Lời Ngỏ
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường sánh ví đời là những
chữ T. Chẳng hạn đời là tình và đời là tiền. Thế nhưng, hai chữ
T này lại đem đến những hậu quả không mấy phấn khởi, đó là tội
và tù.
Vì tình mà người ta sẵn sàng đâm chém lẫn nhau, để rồi kết thúc
bằng tù và tội. Vì tiền mà người ta sẵn sàng tham nhũng hối lộ,
vơ vét về cho đầy túi tham của mình, để rồi cuối cùng cũng kết
thúc bằng tội và tù.
Thế nhưng, trong cuộc sống thiêng liêng sự thánh thiện của chúng
ta cũng phải được khởi đầu và cũng phải được dệt nên bởi những
chữ T. Vậy những chữ T ấy là gì ?
Xin thưa đó là : Thánh Kinh, Thánh Thể,
Thánh Giá và Thánh Mẫu.
Những chữ T này chắc chắn sẽ dẫn chúng ta tới đỉnh cao của sự
trọn lành.
Những chữ T này cũng chính là những đề tài chúng ta cùng nhau
suy gẫm và chia sẻ trong tuần tĩnh tâm.
Thánh Kinh, Thánh Thể, Thánh Giá và Thánh Mẫu là những đề tài
rất quen thuộc và được nghe nói tới rất nhiều. Sợ rằng có người
sẽ nhủ thầm : biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Vì thế, chúng ta chỉ ôn lại những nét chính, rồi sau đó để cho
Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đi sâu vào trong thinh lặng của
chiêm niệm, cũng như làm trổ sinh những hoa trái thiêng liêng
cho tâm hồn chúng ta.
LINH MỤC KÍN MÚC NGUỒN SỐNG TỪ LỜI CHÚA
Trong cuộc sống, chúng ta nhận thấy có những cuốn sách nắm giữ
một vai trò thật quan trọng, được coi như là kim chỉ nam, được
coi như là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động.
Chẳng hạn các nhà nho ngày xưa có Tứ thư, Ngũ kinh của Khổng Tử.
Ngay từ khi mua sắm “bút nghiên” tới nhà ông đồ, họ đã phải học
thuộc lòng những câu của Đức Khổng. Thí dụ :
- Nhân chi sơ, tính bản thiện…
Trong đời thường, hễ nói, hễ dạy hay hễ làm bất cứ điều gì, họ
đều trích dẫn lời Đức Khổng, và thường được bắt đầu bằng câu :
Tử viết...Mọi cung cách cư xử của họ đều được bắt nguồn từ những
chủ trương của Khổng Tử. Thí dụ :
- Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chẳng hạn anh em Hồi Giáo có kinh Côran của Mahomet. Toàn bộ đời
sống và sinh hoạt của họ đều được xây dựng trên bộ luật căn bản
này. Ngay cả những cuộc khủng bố hiện nay trên thế giới cũng
được coi la những cuộc thánh chiến và những người ôm bom tự sát
cũng được coi là những vị anh hùng tử đạo.
Chẳng hạn Sách Đỏ của Mao Trạch Đông hay Chúc thư của Hồ chủ
tịch cũng đã có được một ảnh hưởng to lớn đối với đường lối lãnh
đạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam.
Riêng đối với chúng ta, những người Kitô hữu, thì cuốn sách quan
trọng nhất phải là cuốn Thánh Kinh.
Thực vậy, Thánh Kinh chính là chúc thư của Thiên Chúa, chính là
cuốn sách bởi trời, qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta và gửi
đến cho chúng ta những chân lý, những sứ điệp soi dẫn cho đời
sống tôn giáo cũng như luân lý.
I- NHỮNG
CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA
Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta có hai con đường : Con đường
đi lên và con đường đi xuống.
1- Con đường đi lên.
Đây là con đường tự nhiên, xuất phát từ thụ tạo mà đi lên tới
Thiên Chúa.
“Hội Thánh, mẹ chúng ta khẳng định rằng : Từ những loài thụ tạo,
con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể nhận biết
cách chắc chắn về Thiên Chúa”. (GLHTCG 36).
