Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông Vững Vàng Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
67*
V. Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông
Vững Vàng
Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành
90*
68. Ðức Maria, dấu chỉ của Dân Thiên
Chúa. Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển
hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội sẽ hoàn
thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x.
2P 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng
và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành.
91*
69. Ðức Maria chuyển cầu cho sự hiệp
nhất các Kitô hữu. Thánh Công Ðồng rất vui mừng
và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu
những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được,
nhất là các anh em Ðông Phương, những người nhiệt thành và hết
lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh
24. Tất cả mọi Kitô hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ
Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã trợ giúp Giáo
Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn
vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng
Con Ngài trong sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi
gia đình dân tộc hoặc đã mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết
Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa
thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh danh Ba
Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia.
92*.
Tất cả và từng điều
đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị Phụ
Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô
trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh
Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì
đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho
Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền Thánh
Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964.
Tôi, Phaolô Giám
Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký
của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)
90* Các số 68-69: Kết luận.
Hai vấn đề được đặt
ra ở Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp nhất.
91* Số 68: Ðức Maria như dấu
hiệu cậy trông.
Số này bàn đến một
ý tưởng quan trọng: ý nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa
Giêsu đối với toàn thể Giáo Hội. Ðức Maria là hình ảnh cánh
chung của Giáo Hội. Mẹ là dấu hiệu cậy trông. Mẹ cũng đã phải
chịu thử thách nên do kinh nghiệm riêng mà biết được gánh nặng
của chúng ta. Tình thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ khuyến khích
chúng ta cố gắng không ngừng.
92* Số 69: Ðức Maria và sự
hiệp nhất các Kitô hữu.
Ðây là một điểm tế
nhị. Nhiều người nghĩ dường như Ðức Maria là một trở ngại trên
con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Công Ðồng đã đề cập vấn đề
theo khía cạnh tích cực: Công Ðồng nhận định một sự kiện không
ai chối cãi: trong số những anh em ly khai, cũng có người kêu
cầu đến Trinh Nữ hèn mọn thành Nazareth. Như vậy vẫn còn hy
vọng. Công Ðồng muốn mọi Kitô hữu cầu xin Ðức Maria cho việc
hiệp nhất, vì Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên xưng Con Mẹ là Ðấng
Cứu Thế, và cho cả những ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ vai
trò làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng ngời vinh quang Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Hiến Chế tín lý về
Giáo Hội khởi đầu và kết thúc bằng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Từ Thiên Chúa, do tình yêu mà có mọi sự, và trong tình yêu mọi
sự qui về Ngài. Hiến Chế này là một lời tuyên xưng đức tin không
lay chuyển và sẽ không chịu sự hao mòn của thời gian.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀI GIẢNG
CỦA ĐỨC GIÁO
HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO
VIỆT NAM TẠI RÔMA NGÀY 19-08-1988 |
Anh chị em thân mến,
1 –
“Chúng tôi rao giảng Chúa Giêsu tử nạn Thập Giá” (1Cr 1, 23)
Mượn lời trên đây của Thánh
Phaolô, Giáo Hội Rôma hôm nay gửi lời chào Giáo Hội Việt Nam, mặc dầu trùng
dương xa cách, nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi. Đồng thời, tôi xin
chào toan thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng cà Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu
chúc cho dân tộc quý quốc đựơc trăm phần an lành.
Mối thịnh tình ưu ái đầu tiên
xin dành cho người anh em thân yêu Giám Mục Hà Nội, và cho tất cả Giám Mục trong
giáo đoàn Việt Nam, mà giờ này tôi ao ước các ngài hiện diện nơi đây. Cùng với
hàng Giáo Phẩm, tôi chào tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ, các thành phần giáo
dân tham gia công cuộc truyền đạo, và trong toàn thể giáo dân Việt Nam: trong
giờ phút này, tôi linh cảm mình hiệp thông với họ một cách sâu xa đặc biệt.
Tôi chào tất cả anh em Giám mục
cũng như giáo dân của Tây Ban Nha, Pháp và Phi Luật Tân, những xứ sở mà trong ba
thế kỷ đã góp phần vào việc truyền giáo tại Việt Nam. Tất cả tuôn về Rôma hôm
nay để tưởng niệm những người anh em trước kia là Thừa Sai xuất xứ từ ba quốc
gia này.
Một tư tửơng ưu ái xin gửi đến
các linh mục Đaminh thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi đã thánh lập từ bốn thế kỷ và
Hội Thừa Sai Ba-Lê đã cống hiến một số đông đảo Giám Mục và Linh mục, mà hôm nay
chúng ta sùng kính như những vị Tử Đạo vì rao giảng Lời Chúa.
2 –
Một cách đặc biệt, tôi gửi lời chào tất cả anh chị em Việt Nam, hiện
là giáo đòan thế giới, hôm nay từ bốn phương trời: Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu và
Âu Châu tuôn về địa điểm này. Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn
vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm nhu cầu - đứng
chung quanh các vị Thánh - để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, thương mến, hiện
đang phập phồng trong đáy lòng vì nghĩ đến giang sơn gấm vóc ở xa. Hướng về quê
hương này, anh chị em hoài cảm, luyến ái, nhớ nhung, là vì giữa thời gian phiêu
bạt, anh chị em cố tìm ra một giây phút cảm thông với nhau và cùng chung sống
niềm hy vọng.
