.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời mở đường - « Tôi nhìn tôi trên vách »

Chương 1 - Nguồn Gốc Rồng Tiên

Chương 2 - Khi Mặt Hồ nổi sóng, Thần Kim Qui xuất hiện

Chương 3 - Thánh Gióng và con đường « đi lên » của con Rồng cháu Tiên

Chương 4 - Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con Đường, Một Nước Non

Chương 5 - "Tấm và Cám" trong nội tâm của Chúng ta

Chương 6 - « Thằng Bờm » trong cõi lòng của Người Việt Nam

Chương 7 - Đối Thoại : Bắc lại Nhịp Cầu Hiểu Biết và Tình Thương

Chương 8 - Con Đường Luyện Vàng

Chương 9 - Xây dựng Quan Hệ và Quan Hệ Xây Dựng

Chương 10 - Hạnh Phúc và Khổ Đau Trong lòng Cuộc đời

Chương 11 - Khi nào một cơ cấu tổ chức trở nên bệnh hoạn ?

Chương 12 - Chuyển hóa thực trạng ngày hôm nay ?

Thay lời Kết Luận - Chiếc Bè để qua sông

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Huyền Sử Việt Nam
Tác giả: Gs. Nguyễn Văn Thành
CHƯƠNG 7 - ĐỐI THOẠI : BẮC LẠI NHỊP CẦU HIỂU BIẾT VÀ TÌNH THƯƠNG

Cách đây trên dưới chừng mười năm, nhằm chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa của Nghìn Năm Thứ Ba, con người khắp đó đây, trên nhiều diễn đàn quốc tế, đã tiếp nối nhau thắp sáng lên những giấc mơ trọng đại và kỳ hùng, có liên hệ đến ngày mai của nhân loại.

Trong giấc mơ thứ nhất, « ước chi rồi đây, súng ống bom đạn sẽ im hơi lặng tiếng một cách vĩnh viễn, trên mặt địa cầu ». Và con người sẽ ngồi lại, tôn trọng, lắng nghe, trao đổi với nhau về tất cả những tình huống khả dĩ gây ra chia rẽ, hận thù, trong cuộc sống hằng ngày.

Trong giấc mơ thứ hai, « ước chi không còn có những hố sâu thăm thẳm, đang phân chia người giàu và kẻ nghèo thành hai đường song song vạn kiếp, trong xã hội loài người ». Lẽ tất nhiên, nếu mai ngày giấc mơ nầy được thực hiện, người giàu vẫn tiếp tục làm giàu. Và trên từng xứ sở khắp năm châu, người nghèo vẫn còn có mặt, giống như ngày hôm nay. Tuy nhiên, thể theo giấc mơ nầy, người giàu sẽ biết sử dụng phần dư thừa của mình, để phục vụ, nâng đỡ, đùm bọc những anh chị em không có cơ may và khả năng kinh tài giống như mình. Trái lại, những anh chị em thuộc thành phần nghèo sẽ ý thức một cách sáng suốt rằng mình là những giá trị đích thực, có khả năng đóng góp phần tích cực và hữu hiệu, để xây dựng Hòa Bình và thăng tiến xã hội, cùng với bao nhiêu người khác. Hẳn thực, trong một cơ thể sinh động và lành mạnh, ai đang làm bộ óc, hãy tiếp tục làm bộ óc để phục vụ lợi ích chung. Ai đang làm bàn chân, họ cũng có quyền hãnh diện rằng : Không có bàn chân, con người không thể làm người, một cách trọn vẹn và đầy đủ. Chân và đầu bổ túc và kiện toàn cho nhau, thay vì loại trừ hoặc chống đối nhau.

Tuy nhiên cho đến bao giờ, những giấc mơ thiết thực và chính đáng ấy mới trở thành hiện thực, trong lòng nhân loại, và nhất là trong tâm tưởng của mỗi người ?

Trước Công nguyên, ước chừng trên dưới một ngàn năm, dân tộc Do Thái cũng đã ghi lại một giấc mơ diệu kỳ, trong sử sách của mình : « Cho sói và chiên con ở chung một chuồng, ngày ngày cùng chơi đùa với nhau như hai anh chị em một nhà ». Thế mà, mãi cho đến ngày hôm nay, dân tộc ấy vẫn chưa hưởng được một ngày thực sự hòa bình, trên quê hương của mình, thậm chí trong khu vực thuộc thủ đô thần thánh và linh thiêng mang tên là Giêrusalem. Chính ngày hôm nay, chó sói đang còn sát hại chiên con, một cách tàn ác và hung bạo. Và chiên con cũng đang tìm mọi cách, để tận diệt chó sói, với những phương tiện khủng bố sẵn có trong tầm tay vấy máu của mình. Con đường hận thù và chiến tranh đang còn chạy xuyên qua quả tim của từng người, phía bên nầy cũng như phía bên kia. Và nhiều thành phần còn lại chỉ biết đứng nhìn từ ngoài với đôi mắt bàng quan. Tệ hại hơn nữa, họ còn « thêm dầu vào lửa », bằng cách vỗ tay hoan hô, cổ võ bên này, hay là tố cáo, đá đảo bên kia.