Hai chữ thụ tạo ở đây phải được hiểu là thế giới vật chất và
chính con người chúng ta nữa.
Trước hết là thế giới vật chất :
Khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, nhờ trí khôn suy luận
dựa trên nguyên lý nhân quả : đã có hậu quả thì phải có nguyên
nhân, chúng ta sẽ khám phá ra những dấu ấn đầy quyền năng của
Ngài, để rồi đi tới kết luận : Phải có một Thiên Chúa.
“Căn cứ vào vận hành và biến hóa của thế giới, tính cách vô
thường, trật tự và vẻ đẹp của nó, người ta có thể nhận biết
Thiên Chúa như là nguyên thủy và cùng đích của vũ trụ”. (GLHTCG
32).
Sự chấp nhận đơn thuần chính này là khởi điểm cho một tâm tình
tôn giáo uyên nguyên nhất và chúng ta có thể xác quyết : Con
người là một con vật có tôn giáo. Hay : “Con người là một hữu
thể tôn giáo”. (GLHTCG 28).
Vì thế, cùng với tác giả Thánh Vịnh, chúng ta hãy lên tiếng ngợi
khen :
- “Trời xanh tường thuật vinh quang Chúa,
Không trung loan bác việc tay Ngài làm”. (TV 18).
Tiếp đến là con người :
Nơi thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng cảm thấy có một
thứ tiếng nói tuy âm thầm nhưng lại rất mãnh liệt, thôi thúc
chúng ta làm lành tránh dữ.
Tiếng nói âm thầm ấy là tiếng nói của lương tâm và sự đòi buộc
phải làm lành tránh dữ ấy là luật tự nhiên. Tất cả đều không lệ
thuộc vào cá nhân, gia đình hay xã hội, nhưng luôn có giá trị
cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Vậy tiếng nói lương tâm và luật tự nhiên bởi đâu mà có, nếu
không phải bởi một Đấng thánh thiện tuyệt vời. Và Đấng ấy phải
là Thiên Chúa.
Ngoài ra, nơi thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng đều mang
lấy những khát vọng : khát vọng về chân lý cũng như khát vọng về
hạnh phúc. Vậy ai có thể làm cho những khát vọng ấy được no
thỏa, nếu không phải là chính Thiên Chúa.
Tóm lại :
“Với tâm hồn cởi mở đón nhận sự thật và vẻ đẹp, với lương tri,
tự do và tiếng nói của lương tâm, với khát vọng vươn tới vô tận
và hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Qua những đặc tính trên, con người nhận ra những dấu chỉ cho
thấy mình có linh hồn. “Vì mầm sống vĩnh cửu mà con người mang
nơi mình, không thể giản lực chỉ duy vào vật chất”, nên linh hồn
con người chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa”. (GLHTCG 33).
2- Con đường đi xuống.
“Lý trí con người nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình có
thể nhận biết cách xác thật và chắc chắn về một Thiên Chúa hữu
ngã, Đấng bảo vệ và điều khiển thế giới bằng sự quan phòng, cũng
như về luật tự nhiên mà Đấng Sáng tạo đã đặt trong tâm hồn chúng
ta”. (GLHTCG 37).
Tuy nhiên, sự nhận biết này còn hời hợt và phiến diện, hơn thế
nữa lại rất dễ bị lệch lạc, để rồi rơi vào tình trạng mê tín dị
đoan. Vì thế, để đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa, cũng như để
sống kết hiệp mật thiết với Ngài, chúng ta còn có một con đường
khác, đó là con đường đi xuống. Vậy con đường đi xuống ấy như
thế nào ?
Đây là con đường siêu nhiên, xuất phát từ Thiên Chúa mà đi xuống
tới con người. Nhờ việc Ngài mạc khải, nhờ việc Ngài tỏ lộ,
chúng ta sẽ nhận biết Ngài một cách sâu xa hơn.
“Còn có một lọai nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới
bằng sức lực của chính mình, đó là lọai nhận biết nhờ mạc khải
của Thiên Chúa. Bằng một quyết định hòan toàn tự do, Thiên Chúa
tự mạc khải và ban chính mình cho con người”. (GLHTCG 50).
