Chúa: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng bạn chết mất. Họ hãy gia tăng Đức Tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa. Cách trực diện với sự chết đối với bạn phải là vấn đề Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Cái chết là một cuộc khởi hành để đến đích. Trong nhà Cha, nơi đó bạn sẽ gặp lại tất cả.

Người ta chết như người ta đã sống.

Bạn hãy sống trong tình yêu để được chết trong tình yêu

Hôm nay, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa.

Và chớ gì bạn sẽ ra đi như thế!

 

(slideshow CON XIN PHÓ THÁC)

 

 

BÀI CHIA SẺ

 

            1. Mỗi người tự chọn đề tài, được gợi hứng từ những gì đã chia sẻ trong lớp. Viết tối thiểu 3 trang, tối đa 6 trang khổ giấy A4.

 

            2. Viết những gì đang làm chị em bận tâm nhất:

            - về những thuận lợi cũng như khó khăn, những điểm mạnh cũng như những điểm yếu, những kỳ vọng và trông đợi ở bản thân, ở Bề trên, ở chị em trong cộng đoàn,                        

            - cũng như những thách đố, những trăn trở về tình cảm và công việc liên quan đến sứ vụ tông đồ của chị em để tiến lên trong đời tu. 

            3. Viết càng đúng với thực tế bao nhiêu càng có giá trị bấy nhiêu, vì tu đức không phải là một kiến thức, mà là một cuộc sống thăng trầm không ngừng được điều chỉnh, và trong cuộc sống đó mỗi người “chia sẻ” để tìm kiếm bình an và hạnh phúc cho mình, bây giờ và sau này.  

            Không những thế, mỗi người đều cố gắng đem lại bình an và hạnh phúc cho người khác, giống như Chúa Giêsu, Ngài đến không để giải thích đau khổ, để cất đau khổ, nhưng để chịu đau khổ, để chia sẻ đau khổ với con người và mời gọi con người chia sẻ đau khổ của nhau, hầu đạt tới hạnh phúc.

Tác giả Lm. Trần Minh Huy, pss

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!