Không cần nói về ai khác xa xôi, chúng ta hãy can đảm nhìn vào chính mình. Trong lòng Quê Hương Việt Nam, từ những ngày đầu tiên thuộc thời kỳ dựng Nước, tổ tiên, cha ông của chúng ta cũng đã cưu mang, nuôi dưỡng những giấc mơ lạ lùng và kỳ diệu, giống như những dân tộc khác, trên mặt địa cầu. Qua ca dao và tục ngữ, quí vị đã trối trăng lại những giấc mơ làm người, cho con cái và cháu chắt, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác :    

 

« Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

  Người trong một Nước, hãy thương nhau cùng ».

« Bầu ơi, thương lấy bí cùng,

  Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn ».

 

Ngoài ra, nhiều câu chuyện Huyền sử, được lưu truyền trong dân gian, nhắc nhở rằng : chúng ta tất cả đều là anh chị em đồng bào, được sinh ra từ một cha và một mẹ. Chúng ta cùng chia sẻ với nhau một bào thai, trong cung dạ của Bà Âu Cơ. Cha chúng ta là Rồng. Quê Hương và nguồn gốc của Người là Đại Dương bao la, hùng vĩ. Mẹ chúng ta là Tiên. Quê Hương và dòng máu của Mẹ là Bầu Trời trọng đại và cao cả.

Tuy nhiên, từ thời nguyên thủy cho đến ngày hôm nay, chúng ta chưa bao giờ thấm nhuần và hội nhập những bài học làm người ấy trong xương da và máu thịt của mình. Mặc dù đã phải trải qua bao nhiêu chu kỳ khổ đau trầm trọng, bao nhiêu tình huống « nát thịt xương rơi »... chúng ta vẫn cứ khư khư làm « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, chúng ta luôn luôn sắp hàng thành hai phe « Sơn Tinh và Thủy Tinh », để gieo rắc hận thù, chia rẽ và chiến tranh, trên từng mỗi tấc đất của Quê Hương.

Thay vì nhìn lui quá khứ để trách móc, ta thán, tố cáo người nầy, đổ lỗi cho người nọ, như chúng ta đã làm, thường làm và còn làm... nghĩa là suốt đời dẫm chân tại chỗ, trong vòng khổ đau chồng chất ê chề và dai dẳng... phải chăng ngày hôm nay đang là thời điểm thuận lợi, để chúng ta cùng nhau kết hợp lại, cố quyết thực hiện hai điều chủ yếu :

-         Thứ nhất là can đảm khám phá nguyên nhân nào đã đưa đến tình trạng oái oăm, khốc liệt và khổ đau ấy.

-         Thứ hai là sáng tạo con đường hướng tới ngày mai. Đó là con đường Hiểu biết và Tình thương, Đồng cảm và Đối thoại.

Tuy nhiên, Đối thoại thực sự là gì ?

Vì tương lai của con cháu, cũng như vì tiền đồ của Quê Hương, ngay từ bây giờ, chúng ta cần thực thi những động tác cụ thể và tích cực nào, để những giấc mơ trọng đại của Tổâ tiên có thể biến thành hiện thực sáng ngời, trong tầm tay của mỗi người trong chúng ta ?

 

Phần thứ nhất  

Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh những khổ đau trong lòng cuộc sống 

Mỗi lần chúng ta đưa ra một ý kiến, bênh vực một lập trường, trình bày một quan điểm về chính trị hay là tôn giáo... trên mặt khoa học và nguyên tắc hành động, chúng ta cần phải đi qua ba giai đọan thiết yếu, trong lãnh vực tư duy và lý luận :

-         Trong giai đoạn một, chúng ta quan sát và ghi nhận những dữ kiện cụ thể và khách quan.