Lên tiếng với anh em để hô vang
Chúa Kitô tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm
gương nhân chứng đặc biệt các vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã
nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những vị Thừa Sai, xuất xứ
từ những nước đã in sâu mầm mống Đức Tin Chúa Kitô.
Làm sao kể lại cho hết? Tất cả
là 117 vị Tử Đạo, trong số đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh mục, 59 giáo dân, trong số
đó một phụ nữ, Thánh Agnès Lê Thị Thành, mẹ sáu người con?
Truyền thống còn ghi nhớ lịch
sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu.
Từ năm 1533, nghĩa từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa đựơc truyền đạo, Giáo Hội
Việt Nam đã bị bách hại suốt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa.
Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong
rừng sâu nước độc!
Để lấy một ví dụ: Trong các vị
Tử Đạo hôm nay, đi tiền phong có Thánh Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt
tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một
gia đình rất nghèo khó, bên lương từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng
dậy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức Linh mục năm 1823, đựơc bổ nhiệm chánh
xứ và đương nhiên trở thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt. Nhiều lần đã bị
lao tù, nhưng vẫn đựơc giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân
ngài mong chờ đựơc chết vì Chúa. “Những ngừời chết vì Đức Tin - ngài nói
– thì lên Thiên Đàng thẳng rẵng; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn
tiền đút lót cho quan quyền: thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo có phải
hơn không?”. Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài
đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21-12-1839.
3 –
Trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc lại những gì Chúa Kitô tiên đoán về sự
kiện các Tông Đồ và những ai theo chân các Ngài sẽ bị bách hại: “Họ sẽ lôi
chúng con ra tòa Công Nghị, sẽ đánh đập chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng
con trước vua chúa quan quyền vì danh Cha, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại”
(Mt 10, 17-18). Chúa tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không có úp mở. Chúa
không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng với thói quen nói thẳng lời
chân lý toàn diện, Chúa chuẩn bị tâm hồn các ngài trước nguy cơ: “Anh sẽ nộp
em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên tố cáo làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh
Cha, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền chí tới cùng sẽ đựơc cứu
độ.” (Mt 10, 21-22)
4 –
Tuy nhiên, Thầy Chí Thánh không bỏ rới các Tông Đồ và các người tin
theo các Tông Đồ trong những cơn bách hại:
“Khi bị nộp vào tay họ,
chúng con đừng lo phải nói thế nào, Vì thực ra không phải chúng con nói, nhưng
là Thần Linh của Thân Phụ nói trong chúng con.”
(Mt 10, 19-20).
Thần Linh chinh là Thần Linh
chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là
mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng
nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực
vượt mức loài người đó ư? Thánh Phaolô hồi xưa đã không nói: “Chính sự kiện
Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ”
(1Cr 1, 23) đó ư? Từ thới các Thánh Tông Đồ đã vẫn thế rồi, qua các thế hệ lịch
sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt Nam, sự kiện
đó vẫn không thay đổi.
Phải, cần phải có mãnh lực,
khôn ngoan từ Thiên Chúa mới có thể tuyên xưng mầu nhiệm tình yêu của Ngài,
chính là tình yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần
gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy lụân loài người. “Là vì cái
điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan người đời, và yếu hèn
nơi Thiên Chúa còn mạnh sức hơn cả sức lực phàm nhân” (1Cr 1, 25).
Chính vì thế mà Thánh Tông Đồ
đã viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô tử nạn Thập Giá: Đức Kitô, trong mầu
nhiệm Phục Sinh, đã chứng minh Ngài là mãnh lực của Thiên Chúa, là khôn ngoan
của Thiên Chúa” (1Cr 1, 23-24).