Thực vậy, giả sử như đang ngồi trong một căn phòng mà cửa đóng
kín. Bỗng dưng chúng ta nghe thấy tiếng gõ cửa. Qua tiếng gõ,
chúng ta biết có một người nào đó đang đứng chờ chúng ta ở ngoài
cửa. Thế nhưng, chúng ta chưa thể biết người đó là ai, cao hay
thấp, mập hay gầy, trắng hay đen. Chỉ khi nào mở cửa, chúng ta
mới hay đó là một người bạn lặn lội từ xa tới thăm chúng ta mà
thôi.
Cũng vậy, vì yêu thương Thiên Chúa đã tự mạc khải, đã tự tỏ lộ
mình cho chúng ta, hay nói cách khác, chính Ngài đã vén bức màn
bí mật để chúng ta có thể nhận biết Ngài một cách chính xác hơn.
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình
và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài. Nhờ đó, loài
người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể
trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên
Chúa”.(GLHTCG 51)
Sự mạc khải này đã được Ngài thực hiện một cách từ từ trong thời
gian, bằng lời nói cũng như bằng việc làm, từng bước một Ngài
thông ban mầu nhiệm chính bản thân Ngài cho chúng ta.
II- THÁNH KINH LÀ LỜI CỦA THIÊN CHÚA
Trong bức thư gửi tín hữu Do Thái, thánh Phaolô đã viết :
“Thuở xưa nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên
tri mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy ta qua Con của Ngài”. (Dt 1.1-2).
Với lời xác quyết trên, chúng ta ghi nhận : trải qua giòng thời
gian Thiên Chúa đã nói với con người hầu tỏ lộ cho chúng ta biết
thánh ý tuyệt vời của Ngài.
Trước hết, Ngài đã mạc khải cho chúng ta qua các tổ phụ và các
tiên tri nơi dân Do Thái. Nhưng rồi sau đó, Ngài đã mạc khải một
cách trọn vẹn nơi Con Một Ngài là Đức Kitô.
Vì thế, chúng ta có thể xác quyết được rằng : Đức Kitô chính là
trung tâm điểm, chính là sự viên mãn của mạc khải. Hay nói cách
khác : Ngài chính là sợi chỉ xuyên suốt của mạc khải.
“Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhất, hoàn hảo
và dứt khoát của Chúa Cha. Nơi Ngài, Thiên Chúa phán dạy mọi sự,
và sẽ không có lời nào khác ngoài Lời đó”. (GLHTCG 65).
Thánh Gioan Thánh Giá đã quảng diễn những tư tưởng trên như sau
:
“Một khi đã ban cho chúng ta Chúa Con, là Lời của Ngài, Thiên
Chúa không còn lời nào khác để ban cho ta, Ngài đã nói hết trong
một lần vả cùng một trật, trong Lời duy nhất đó, và không còn gì
để nói nữa. Những gì Ngài chỉ nói từng phần với các tiên tri,
thì Ngài đã nói hết trọn vẹn trong Con của Ngài bằng cách ban
cho chúng ta điều trọn vẹn ấy là Con của Ngài. Do đó, ai còn
muốn gạn hỏi Ngài hoặc ao ước có một thị kiến mạc khải, người ấy
chẳng những làm một sự điên rồ, mà còn xúc phạm đến Thiên Chúa,
bởi không nhìn vào Đức Kitô mà lại đi tìm những gì khác hay
những điều mới lạ”. (GLHTCG 65).
Với Đức Kitô, một Giao Ước mới và vĩnh viễn đã được ký kết trong
máu của Ngài. Đồng thời, với Đức Kitô, Lời tối hậu của Thiên
Chúa đã nói với loài người và sự mạc khải đã đạt tới tình trạng
viên mãn, vì thế sau Ngài, không còn một mạc khải nào khác nữa.
Tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải cho con người đã được ghi
lại trong một bộ sách, mà không một người tín hữu nào được phép
quên lãng, đó là bộ Thánh Kinh.