Và khi chúng ta nêu lên một số tin tức hoặc sự kiện, xảy ra bên ngoài, chung quanh chúng ta như vậy, chúng ta cố quyết phản ảnh và trình bày những gì chính chúng ta thấy và nghe một cách trực tiếp và trung thực. Chúng ta không thêm, không bớt, không bóp méo hoặc xuyên tạc. Không lấy râu ông nọ, đặt cằm bà kia. Không vơ đũa cả nắm. Không có ít, xít ra cho nhiều. Không cường điệu, một cách ba hoa, vớ vẩn.

-         Trong giai đoạn hai, chúng ta thuyên giải.

Sau khi đã thu lượm một số dữ kiện hoặc tin tức, chúng ta đưa ra ý kiến hay là quan điểm chủ quan của chúng ta. Công việc nầy còn mang tên là giả định, hay là đề xuất một giả thuyết. Theo lối nói thông thường được sử dụng, ngày hôm nay, trong môi trường văn hóa và khoa học, giai đoạn thứ hai nầy được gọi là THUYÊN GIẢI. Xuyên qua cách làm nầy, chúng ta khoác vào cho các sự việc đã xảy ra, một ý nghĩa, một hướng đi tới. Ý nghĩa nầy còn mang đầy tính cách chủ quan của người phát biểu, bao lâu chưa được kiểm chứng với nhiều sự kiện khác hay là do nhiều người khác góp ý và chia sẻ, bổ túc và kiện toàn, sửa sai và điều chỉnh.

-         Trong giai đoạn thứ ba, chúng ta chắt lọc một kết luận, để gây ảnh hưởng hoặc tác động trên môi trường.

Sau khi đã kiểm nghiệm và chứng minh giả thuyết, chúng ta rút ra một kết luận, khẳng định một qui luật có tính thường hằng và bất biến, được mọi người chấp nhận, nếu họ đi lại cùng một tiến trình từ đầu chí cuối, giống như chúng ta. Chính kết luận nầy sẽ có khả năng điều hướng những chọn lựa và quyết định của chúng ta, trong lãnh vực hoạt động, hay là trong cách thức rút tỉa những bài học thực tế cho cuộc sống.

Tuy nhiên, ngoài lãnh vực thuộc về những khoa học chính xác, như toán, lý và hóa... chúng ta không bao giờ đạt được mức độ « sự thật chắc chắn một trăm phần trăm », trong những kết luận thông thường và hằng ngày của chúng ta. Một cách đặc biệt, trong địa hạt tiếp xúc và quan hệ giữa người với người, khi có một trăm người phát biểu, chúng ta sẽ dễ dàng ghi nhận « một trăm ý kiến khác nhau ». Chẳng hạn, sau khi chứng kiến tận mắt một tai nạn xe hơi trên đường phố, ba chứng nhân sẽ đề xuất ba lời chứng khác nhau, có khi hoàn toàn mâu thuẫn với nhau.

***

Mỗi lần đưa ra một ý kiến, về người anh chị em, trong nhiều lãnh vực khác nhau, như chính trị, tôn giáo hay là phương thức làm ăn... phải chăng chúng ta đã lưu tâm và cẩn trọng đến cả ba giai đoạn trên đây : khảo sát những sự kiện, kiểm chứng những giả thuyết và cân nhắc kỹ càng những kết luận ?

Phải chăng chúng ta đã « đánh lưỡi bảy lần », như Tổ tiên, Cha ông chúng ta đã căn dặn, mỗi khi phát biểu một nhận định hay là phê phán về giá trị, bản sắc hay là tác phong của một người khác, thuộc môi trường gia đình và xã hội ?

Từng lời nói của chúng ta phải chăng là một viên gạch góp công xây dựng ngôi nhà Hòa Bình của Đất Nước và thế giới ? Hay đó chỉ là súng ống, bom đạn... nhằm tiêu trừ và hủy diệt người anh chị em đồng bào, đồng hương và đồng loại ?

Đối thoại, trong lăng kính vừa được trình bày, là trao đổi, chia sẻ qua lại hai chiều, trong ý hướng tôn trọng và thăng tiến lẫn nhau, cũng như làm giàu cho nhau, trên bình diện thành nhân. Hẳn thực, trong điều kiện và thân phận làm người, không bao giờ có hai người hoàn toàn y hệt nhau, nhất là khi họ thâu lượm tin tức, trình bày lập trường tư tưởng, ngoại hiện những phản ứng xúc động tình cảm, cũng như khi kết dệt những quan hệ giữa người với người. Chúng ta khác biệt nhau, như Trời và Biển, như Rồng và Tiên, như Sơn và Thủy. Nhưng nhờ khác nhau như vậy, chúng ta mới có thể bổ túc, kiện toàn cho nhau, cùng nhau thực hiện những công trình cao cả và trọng đại, trong lòng Đất Nước và Quê Hương.