5 –
Trước mặt chúng ta hôm nay, các vị Tử Đạo Việt Nam vai trò những người đi gặt
lúa cho Chúa, như đã ghi trong Thánh Vịnh:
“Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Lúc ra đi phải
khóc than, vì công vất vả gieo hạt,
Nhưng khi trở
về, lòng thênh thang phấn khởi,
Vì ôm nặng nhiều
bông lúa.” (Tv 125-126, 5-6)
Lời huyền diệu trên đây nói lên
ý nghĩa cuộc chứng nhân lịch sử nơi các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam. Trong
vũng nước mắt của họ đã gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trở thánh vô số
bông hoa ĐỨC TIN;
“Hạt giống gieo xuống mà
không mục đi thì chỉ trơi trọi một mình, nhưng nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa.“
(Ga 12, 24)
Các vị Tử Đạo Việt Nam “gieo
trong lệ sầu”, có nghĩa là các ngài đã khởi sự giữa lớp người đồng hương và
giữa nền văn hóa dân tộc một cuộc đối thoại sâu rộng và cởi mở, bằng cách nêu
cao chân lý và tin vào Chúa là sự kiện phổ cập tất cả hoàn cầu. Đồng thời, các
góp phần vào việc nhận định các giá trị và nghĩa vụ thích hợp với nền văn hóa
tôn giáo trong thế giới Đông Phương. Trong cuốn giáo lý đầu tiên bằng tiếng
Việt, các ngài đã tuyên xưng nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi một bản thể đã
tạo dựng trời đất. Ra trứơc quan quyền tra khảo về ĐỨC TIN, các vị Tử Đạo đã quả
quyết mình đựơc tự do tín ngưỡng, và đạo Chúa Trời là đạo duy nhất, nếu mình từ
bỏ là bất tuân lệnh Thương Đế, tức là Thiên Chúa. Đồng thời, các ngài đã can đảm
nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, nhưng không vì thế mà làm điều gì
bất chính. Các ngài đã dậy phải tôn kính Tổ Tiên theo truyền thống dân tộc, và
dưới ánh sang mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó, với sự dấn thân và hành động chứng
nhân của các vị Tự Đạo, Giáo Hội Viêt Nam hiên ngang nói lên sự quyết tâm và tha
thiết của mình, không chối bỏ truyền thống văn hóa và các thể chế quốc gia, trái
lại, Giáo Hội tuyên xưng và chứng minh rằng: nếu mình nhập cuộc trong truyền
thống và văn hóa dân tộc là vì có góp phần vào việc xây dựng quốc gia một cách
trung thực hơn.
Và rồi những cuộc đấu tranh,
những căng thẳng chính trị hồi xưa, xen lộn vào trong những bang giao giữa giáo
dân và nhà cầm quyền, những quan hệ lợi hại giữa các tôn giáo, những lý do kinh
tế xã hội, sự kiện người ta không hiểu rằng: Tín ngưỡng bao hàm quan niệm siêu
việt và phổ cập toàn thế giới. . là những yếu tố tạo nên trần gian như một nồi
nung nấu, trong đó thanh lọc mọi khía cạnh, để chỉ nổi bât nét khiết bạch và sức
dũng mạnh của tấm gương nhân chứng.
6 –
Đòan thể đông đảo các Tử Đạo, những gian lao đau khổ, những giọt nước
mắt. . . tất cả đã tạo nên “mùa lúa vàng” của Thiên Chúa. Các ngài là
những bậc Thầy, tôi xin mượn dịp hôm nay, để nêu lên trước toàn thể Giáo Hội sức
linh hoạt và hình vóc hùng tráng của Giáo Hội Việt Nam: ý chí kiên cường, sự
nhẫn nại và khả năng vượt mọi khó khăn để tuyên xưng Chúa Kitô. Chúng ta cảm tạ
Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành mà Thánh Linh của Ngài hiện đang thực hiện một
cách dồi dào giữa chúng ta.
Một lần nữa, giữa giáo đoàn
Viêt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng: máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho
anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong ĐỨC TIN. Giữa anh em, Đức tin của
Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. ĐỨC TIN này
tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam
thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là
người tín hữu của Chúa Kitô. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi
của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu
Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con ngừơi tự do,, kiêng nể
tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể
chế quốc gia (1Pr 2, 13-17). Do đó, công ích của quốc gia vẫn là điểm người công
dân có đạo phải dấn thân, nhưng đồng thời phải đựơc tự do tuyên xưng chân lý của
Chúa, đựơc cảm thông với những với các vị Chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và
như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn
dân.
7 –
“Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh nhiều tín hữu”.
“Hạt giống các tín hữu”:
Ngoài con số từng ngàn từng vạn giáo dân trong các thế kỷ trứơc đây đã đi theo
con đường tử nạn của Chúa, ngày nay là tất cả những ai đang lao động trong khắc
khoải, trong khó nghèo cực độ về thể chất, kinh tế, trong hy sinh liên tục,
nhưng chỉ mang một hoài bão là có thể trung kiên trong vườn nho Thiên Chúa, xứng
với danh hiệu những người quản lý trung thành trong nước Trời.
“Hạt giống các tín hữu”
là tất cả những ai ngày nay vì chính nghĩa Thiên Chúa và sống giữa những người
đồng hương đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa cây Thập Giá của Chúa Kitô: Thánh Giá
bài trừ sự nói dối, bài trừ tội ác, nhưng thúc đẩy con ngừơi biết thinh lặng,
biết tha thứ, biết cầu xin cho nước Cha trị đến trong tâm linh nhân loại, và đặc
biệt tại quê hương của họ là môi trường đời sống.
Công tác này: công tác liên tục
diễn tiến trong nội tâm vừa gây go vừa trường kỳ vì luôn luôn bị hoàn cảnh đặc
thù chế ngự, và âm mưu thử thách ĐỨC TIN, do đó, đòi hỏi rất nhiều nhẫn nại.
Phải xác tín rằng: đêm tối rồi cũng qua đi và ánh bình minh đang ló rạng ngoài
ngưỡng cửa.