Và như chúng cũng đã biết : bộ Thánh Kinh chia ra làm hai phần,
đó là :
- Cựu Ước gồm 46 cuốn, ghi lại lịch sử dân Do Thái cùng với
những điều Chúa phán dạy qua các Tổ phụ và các Tiên tri, nhờ đó
chúng ta nhận biết một Thiên Chúa duy nhất, hằng hữu và luôn yêu
thương chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.
- Tân Ước gồm 27 cuốn, ghi lại cuộc đời Chúa Giêsu cùng với giáo
lý do Ngài truyền dạy và được các môn đệ quảng diễn, nhờ đó
chúng ta biết Thiên Chúa chính là một người Cha nhân từ, hằng
yêu thương, chăm sóc và tha thứ cho chúng ta. Đồng thời, chúng
ta cũng biết được những việc cần phải làm để trở nên môn đệ Ngài
và xứng đáng được thừa hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
Tóm lại :
“Để mạc khải chính mình cho loài người, Thiên Chúa đã đoái
thương dùng ngôn ngữ loài người mà nói với họ : Lời của Thiên
Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại, trở nên giống tiếng nói
loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu đã trở
nên giống như con người khi mặc lấy xác phàm yếu đưối của chúng
ta. (MK 13).
Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một
Lời là Ngôi Lời duy nhất, trong Ngài Thiên Chúa nói hết về mình
cho nhân loại (Dt 1,1-2) :
Anh em hãy nhớ rằng Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải dài
trong toàn bộ Thánh Kinh, chính Ngôi Lời duy nhất vang trên môi
miệng của tất cả các tác giả Thánh Kinh. Vì chính Ngài, ngay từ
đầu là Thiên Chúa ở bên Thiên Chúa, chẳng cần đến chữ với lời,
bởi Ngài không lệ thuộc vào thời gian”. (GLHTCG 101-102).
III- LINH MỤC KÍN MÚC NGUỒN SỐNG TỪ LỜI
CHÚA
Đối tượng của đức tin không phải là một số những giáo điều khô
cằn sỏi đá, hay là một số những giới luật mang nặng tính cách
cấm đoán. Trái lại, đối tượng của đức tin chính là Đức Kitô,
Đấng đã sống giữa chúng ta và đã chết vì yêu thương chúng ta.
Vì thế, sống đức tin là sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Trái
đất xoay quanh mặt trời thế nào thì con người và cuộc đời chúng
ta, từ tư tưởng và lời nói cho đến việc làm, tất cả đều phải
xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như
thánh Phaolô : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức
Ki-tô sống trong tôi”. (Gl 2,20).
Đối với chúng ta, mặc dù Đức Kitô đã sống lại và lên trời, nhưng
Ngài vẫn yêu thương và hiện diện giữa chúng ta qua Thánh Thể
cũng như qua lời Ngài.
Vì thế, từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Hội Thánh luôn coi
Thánh Kinh là nguồn đem lại cho chúng ta sức sống thiêng liêng.
Trong hiến chế Dei Verbum, về sự Mạc khải của Thiên Chúa, Công
đồng Vaticanô II đã viết :
“Hội Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Mình Thánh Chúa.
Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa
và từ bàn tiệc Thánh Thể để ban phát cho các tín hữu (MK 21).
Sở dĩ như vậy vì qua Thánh Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy lương thực
nuôi sống và bổ dưỡng cho tâm hồn. Với Thánh Kinh, chúng ta
“không chỉ đón nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là lời của
Thiên Chúa (1Th 2,13). Thật vậy, trong các Sách Thánh, Chúa Cha,
Đấng ngự trên trời, âu yếm đến với con cái của Ngài và đối thoại
với họ”. (GLHTCG 103-104).
Cũng trong chiều hướng ấy, Công Đồng còn nhấn mạnh :
“Lời Chúa có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường
Hội Thánh, ban sức mạnh đức tin, là lương thực linh hồn, nguồn
sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Hội
Thánh”. (MK 21).