Một cách cụ thể, Đối thoại bao gồm ba động tác tiếp nối và tác động trên nhau :

-         Động tác thứ nhất, tôi diễn tả và khẳng định lối nhìn, quan điểm và nhu cầu chính đáng của tôi.

-         Động tác thứ hai, sau khi khẳng định mình, tôi tạo điều kiện thuận lợi, cho phép người khác có một thời gian và không gian, để nói về thực tế và con người độc đáo của họ. Cũng như họ đã nghe tôi nói, bây giờ đến lượt họ phát biểu, tôi lắng nghe một cách cẩn trọng, tìm hiểu thực tế và nhu cầu cơ bản của họ là gì. Theo cách nói ngày nay, tôi nhận làm của mình « khung qui chiếu của họ ». Trong đó, có cách thức nhìn đời và bao nhiêu phản ứng xúc động thường nhật.

-   Động tác thứ ba, cả hai bên, người và tôi cùng nhau tìm ra mẫu số chung, mảnh đất đứng chung, lối nhìn đồng qui, và đồng thuận .

Nói một cách vắn gọn, khi đối thoại, tôi cố quyết làm người và thành người. Đồng thời, tôi tôn trọng tư cách làm người của kẻ khác. Hẳn thực, đằng sau những nét khác biệt, nếu chúng ta học NHÌN, giúp nhau NHÌN, cùng nhau chấp nhận và nhìn nhận giá trị của nhau, thì thế nào, chúng ta cũng sẽ tìm ra rất nhiều điểm giống nhau. Ít nhất, cả hai chúng ta cũng đều kinh qua những cảm nghiệm đớn đau ê chề giống như nhau, trong cuộc sống. Cả hai chúng ta đang có những ưu tư và hy vọng giống như nhau. Cả hai chúng ta cũng đang đấu tranh quyết liệt, để vươn lên, hướng thượng, ngõ hầu trối trăng lại cho con cháu sau này một gia tài, một quê hương an bình và thịnh vượng. Cả hai  chúng ta đang đổ ra bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, cộng vào với xương máu mà Tổ tiên và Cha ông đã chất lên thành núi, đã đổ ra thành sông, trong hơn bốn nghìn năm lịch sử.

Theo lối nhìn của tác giả Stephen R. Covey, khi hai người có khả năng trao đổi, đối thoại, họ đang « sinh thành và sáng tạo cho nhau ».[10] Họ không phải chỉ là hai nguời đơn độc, đứng sát kề nhau. Trái lại, như vết dầu loang, họ sẽ gieo hạt mầm, để rồi hằng nghìn, hằng triệu người anh chị em đồng bào cũng sẽ đi vào quỹ đạo tương thân, tương ái giống như họ. Trong lòng Đất Nước, nếu « trăm người như một, một người như trăm », chúng ta sẽ biến mình thành Bồ Tát Quan Thế Âm, có trăm con mắt để nhìn, có trăm trăm cánh tay để làm, có trăm đôi chân để đi những bước dài vạn dặm. Và nhất là có trăm quả tim để yêu thương đồng bào và Quê Hương.

Và lúc bấy giờ, đúng như câu nói của tác giả người Mỹ là G.G. Jampolsky :[11]

« Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên, yêu thương là câu trả lời.

« Bất kỳ một vấn đề gì xuất hiện, yêu thương là câu trả lời.

« Bất kỳ một cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành, yêu thương là câu trả lời.

« Bất kỳ một nỗi khổ nào đang tiến lại, yêu thương là câu trả lời.

« Bất kỳ một xúc động sợ hãi nào đang trào dâng, yêu thương là câu trả lời.

« Yêu thương luôn luôn là câu trả lời, trong mọi tình huống, vì chỉ có yêu thương là tất cả ».

Không dấn bước trên con đường Hiểu biết và Yêu thương như vậy, chúng ta sẽ sa vào cạm bẫy hận thù, chiến tranh. « Mầy phải chết, để cho tao sống. Mày và tao không thể nào đội trời chung »... phải chăng đó là những câu nói diễn tả tâm tình và ý hướng của chúng ta, mỗi lần tiếp xúc và giao thiệp với những người sống hai bên cạnh ?