8 –
“Những linh hồn lành thánh . . . ở trong tay Thiên Chúa”. (Kn 3, 1)
Chân lý trên đây đựơc đề cao
trong sách Khôn ngoan càng là ánh sáng quảng diễn biến cố long trọng hôm nay.
Phải, “linh hồn lành thánh ở trong tay Thiên Chúa, không hình khổ nào chạm
tới đựơc.” Quả quyết như thế có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử:
thực ra hình khổ đã va chạm thân xác các vị Tử Đạo, và va chạm ghê gớm. Tuy
nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng:
“Một người điên dại cho rằng
các ngài đã mệnh một và kết liễu cuộc đời bằng cái chết là một tai họa: Chết đi
là một đổ vỡ, tuy nhiên, các ngài vẫn sống trong an bình. Trước mắt trần gian,
các ngài đã bị đau khổ, nhưng niềm
hy vọng nơi các ngài mang nặng mầm mống trường sinh.” (Kn 3, 2-4)
Các Thánh Tử Đạo: Tử Đạo Việt
Nam! Các ngài là chúng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Chứng nhân là
con ngừơi vẫn đựơc kêu gọi về hướng trường sinh. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, anh
em sẽ đựơc nhiều ơn vĩ đại, là ví Thiên Chúa đã luyện lọc anh em và thấy anh em
xứng đáng, Ngài đã thử thách anh em như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận anh em
như của lễ toàn thiêu. Phải, của lễ toàn thiêu hợp với của lễ hy sinh trên Thập
Giá của Chúa Kitô. Là vì kiên cường cho đến chết, anh em đã tuyên xưng Chúa Kitô
tử nạn – Ngài là sự khôn ngoan, là quyền năng Thiên Chúa. Chúa Kitô: trong Ngài
chúng ta đựơc Thiên Chúa cứu rỗi.
9 –
Tất cả những ai tin cậy nơi Ngài – nơi Chúa Kitô tử nạn và phục sinh
– họ sẽ đựơc hiều biết chân lý; những ai trung thành với Ngài sẽ đựơc cùng Ngài
sống trong yêu thương, ví là ân sủng và tình thương vẫn đựơc dành cho những
người được tuyển chọn. (Kn 3, 9)
ANH EM: dòng giống các vị Tử
Đạo, ANH EM: dòng giống những người được kêu gọi. Anh em hãy nghe hết lời sách
Khôn ngoan: “Trong ngày phán xét, họ sẽ long lanh như những tia sáng chiếu
trên đồng cỏ từ Đông sang Tây.” (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản
chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn ngoan:
“Các dân tộc sẽ trị vì, họ cai trị dân chúng. Nhưng trên tất cả, Thiên Chúa sẽ
thống trị mọi loài.’ (Kn 3, 17) Chúa đây, tức là Chúa Kitô tử nạn và phục
sinh, Ngài xuống trần gian “không để xét xử thế giới, nhưng để thế giới nhờ
Ngài mà đựơc cứu rỗi.” (Ga 3, 17) Chính Chúa Kitô này: anh em đã tham gia
vào cuộc thống khổ và tử nạn Thập Giá của Ngài, hôm nay anh em hãy tham gia vào
việc cứu độ trần gian mà chính Ngài đã kết liễu. Nguyện Chúa cho mùa lúa vàng
của anh em muôn năm tồn tại trong hoan lạc.
Bản dịch của Đức Ông Vinh Sơn
TRẦN NGỌC THỤ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VÁ LƯỚI
(CHIA SẺ về Truyền Giáo, bài 4)
|
(Mt 4, 21 ; Mc 1, 19)
Lạng sơn-Cao bằng là vùng biên
giới phải hứng chịu nhiều cuộc chiến tranh. 1945 Nhật vào Lạng
sơn. 1947 Pháp đổ bộ trở lại Lạng sơn. 1950 Cách mạng thành công
sau chiến dịch Đông khê ác liệt. 1967 Mỹ oanh tạc Lạng sơn. 1979
Trung quốc đánh vào Lạng sơn. Mãi đến năm 1990 tất cả dân chúng
mới trở lại yên ổn làm ăn.
Chiến tranh liên miên tàn phá rất
nhiều, Giáo hội cùng chung số phận. Vào năm 1945 Lạng sơn-Cao
bằng có khoảng 30 nhà thờ. Nhưng sau các cuộc chiến tranh, Lạng
sơn chỉ còn 5 nhà thờ. Cao bằng không còn nhà thờ nào. Nhà thờ
chính toà bị bom phá sập. Toà giám mục không còn. Chủng viện
tiêu tan. Nhà cửa cháy rụi. Đường xá bị xe tăng cày nát loang lổ
ổ gà. Cầu cống chỉ còn hai mố không nguyên vẹn. Rừng Lạng sơn
biến mất để lại những mảng đồi nham nhở.