Đồng thời qua Thánh Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy thánh ý Chúa và
những tiêu chuẩn hướng dẫn cho chúng ta trong mọi cảnh huống của
cuộc đời. Hay nói cách khác chúng ta sẽ tìm thấy con đường Chúa
muốn chúng ta phải đi để bước theo Ngài.
Thực vậy, lời Chúa không phải là một tiếng nói đã bị chìm vào dĩ
vãng và đã bị quên lãng. Lời Chúa cũng không phải là một tiếng
nói của nhân vật nào đó đã qua đi trong giòng lịch sử, chẳng còn
gây được một âm vang hay một ảnh hưởng nào đối với chúng ta ngày
hôm nay.
Trái lại, lời Chúa luôn mang tính cách hiện tại bởi vì Ngài đang
nói với chúng ta trong từng trường hợp cụ thể. Vì thế, trước mỗi
biến cố, chúng ta hãy tự hỏi xem Chúa muốn nói gì với chúng ta.
Hay như thánh Phaolô, sau khi bị quật ngã trên đường đi Đamas,
đã thưa lên cùng Chúa :
- “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?” (Cv 9,6).
Chúng ta cũng có thể nói lên như Thánh Vịnh 119 :
- Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi.
Nhưng quan trọng hơn cả, đó là qua Thánh Kinh chúng ta sẽ tìm
gặp được Chúa, cũng như sẽ được sống trong sự kết hiệp mật thiết
với Ngài.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Đức Kitô đã tha thiết mời
gọi chúng ta, những môn đệ của Ngài, là hãy thực thi lời Ngài,
để được ở lại trong tình thương của Ngài.
Chính Ngài đã phán :
- “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong
tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người”. (Ga 15,10).
Và Ngài cũng đã xác quyết :
- “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em,
thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”. (Ga 15,7).
Lời Chúa có thể ở lại trong chúng ta, tùy theo mức độ chúng ta
khám phá ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Lời Chúa có thể
ở lại trong chúng ta nếu chúng ta để cho lời ấy thấm vào tâm
hồn chúng ta, cũng như bén rễ sâu trong cuộc đời chúng ta, để
rồi sẽ biến đổi con người chúng ta, như thể chúng ta được mặc
lấy những tâm tình của Đức Kitô.
Một khi lời Chúa đã ở lại trong chúng ta, thì chắc chắn lời ấy
sẽ lôi kéo chúng ta không phải chỉ đến với Đức Kitô, mà còn lôi
kéo chúng ta đến với Chúa Cha và ở lại trong tình thương của
Ngài. Chính tình thương này sẽ nhào nặn chúng ta trở thành những
người con đích thực của Ngài. Và chúng ta có thể kêu lên với
Ngài :
- “Áp-ba, nghĩa là Cha ơi”. (Rm 8,15).
KẾT LUẬN
Để kết luận, tôi xin mượn lời của Công đồng Vaticanô II, trong
hiến chế Dei Verbum về sự Mạc khải của Thiên Chúa, để nói lên
tầm mức đặc biệt quan trọng của Thánh Kinh như sau :
“Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo hội xem
như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh
ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân
phát cách bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội
tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Tiên Tri cùng các Tông Đồ.
Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo hội cũng như chính đạo
thánh của Đức Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng
dẫn”. (MK 21).
Là linh mục, chúng ta hãy tìm đến với lời Chúa, để kín múc nguồn
sức sống cho tâm hồn, để tìm thấy con đường phải đi, cũng như để
được ở lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải hồi tâm xét mình, kiểm điểm
lại thái độ của chúng ta đối với lời Chúa :
- Chúng ta đã đọc hết trọn bộ Thánh Kinh hay chưa ? Và chúng ta
đã đọc như thế nào?
- Chúng ta có bao giờ học hỏi thêm để được hiểu đúng lời Chúa
hay không ?
- Chúng ta có bao giờ băn khoăn về việc thực thi lời Chúa trong
cuộc sống hằng ngày hay không ?
- Chúng ta đã giảng lời Chúa như thế nào ?
Đó cũng chính là những điều chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ qua đề
tài thứ hai : Linh mục hiểu, sống và giảng lời Chúa.
GSVN |