Như trên đây, tôi đã nhấn mạnh lui tới, chúng ta khác nhau, trong rất nhiều địa hạt. Khác nhau trong lời ăn tiếng nói. Khác nhau, trong cách nhìn và cách nghe. Khác nhau trong nhận thức và tư duy. Khác nhau trong tâm tình, nhu cầu, ý thích và sở nguyện. Thay vì tìm cách bổ túc và kiện toàn cho nhau, chúng ta dựa vào những nét khác biệt tất yếu ấy, để loại trừ, tố cáo, phê phán, mạt sát lẫn nhau. Tư tưởng NHỊ NGUYÊN và LỐI NHÌN ĐỘC LỘ đang trấn áp cõi lòng của chúng ta. Tư tưởng nhị nguyên xuất đầu, lộ diện, mỗi lần chúng ta tranh giành phần hơn, phần thắng, phần tốt, phần có lý về cho mình. « Tao Hơn, Mày Thua, Tao Tốt, Mày Xấu, Tao có Lý, Mày phi lý... », phải chăng đó là những câu nói luôn luôn có mặt, trên đầu môi chót lưỡi của tất cả mọi người trong chúng ta ?

Còn tệ hại hơn nữa, lối nhìn độc lộ, một chiều đang trấn áp tâm hồn của chúng ta. Đó là tên độc tài đầu đàn, đang điều khiển, lèo lái mọi tên độc tài khác đang có mặt trong lòng nhân loại. Tên độc tài ấy đang đặt sào huyệt trong tư duy của chúng ta. Cho nên, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, chúng ta có xu thế qui chụp, gắn nhãn hiệu, tố cáo và đổ lỗi cho người khác. Đó là con đường dẫn đến tình trạng bạo động, hận thù và chiến tranh, khắp đó đây, trên mặt địa cầu, ngày hôm nay. Đó cũng là nguyên nhân đã đẻ ra những con sông Gianh và Bến Hải, trong lòng Đất Nước và Quê Hương Việt Nam.

Nói tóm lại, chỗ nào có bạo động trong tư duy, lời nói và hành vi, chỗ ấy không có Hòa Bình giữa người với người, và không có An Lạc trong nội tâm. Chỗ nào còn có tình trạng tố cáo, đổ lỗi, chia rẽ, hận thù... chỗ ấy không có Đối Thoại, Đồng Cảm và Đồng Hành. Chỗ nào con người còn tranh giành hơn thua, còn kỳ thị xấu tốt, chỗ ấy không có Con Đường Hiểu Biết và Tình Thương. Chỗ ấy chỉ có KHỔ ĐAU tràn lan, lây lất, lai láng, trong mọi hang cùng, xó xỉnh của cuộc đời.

Vậy chúng ta chọn lựa con đường nào cho chúng ta và con cháu của chúng ta ? Khổ đau trong hận thù ? Hay là An Bình Nội Tâm, trên Con Đường Hiểu Biết và Tình Thương, Hòa Bình và Hạnh Phúc bắt đầu từ bản thân và gia đình nhỏ bé của chúng ta ? Chúng ta mỗi người hãy bắt đầu tề gia, trước khi bàn đến những chuyện to tát như trị quốc, bình thiên hạ.

 

***

Phần thứ hai

 

Vai trò BẮC CẦU của mỗi người trên con đường xây dựng và phát huy Đối Thoại

 

Đầu năm 2003, tôi đã phát hành một cuốn sách dài hơn 250 trang, mang tựa đề « Đồng Cảm để Đồng Hành ».[12] Trong tác phẩm nầy, tôi đã trình bày những động tác cụ thể cần thực hiện, mỗi lần chúng ta chọn lựa thái độ « Đồng Cảm » với tha nhân, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hẳn thực, không có khả năng Đồng Cảm giữa người với người, Đối Thọai chỉ là chuyện ba hoa chích chòe, lý thuyết, viễn mơ, hay là quảng cáo, tuyên tuyền láo khoét mà thôi.

Khả năng Đồng Cảm xuất hiện rất sớm, trên tiến trình giáo dục, làm người và thành nhân. Chung quanh hai tuổi rưỡi, một đứa bé khi nhìn vào đôi mắt của Mẹ, đã có thể cảm nghiệm : Mẹ đang sung suớng hay là khổ đau trong tâm hồn ? Mẹ lo sợ, tức giận, cấm đoán ? Hay là Mẹ bằng lòng cho mình đi ra dạo chơi chung quanh vườn nhà.