Có những ngôi nhà thờ nay trở
thành chuồng trâu bò, lợn gà. Có những nơi nhà xứ nay trở thành
nơi phóng uế. Có ngôi nhà thờ vì giáo dân chạy loạn đã đóng cửa
hơn 10 năm trời. Khi trở về, nhà thờ đã trở thành chỗ cho dơi
dơi trú ngụ. Lễ Tro năm đầu tiên mọi người dự lễ phải tay che
đầu, tay bịt mũi. Khi cha xức tro, dơi dơi cũng giúp xức các thứ
khó ngửi xuống đầu mọi người. Nếu ví Lạng sơn như một tấm áo,
tấm áo đó đã bị chuột cắn lỗ chỗ. Nếu ví Lạng sơn như một thân
thể, thân thể đó đã bị lở loét đầy thương tích.
Còn lại vài ngôi nhà xứ ọp ẹp. Có
những đêm mưa, nhìn nước mưa chảy qua những kẽ nứt trên mái,
trên tường nhà. Con hiểu rằng nhiệm vụ của con sẽ hàn gắn lại
những rạn nứt. Đi vá những rách nát, băng bó những vết thương.
Như người ngư phủ vá lại manh lưới trước khi ra khơi đánh cá.
Càng gần gũi dân chúng, con càng
thấy rằng xây dựng cơ sở vật chất tuy khó, nhưng hàn gắn những
tâm hồn mới thật là vấn đề.
1.
Vá tâm hồn
Tâm hồn con người thật sâu xa, ẩn
kín. Nhưng khi nó đã bị tổn thương sẽ rất khó bình phục. Vết
thương sâu xa khó phát hiện. Phát hiện rồi cũng khó chữa lành.
Khi một cơ thể yếu nhược sẽ có đủ
thứ vi trùng, bệnh tật xâm nhập, tàn phá.
Giáo dân Lạng sơn là một cộng đoàn
bé nhỏ, một thân thể gầy yếu. Lại bị những hoàn cảnh khó khăn,
tạo cơ hội thuận tiện cho bệnh tật xâm nhập, tàn phá, đục khoét
tâm hồn.
Có những lỗ hổng mê tín do thiếu
hiểu biết Phúc âm, đức tin yếu kém.
Có những lỗ hổng chán nản, sợ sệt,
vì đã gặp những khó khăn quá mức chịu đựng.
Có những lỗ hổng tham lam do hoàn
cảnh túng thiếu nghèo nàn.
Nhưng trầm trọng nhất có lẽ là
những lỗ hổng bất mãn, bị tổn thương vì thái độ bất công, hống
hách của chính hàng giáo sĩ.
Có lẽ ai cũng biết chuyện ông
Gandhi. Người Ấn độ coi ông là vị thánh vì ông đã có công giải
phóng dân tộc Ấn khỏi ách nô lệ Anh quốc, mà chỉ bằng thái độ
bất bạo động. Bản thân ông lãnh đạo nước Ấn bằng một đời sống
đạo đức, liêm khiết. Khi đi tìm con đường giải phóng dân tộc,
ông đã say mê Phúc âm. Những chân lý chói ngời ánh sáng tự do,
bình đẳng, bác ái huynh đệ lôi cuốn ông. Ông đã tìm đến nhà thờ
học hỏi. Nhưng buồn thay, ông vào đúng nhà thờ dành cho người da
trắng. Người ta xua đuổi ông. Ông ngỡ ngàng thất vọng vì thấy
người có đạo không đẹp như đạo lý của Chúa. Lòng ông mang một
vết thương. Vết thương ấy không bao giờ lành.
Giáo hội đã nhiều lần tự mình làm
rách lưới nên đã để mất những mẻ cá quan trọng.
Tại Lạng sơn đã có những bản làng
muốn theo đạo. Nhưng khi biết theo đạo phải bỏ bát hương, bỏ bàn
thờ ông bà, họ không muốn theo nữa (tìm thêm Trung quốc).
Ý thức được những mảng lưới rách
ấy, Giáo hội đã không ngừng ra sức vá lưới.
Đức Giáo hoàng đương kim là một
người vá lưới vĩ đại. Từ 10 năm nay, ngài không ngừng đi tìm
những mảng lưới rách để vá. Hàng trăm lần, ngài khiêm nhường
công khai xin lỗi vì những lỗi lầm Giáo hội mắc phải trong quá
khứ : như kết án Galilê, buôn bán nô lệ tại Phi châu, ép buộc
người thổ dân Châu Mỹ theo đạo, thiếu kính trọng nền văn hoá
Trung quốc. Đó là những lỗi lầm do thái độ tự tôn đi đến độc
tôn. Từ độc tôn đi đến độc tài và độc ác. Ngày nay Giáo hội hiểu
được những tác hại ấy. Nên đã biết khiêm nhường xét mình và nhận
lỗi hơn. Trường hợp Pedo ở Mỹ là một bằng chứng.
2.
Nối liền những khoảng cách
Những cộng đoàn yếu kém lại thiếu
người hướng dẫn dễ đi đến chỗ phân tán. Lạng sơn do địa hình
phức tạp lại trải qua nhiều thăng trầm nên cộng đoàn có nhiều
khoảng cách.
