Joseph Ratzinger Biển Đức XVI
MUỐI CHO ĐỜI
Ki-tô giáo và giáo-hội Công giáo
trước thềm ngàn năm mới
Trao-đổi với Peter Seewald
Người dịch:
Phạm Hồng-Lam,
Trần Hoành
Ratzinger, Joseph
Benediktus XVI:
Salz der Erde: Christentum und katholische
Kirche an der Jahrtausendwende;
ein Gespräch mit Peter Seewald.
© 1996 Deutsche Verlags-Anstalt GmbH, Stuttgart
Bản dịch tiếng Việt:
Muối Cho Đời: Ki-tô giáo và giáo-hội Công giáo trước thềm
ngàn năm mới. Trao-đổi với Peter Seewald
Trần Hoành và Phạm Hồng-Lam
dịch từ ấn-bản 2005
Phong-trào Giáo-dân Việt-nam Hải-ngoại
ấn-hành với phép của DVA tháng 7 năm 2005
Mục-lục
Lời mở đầu
Đức tin công giáo: Dấu-chỉ và Lời nói | 9 |
Chương I
Về con người
Gốc-gác và ơn gọi | 43 |
Vị giáo-sư trẻ | 60 |
Giám-mục và Hồng-y | 84 |
Bộ trưởng bên cạnh Giáo-chủ | 92 |
Tóm-tắt | 115 |
Chương II
Những vấn-đề của giáo-hội Công giáo
Rôma lúng-túng | 125 |
Về tình-trạng của Giáo-hội | 133 |
Tình-hình nước Đức | 159 |
Các nguyên-nhân suy-tàn | 169 |
Những sai-lầm của Giáo-hội | 175 |
Các điệp-khúc chỉ-trích | 187 |
Chương III
Trước thềm thời-đại mới
Hai ngàn năm lịch-sử cứu-độ - mà vẫn chưa được cứu-rỗi ? | 225 |
Cuộc thanh-tẩy - Buổi giao-thời và những đe-doạ rạn-nứt | 237 |
Một "mùa xuân mới của tinh-thần nhân-loại" cho ngàn năm thứ ba | 242 |
Những trọng-điểm của sự phát-triển Giáo-hội | 248 |
Tương-lai Giáo-hội - Giáo-hội tương-lai | 264 |
Lịch-sử thật của thế-giới | 288 |
Phụ-bản (do người dịch thêm) Tiểu-sử tóm-tắt | 297 |
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Lời mở đầu
Rôma mùa đông. Những người trên công-trường Phêrô mình khoác áo choàng tay cầm dù. Trong các quán cà-phê, khách uống trà. Tôi ở lại nghĩa-trang Campo Santo để xem thêm một ngôi mộ nữa. Thời-tiết dạo này chán đến lũ mèo ở đây cũng phải ngêu-ngao thảm-thiết.
Ngày thứ bảy, như bình-thường, Hồng-y vẫn còn làm việc trong phòng của Bộ. Chúng tôi hẹn nhau sau đó đi về vùng Frascasti, tới Villa Cavalleri nguyên là một ngôi trường của dòng Tên. Ngoài đường, người tài-xế đang ngồi đợi trong chiếc Mercedes mà Bộ tín-lí đã mua lại ở Đức cách đây vài năm. Tôi đứng đợi với một cái rương khổng-lồ như đang chuẩn-bị một chuyến viễn du. Cuối cùng cánh cửa mở, một người đàn ông khiêm-tốn, hơi mảnh-khảnh với mái tóc trắng xoá, bước ra bằng những bước nhỏ. Ông bận bộ âu-phục màu đen cổ cồn, tay xách một chiếc cặp tí-hon, đơn-giản.
Tôi đã ra khỏi Giáo-hội từ lâu lắm rồi. Do khá nhiều nguyên-do. Thời đó, cứ mỗi lần ngồi xuống ghế nhà thờ, tín-hữu lại bị dội lên đầu bao nhiêu là mảnh vụn tín-lí cũ mèm hàng trăm năm. Mọi thứ xưa chắc-chắn nay đã thành khả-nghi, truyền-thống cổ-xưa nay đã hết sinh-lực. Một số người cho rằng đạo phải uyển-chuyển cho phù-hợp với nhu-cầu con người. Một số khác lại bảo Ki-tô giáo đã lỗi thời, hết lí-do tồn-tại. Ra khỏi Giáo-hội là chuyện không đơn-giản. Lại càng không đơn-giản khi muốn quay trở vào lại. Có Chúa thật không? Và nếu có thật thì chúng ta có cần một giáo-hội nữa không? Bộ mặt của nó sẽ như thế nào và làm sao người ta có thể tái nhận-diện được nó ?
Hồng-y không bao giờ hỏi tôi về quá-khứ hoặc địa-vị mình. Ông không đòi biết trước các câu hỏi và cũng không yêu-cầu thêm hay bớt một chữ nào vào đó. Không-khí buổi trao-đổi khá căng và đứng-đắn, dù vậy thỉnh-thoảng "ông hoàng giáo-hội" cũng ngồi vắt một chân lên thành ghế khiến tôi tưởng như đang trò-chuyện với một cậu sinh-viên. Có lần ông ngừng nói để chìm vào thế tĩnh-tâm hay cũng có thể là để cầu xin Chúa Thánh-thần giúp tìm ra những từ thích-hợp. Tôi chẳng biết, chỉ đoán vậy thôi.
Hồng-y Joseph Ratzinger là một giáo-sĩ ưa tranh-luận song cũng bị lắm chỉ-trích, đặc-biệt nơi quê-hương ông. Tuy nhiên, nhiều nhận-định và phân-tích trước đây của ông giờ đây đã thành sự thật, đúng cả tới những chi-tiết. Và hiếm có ai đau lòng ý-thức về những mất-mát và thảm-kịch của Giáo-hội trong thời hiện tại cho bằng vị Hồng-y thông-minh xuất thân từ vùng đồng ruộng bang Bayern này.
Một lần tôi hỏi ông, có bao nhiêu con đường dẫn tới Chúa. Tôi thật-sự không biết ông sẽ trả lời như thế nào. Có thể câu trả lời của ông sẽ là: chỉ có một - hoặc nhiều - con đường. Không cần suy-nghĩ lâu, Hồng-y bình-thản trả lời: Có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu con đường.
München, ngày 15 tháng 8 năm 1996
Peter Seewald