Không có khả năng Đồng Cảm như vậy, làm sao chúng ta có thể nhận ra rằng : Khi một người lên tiếng tố cáo, chưởi bới, mạt sát chúng ta, cũng như khi họ trầm luân, chìm đắm trong hận thù, bạo động, sát hại chúng ta, nhốt chúng ta vào tù và tìm mọi cách hành hạ chúng ta... chính người ấy đang giam hãm mình trong khổ đau tràn trề lai láng. Có lẽ, suốt cả cuộc đời, từ ngày sinh ra, họ chưa bao giờ được ai thương. Chưa được ai dạy dỗ cho họ biết đồng cảm với kẻ khác. Phải chăng tôi là người đầu tiên, với thái độ đồng cảm, cho phép người ấy cảm nghiệm được thế nào là thương yêu và được người khác thương yêu, một cách thực sự và trọn vẹn, theo như ý nghĩa « cho ra và nhận lại », một cách vô điều kiện ?

Thêm vào đó, khi một người sống trong khổ đau trầm trọng, từ ngày này qua ngày khác, họ trở nên lạnh lùng, chai đá, mù quáng. Họ có mắt, nhưng họ không còn thấy. Họ có tai, nhưng họ không còn nghe. Họ có một con tim như chúng ta. Nhưng con tim ấy đã bị đầu độc từ bao nhiêu ngày tháng.

Tôi đã làm việc trong ba mươi năm, với những bà mẹ có đứa con chậm trí, chậm phát triển. Ít nhất, trong những ngày tháng đầu tiên, khi vừa mới gặp phải một biến cố bất ngờ như vậy, họ đớn đau, tê tái, kiệt quệ, cơ hồ mọi tai họa trong trời đất nầy đều đổ xuống trên đầu óc và cuộc đời của họ. Cho nên, giữa tình huống khổ đau, kinh hoàng và tê liệt như vậy, họ không còn biết nhìn con, nuôi con, bi bô, thỏ thẻ chuyện trò với con. Với đứa con mang khuyết tật, họ đánh mất mọi khả năng đã học tập. Họ không còn làm được những gì họ đã làm với những đứa con khác.

Cũng giống hệt như vậy, khi hai người đang sống những xung đột nghiêm trọng, cả hai đều trầm luân trong khổ đau. Họ chưới bới, mạt sát lẫn nhau, với những lời lẽ bỉ ổi thậm tệ. Cả hai giành nhau nói cùng một lúc. Cho nên, không ai lắng nghe ai, để nhận biết người bên kia có những nhu cầu và sở nguyện như thế nào. Và cứ như vậy, vấn đề kéo dài, từ ngày này qua ngày khác và không bao giờ được giải quyết, một cách thỏa đáng.

Khi đối mặt với những tình huống khổ đau của người khác, như tôi vừa phác họa trên đây, chúng ta có trách nhiệm làm những gì có khả năng làm, trong điều kiện hiện tại, để bầu khí quan hệ giữa người và người đã ô nhiễm, bị đầu độc, không còn ô nhiễm thêm lên mỗi ngày.

Thứ nhất, điều chúng ta cần làm là không thinh lặng đồng lõa, đứng chứng kiến một cách thụ động.

Thứ hai, chúng ta không « đổ thêm dầu vào lửa », bằng cách ủng hộ, vuốt đuôi, về phe người nầy và tố cáo, đá đảo phía bên kia.

Trong môi trường văn hóa của Quê Hương, Tổ Tiên và Cha Ông chúng ta đã đề nghị những cách làm quan trọng như sau :

-         Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát TRÌ ĐỊA : ngày ngày đi nối lại những con đường hư đã làm gián đoạn giao thông và liên lạc. Chúng ta hãy dốc toàn lực, cố quyết nối lại khắp đó đây những nhịp cầu Hiểu Biết và Đồng Cảm. Chúng ta BẮC CẦU, cho bờ bên nầy gặp lại bờ bên kia, nói chuyện trao đổi với nhau, trong an hòa và tôn trọng lẫn nhau, chia sẻ cho nhau niềm đau và nỗi khổ của mình.

-         Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát THƯỜNG BẤT KINH : trên mọi nẻo đường của Quê Hương, gieo rắc niềm tin, tinh thần tự lực tự cường. Đi đâu, chúng ta cũng rỉ tai cho mọi người biết rằng : họ có đủ khả năng để bước tới với mọi người, như mọi người. Ai ai cũng hãy tin ở sức mình. Giải trừ những mặc cảm tự ti, bất lực. Bỏ lại đằng sau những cảm nghiệm tội lỗi, phản bội, bán nước, hại dân. Kỳ thực, nếu chúng ta đã lầm lỡ, chúng ta dựa vào đó, để rút ra những bài học, những kinh nghiệm. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là sai lầm. Nó sẽ biến thành một cơ may, để thăng tiến bản thân và phục vụ anh chị em đồng bào. Hãy cùng nhau đốt lên một que diêm, trước khi chờ đón một rừng đuốc. Hãy đổ một giọt mồ hôi, thay vì đứng hô hào những chiến dịch, bằng mồm miệng. Trao cho bà con thôn xóm một nụ cười chân tình và thân ái, thay vì rao giảng ồn ào về Tình Anh Em bốn bể một nhà.