Có những khoảng cách tranh giành
quyền lợi làm suy yếu cộng đoàn. Có những khoảng cách lạnh lùng
nghi kị làm héo úa cộng đoàn. Có những khoảng cách ghen ghét hận
thù giết chết cộng đoàn.
Đó cũng là những mảng lưới rách
làm mất đàn cá. Đó cũng là những vết thương cần hàn gắn.
Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội
đã không ngừng hoạt động để nối liền các khoảng cách trong lòng
Giáo hội. Biết bao nỗ lực đưa đến hoà giải, tha thứ, đại kết. Đã
có những đối thoại. Đã có những công bố chung. Đã có những hợp
tác. Rút ngắn những khoảng cách trong lòng Giáo hội chưa đủ.
Giáo hội còn muốn xoá đi những khoảng trống ngăn cách Giáo hội
với thế giới. Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới, đặt
Giáo hội vào trong lòng thế giới để đồng cảm, để chung chia vui
buồn, lo âu, hy vọng. Hiến chế Gaudium et
Spes là một cánh cửa mở ra đem Giáo hội và thế giới lại gần
nhau.
Dịp Ad limina vừa rồi Đức Thánh
Cha đã nhắn nhủ Giáo hội Việt nam ba điểm, trong đó hai điểm
khuyến khích Giáo hội Việt nam xích lại gần xã hội. Đó là đối
thoại và cộng tác. Đây quả là một quan điểm rất mới mẻ của Giáo
hội, của Đức Thánh Cha đối với xã hội nói chung, đặc biệt với
chính quyền XHCN tại Việt nam nói riêng.
Đối thoại tức là thôi lên án, thôi
thù ghét. Đối thoại là quên đi những quá khứ chống đối đau buồn.
Đối thoại là xích lại gần nhau để nghe nhau, để nói với nhau
những lời xây dựng. Đối thoại là tin tưởng nhau. Đối thoại là
cùng nhau tìm một hướng mới, một lối mở ra tương lai. Đối thoại
như thế là tin vào những gì tươi đẹp sẽ gặt hái được.
Đức Thánh Cha còn đi xa hơn nữa
khi khuyến dụ Giáo hội Việt nam hãy hợp tác với Nhà nước.
Đây quả là một bước đi rất xa, rất
mới. Vì ngay tại Việt nam không thiếu người cho rằng Cộng sản là
ma quỉ. Tiếp tay với Cộng sản là tiếp tay với ma quỉ. Đã có
nhiều người không cho con cháu đi học trường Nhà nước. Đã có
nhiều người ngăn cấm không cho con cháu được tham gia công tác.
Riêng Toà Thánh vẫn chưa có quan hệ ngoại giao với Việt nam, tôn
giáo vẫn còn gặp khó khăn.
Thế mà Đức Thánh Cha thúc giục ta
phải cộng tác với Việt nam. Thật là một bước đi rất nhanh và rất
xa, không những đến nói chuyện trao đổi mà còn cùng nhau làm
việc. Đây là một bước đi chủ động, bước trước. Đây là bàn tay
chủ động giơ ra bắt tay.
Cộng tác không những là chấp nhận
mà còn đồng ý ở mức độ cao, để có thể cùng nhau làm việc chung,
chấp nhận con người, chấp nhận chương trình và sẵn sàng.
ĐỨC GIÊSU VÀ THIẾU PHỤ SAMARIA (
Ga 4, 1-41 )
Nhưng có lẽ không gì bằng nhìn lên
tấm gương của Đức Giêsu trong cuộc gặp gỡ với người thiếu phụ xứ
Samaria bên bờ giếng Giacóp. Đây là khuôn mẫu của một cuộc
truyền giáo thành công. Thành công nhờ vá lưới. Vá những vết
thương. Vá những khoảng cách. Vá những mặc cảm.
Qua cuộc tiếp xúc, Đức Giêsu đã
làm nên những thay đổi kỳ diệu :
1.
Từ xa lạ trở nên thân tình
2.
Từ câu chuyện thông thường
dẫn đến câu chuyện ơn cứu độ
3.
Từ tội nhân trở nên nhà
truyền giáo
1.
Từ xa lạ đến thân tình
Theo tục lệ Đông phương giữa người
nam và người nữ có một sự xa cách. Việt nam xưa đã có câu “nam
nữ thọ thọ bất thân”. Gặp gỡ nhau đã trở thành một điều cấm kỵ.
Không có gặp gỡ tự do tuỳ tiện. Muốn gặp gỡ phải qua những qui
định xã hội.
Người Samaria với người Giuđêa có
mối bất hoà từ lâu đời. Do những phân ly về tôn giáo, chính trị
mà hai bên coi nhau như thù địch. Người Giuđêa có đền thờ tại
Giêrusalem trung tâm chính trị và tôn giáo. Cả nước chỉ có một
đền thờ. Những ngày lễ trọng mọi người trong cả nước phải về
Giêrusalem dự lễ. Thánh Giuse, Đức Maria và Đức Giêsu cũng
thường tham dự những buổi hành hương này. Trong khi đó người
Samaria có đền thờ trên núi Garizim và có nước, có vua riêng.