-         Chúng ta hãy bắt chước Bồ Tát ĐỊA TẠNG : muốn có mặt khắp muôn nơi. Bước chân đến những chốn nhiều khổ đau nhất của Đất Nước. Chừng nào địa ngục chưa trống không, chúng ta còn ở lại đó, để ĐỒNG CẢM và hoạt động. Với chúng ta, những con đường còn bùn lầy nước đọng hôm nay, mai ngày sẽ trở thành con đường Yêu Thương và Hiểu Biết.

-         Chúng ta hãy bắt chuớc Bồ Tát QUAN THẾ ÂM : Lắng nghe tiếng kêu đau thương của anh chị em Đồng Bào, để sẵn sàng tới với họ, bằng mọi cách, trong bất cứ một hình hài nào : một em bé, một nhà văn, một bà mẹ nội trợ... một người lãnh đạo Đất Nước « chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».

Tất cả bốn công việc : « Lắng nghe, Đồng cảm, tạo nhịp cầu cho hai phe gặp gỡ và trao đổi với nhau, nhìn nhận nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mỗi người », mang tên là BẮC CẦU, LÀM TRUNG GIAN, trong khoa học Tâm Lý Xã Hội, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba.[13]

Công việc Bắc Cầu ấy bao gồm những động tác cụ thể như sau :

Thứ nhất là có mặt ở giữa : tạo điều kiện thuận lợi, cho hai người hoặc hai phe xung đột trình bày và xác định vấn đề của mình. Người bắc cầu đề xuất những tiến trình và qui luật, để hai bên lần lượt trình bày trong trật tự và an hòa quan điểm chủ quan của mình. Trong giai đoạn xác định vấn đề, trách nhiệm của người bắc cầu là giúp cho cả hai phía « môi trường hóa » những thông tin và ý kiến của mình : Cái gì ? Ở đâu ? Khi nào ? Thế nào ? Với ai ?...

Những qui luật cần được cả hai phía tôn trọng một cách nghiêm chỉnh là :

-  Qui luật một : sử dụng ngôi thứ nhất « Tôi », để nói về mình. Thay vì dùng ngôi thứ hai, để kết án, tố cáo. Nhìn mình như vậy để ý thức về mình, trước sự chứng kiến, của người bắc cầu và người thuộc phe bên kia.

-  Qui luật thứ hai là lắng nghe một cách nghiêm chỉnh và cẩn trọng, đồng thời tìm hiểu, khi kẻ khác nói ra nỗi lòng bức xúc và khổ đau của mình. Xuyên qua cách làm như vậy, người bắc cầu chính là nơi gặp gỡ, và điểm hội tụ.

- Cho nên, qui luật thứ ba là hai phe xung đột không có phép nói trực tiếp với nhau. Họ chỉ nói, xuyên qua người trung gian, giải thích, trình bày cho người trung gian, theo những thể thức và qui luật đã được ấn định với người trung gian. Nếu có trường hợp người bên nầy cắt lời và phản đối người bên kia, vai trò và trách nhiệm của người bắc cầu là nhắc lại qui luật thứ ba nầy: Ông đã nói trong 5 phút. Bây giờ, đến lượt Bà, Bà cũng có quyền nói trong vòng 5 phút. Tiếp sau đó, Ông cũng sẽ phát biểu trở lại... Không ai cắt lời của ai.

Thứ hai là nêu ra những câu hỏi xúc tác : dựa vào đó, người nói có thể dễ dàng phát biểu những xúc động như buồn, lo, tức giận, thất vọng, bất mãn... của mình, ngoại hiện một cách đầy đủ tất cả những tình huống đang trấn áp nội tâm.

Thứ ba là chuyển hóa những xúc động thành NHU CẦU. Ví dụ : Khi Ông, Bà nói như vậy, Ông, Bà cảm thấy mình có những xúc động gì ? Khi diễn tả nỗi niềm bực tức, như Ông Bà vừa làm, Ông Bà có những nhu cầu cần phải thỏa mãn là những gì ?

Thứ bốn là xúc tác tinh thần TRÁCH NHIỆM. Người bắc cầu không làm thay, làm thế. Chính những người trong cuộc chọn lựa và quyết định về phương thức và chiều hướng giải quyết vấn đề của mình. Khác với người trọng tài, người bắc cầu không làm công việc giàn hòa. Người bắc cầu cũng không đưa ra những đề nghị hoặc áp đặt từ ngoài hay từ trên những lời khuyên.