Người Giuđêa vẫn coi người Samaria như ngoại đạo.
Đức Giêsu là nam giới, một người
Giuđêa, trong khi người phụ nữ là người Samaria. Một khoảng cách
rất xa. Nhưng sau một vài câu chuyện, người phụ nữ đã trở nên
thân tình và đã bộc bạch tất cả ý nghĩ của mình về tôn giáo. Sau
cùng thì tâm sự cả chuyện gia đình.
2.
Từ câu chuyện thông
thường đến câu chuyện về ơn cứu độ
Đức Giêsu đã khởi đầu bằng chuyện
xin nước. Một chuyện rất bình thường trong đời sống. Cũng như ta
nói chuyện thời tiết mưa nắng. Rất nhẹ nhàng và tự nhiên Đức
Giêsu chuyển sang lãnh vực thiêng liêng. Nước uống được chuyển
đề tài sang nước hằng sống. Vừa gợi trí tò mò. Vừa gợi niềm khao
khát.
Tò mò “Ông không có gầu làm sao
múc nước”. Khao khát “Xin ông cho tôi thứ nước ấy”. Thật là một
nghệ thuật dẫn dắt tuyệt vời. Rồi đi đến kết luận về một tôn
giáo đúng nghĩa “Phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý”. Và
sau cùng đi đến niềm tin.
3.
Từ một tội nhân đến một
nhà truyền giáo
Nhưng biến đổi kỳ diệu nhất chính
là biến đổi sâu xa trong tâm hồn nguời phụ nữ. Từ một thái độ xa
cách, chị đã trở nên thân tình thổ lộ với Chúa những chuyện
riêng tư. Từ một thái độ kiêu hãnh của người có nước, có đền
thờ, có gia đình, chị đã đi đến thái độ khiêm nhường nhận biết
sự thiếu thốn của mình để xin Chúa giúp đỡ. Những biến đổi đó đã
khiến chị thay đổi hẳn cuộc đời. Từ một người tội lỗi công khai
nay trở thành nhà truyền giáo. Sự biến đổi trong tâm hồn quá
mãnh liệt. Khám phá Đức Kitô soi sáng tâm hồn đem đến cho chị
niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm bình an. Phấn khích vì được ơn
soi sáng chị không cầm lòng được nên đã về nói với mọi người
trong làng. Lời nói của chị phải rất xác tín, hùng hồn nên đã
khiến cả làng ra xem và nghe Chúa.
Đức Giêsu đã tiến hành cuộc truyền
giáo thành công này nhờ những thái độ sau :
a)
Đi bước trước
Không uý kị, không rụt rè, Đức
Giêsu đã chủ động đến gặp người phụ nữ. Nếu không có người đi
bước trước hố cách ngăn sẽ không xoá được. Kinh nghiệm cho thấy
những thiên kiến, những hiểu lầm, những nghi ngại rất khó vượt
qua. Phải mạnh dạn. Phải gạt bỏ tất cả quá khứ. Phải xoá đi mọi
thiên kiến.
Đi bước trước là một thái độ phóng
khoáng. Đi bước trước gợi lên niềm tin tưởng : mình tin người để
người cũng tin mình. Tôi có chủ động đến với những người không
ưa tôi, những người khác đạo, những người ghét đạo không ?
b)
Thái độ khiêm nhường
Đức Giêsu đến với người phụ nữ với
thái độ khiêm nhường. Người không đến như kẻ cả để lên lớp dạy
chị. Người không đến như kẻ có quyền để ban ơn cho chị. Trái lại
Người đến như một kẻ yếu đuối, đói khát cầu xin chị giúp đỡ. Một
người Do thái đến xin nước một người phụ nữ mà đó lại là người
xứ Samaria, một người ngoại đạo, một người bỏ đạo, một người
phản đạo.
Một người thánh thiện đi xin một
tội nhân. Phải khiêm nhường lắm mới có thể hạ mình như thế.
Chính thái độ khiêm nhường làm cho chị phụ nữ cảm thấy dễ gần,
thông cảm với Chúa.
c)
Thái độ kính trọng
Đức Giêsu đến xin nước. Đó là một
thái độ trân trọng. Người công nhận chị là chủ nhân. Người đánh
giá cao cái giếng, nước giếng. Người trân trọng chị dù chị là
người tội lỗi, không có danh giá trong làng. Chính thái độ kính
trọng này gây được cảm tình nơi chị. Đây chính là một bài học về
hội nhập văn hoá. Nhà truyền giáo khi đến một nơi xa lạ phải
biết trân trọng những gì sẵn có, những giá trị của nền văn hoá
địa phương.
Chính nhờ những thái độ chủ động,
khiêm nhường, kính trọng, Đức Giêsu đã thành công trong việc vá
lưới.
Người đã vá được những mảng rách
trong quan hệ giữa người Giuđêa và Samaria. Người đã nối liền
những khoảng cách về giới tính, về chính trị, về tôn giáo giữa
hai miền.