Nói tóm lại, người bắc cầu chỉ làm công việc xúc tác, với sự có mặt « vô công, vô vi và vô tư của mình ». Chính những người hoặc phe phái, trong vụ xung đột, mới là những tác nhân năng động, tìm ra con đường chuyển hóa bản thân và sáng tạo những phương hướng giải quyết vấn đề của mình.

 

***

 

Nhằm kết luận, tôi xin kể ra một câu chuyện :

Hôm ấy, có một nông phu ở Xứ Ngoài muốn vào Xứ Trong làm ăn. Truớc khi ra đi, ông đã đến tham vấn một Thiền sư đang cư ngụ trong vùng.

Chàng nông phu vào đề :

-   Thưa Sư Ông, con sắp vào Xứ Trong làm ăn. Sư Ông đã đi khắp đó đây, từ Đông qua Tây, từ  Bắc xuống Nam. Xin làm ơn cho con hay : Người Xứ Trong dễ thương hay dễ ghét ?

Thiền sư hỏi lại :

-   Cho đến bây giờ, trong xóm làng của Anh, những người anh đã tiếp xúc trong công việc và đời sống hằng ngày, có thái độ thế nào đối với anh ? Họ dễ thương hay dễ ghét ?

-         Thưa Sư Ông, ai ai cũng dễ thương với con.

-         Thế thì ở Xứ Trong cũng vậy, Thiền sư trả lời, mọi người cũng sẽ dễ thương với anh, như ở quê làng của Anh.

Một vài tuần sau, một chàng nông phu khác cũng đến tham vấn Thiền Sư :

-   Thưa Thầy, con quyết định vào Xứ Trong lập nghiệp. Xin Thầy chỉ bảo cho con biết : Người trong ấy có tính tình thế nào, theo cách nhận xét và kinh nghiệm của Thầy ?

Thiềân sư hỏi lại :

-   Theo kinh nghiệm và nhận xét của Anh, người trong quê làng hiện nay của anh có tính tình như thế nào ? Dễ ghét hay dễ thương ?

-         Thưa Thầy, ai ai cũng dễ ghét và khó chịu. Cho nên con muốn ra đi, cho khuất mặt, khuất lòng.

-         Thế thì tôi sợ rằng, Thiền sư trả lời, người ở Xứ Trong chắc cũng sẽ rất dễ ghét và khó chịu, giống như người ở quê nhà của mình.

Cuối ngày hôm ấy, một chú tiểu độ mười hai tuổi, đến lẩn quẩn bên cạnh Thiền Sư. Thiền sư hỏi :

- Hình như con có điều chi khó chịu, trong mình con, phải không ?

Chú tiểu thưa lại :

- Kính thưa Sư Ông, cách nhau hai tuần, hai người thanh niên đến hỏi Sư Ông một câu hỏi hoàn toàn giống nhau. Thế mà con nghe Sư Ông trả lời cho người thứ nhất : Người Xứ Trong rất dễ thương. Với người thứ hai, trái lại, Sư Ông trả lời : Người Xứ Trong rất dễ ghét và khó chịu. Thưa Sư Ông, con nghe như vậy, con không hiểu Sư Ông muốn nói gì. Con đang lo : Sư Ông có mắc bệnh gì không.   

Sư Ông mỉm cười và dịu dàng dạy cho chú tiểu :

- Tâm con làm sao, thì cách con nhìn cũng sẽ như vậy.

Tôi không biết chú tiểu đã hiểu Sư Ông thế nào. Phần tôi, tôi cảm nghiệm rằng : khi tôi cố quyết làm người, tôi sẽ thấy phẩm giá làm người, trong mọi người, khi họ tiếp xúc, trao đổi, chuyện trò với tôi, thậm chí những người có tác phong bên ngoài rất hằn học, tố cáo, hung bạo đối với tôi.[14]

Nói cách khác, khi tôi ngày ngày học tập, tôi luyện để phát huy chất liệu đối thoại trong bản thân và cuộc đời của mình, mọi người, bất kể là ai, người xấu hay kẻ tốt, người thương tôi hay kẻ ghét tôi, người bao bọc che chở cho tôi, cũng như người ác độc, tìm cách sát hại tôi... tất cả mọi người đều là cơ may quí hóa, giúp tôi thực tập bài học đối thoại, trong lòng Quê Hương và cuộc đời làm người.[15]

Tác giả Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!