Người đã vá được tâm hồn người phụ
nữ. Một tâm hồn đã có quá nhiều thương tích và chắc chắn mang
nặng mặc cảm. Không những chữa lành tâm hồn chị, Người đưa chị
trở lại mối liên hệ tốt đẹp với con người. Và trên hết Người dẫn
chị tới mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa.
Người đã nối được nhịp cầu. Chính
chị phụ nữ giờ đây trở thành nhịp cầu cho dân làng đến gặp Chúa.
Qua việc gặp người phụ nữ Samaria
bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu dạy ta hiểu truyền giáo là tiếp
xúc với tâm hồn con người. Tâm hồn con người rất tế nhị và phức
tạp. Phải có thái độ rất cởi mở, rất khiêm nhường và rất trân
trọng mới mong thành công.
Trong Giáo hội, trong giáo phận,
trong giáo xứ, trong mỗi người ta gặp đều có những khoảng cách,
những phần lưới rách. Nhất là trong bản thân tâm hồn người tông
đồ có nhiều mảng rách. Những mảng lưới rách làm cho chúng ta lỡ
nhiều đàn cá.
Chúng ta hãy biết khâu vá cho
nhau. Và xin Chúa khâu vá tâm hồn chúng ta.
Một điều kiện để khâu vá là phải
nhìn thẳng vào chỗ rách, thành thực không giấu giếm. Và khiêm
nhường xin Chúa và anh em khâu vá cho ta.
Lạy Chúa, một tấm lòng tan nát
giày vò
Chúa chẳng khinh chê (Tv 50).
TGM. Jos Ngô Quang
Kiệt |
VỀ MỤC LỤC |
|
BA VỊ ẨN TU: MỘT TRUYỀN THUYẾT ĐƯỢC LƯU HÀNH Ở THỊ TRẤN VOLGA
|
Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ
rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha
anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.
Matthew VI: 7, 8
Cùng trẩy đi trên chuyến tàu từ Archangel đến Đan Viện
Solovétsk, Đức giám mục và các khách hành hương định đến viếng
ngôi đền ở đó. Chuyến du hành thật êm ả. Gió thổi nhẹ và khí hậu
mát mẻ. Khách hành hương nằm trên boong tàu, ăn uống, và ngồi
thành từng nhóm nhỏ chuyện trò với nhau. Đức giám mục cũng bước
lên lan can và khi đang rảo bước ngài chú ý một nhóm các ông
đứng gần mui tàu đang lắng nghe một ngư phủ tay chỉ về hướng
biển và nói điều gì đó. Đức giám mục dừng lại và nhìn theo hướng
tay của người ngư phủ. Ngài chẳng thấy gì ngoại trừ mặt biển
lóng lánh ánh mặt trời. Ngài đến gần hơn để nghe, nhưng khi thấy
ngài, người ngư phủ cất mũ và yên lặng. Những người khác cũng
cất mũ và cúi đầu chào.
Đức giám mục lên tiếng, “Tôi không dám làm phiền, anh em cứ tự
nhiên. Tôi cũng muốn nghe điều anh bạn nói”.
Một người là lái buôn, mạnh dạn hơn tất cả những người trong
nhóm, đáp lại, “Người ngư phủ nói về các đan sĩ”.
“Đan sĩ nào?” Đức giám mục vừa hỏi vừa đi về phía hông tàu, và
ngồi lên một cái bục. “Kể cho tôi về họ. Tôi cũng muốn nghe. Anh
đang chỉ tay vào cái gì vậy?”
Người ngư phủ vừa trỏ ngón tay vào một chấm nhỏ về phía tay
phải ở đằng xa vưà trả lời, “Một hòn đảo nhỏ ngài đang thấy đó.
Đây là hòn đảo các nhà ẩn tu sống để được phần rỗi linh hồn”.
Đức giám mục hỏi, “Đâu, hòn đảo ở đâu? Tôi chẳng thấy gì cả.”
“Ở đằng xa kia, xin ngài nhìn theo tay tôi. Ngài có thấy đám
mây nhỏ đó không? Bên dưới đám mây đó, chếch bên trái một chút,
có một vệt mờ mờ. Đó là hòn đảo.”
Đức giám mục nhìn kỹ hơn, nhưng ánh mắt không quen của ngài
chẳng nhìn thấy gì mà chỉ toàn những ánh lung linh trên mặt
biển.
“Tôi không thấy gì”, ngài nói. “Nhưng các vị ẩn tu ở đó là ai
vậy?”
Người ngư phủ trả lời, “Đó là những vị thánh. Tôi đã nghe nhiều
về họ nhưng mãi đến năm trước mới có dịp diện kiến.”
Và người ngư phủ kể lại có một lần khi đang đánh cá, anh ta bị
sóng đánh dạt vô hải đảo lúc ban đêm, nhưng chẳng biết đó là
đâu. Vào sáng sớm, khi đang lang thang trên hòn đảo, anh đi qua
một túp lều, và gặp một cụ gìa đứng gần. Ngay lúc đó hai người
khác bước ra, và họ đã cho anh ta ăn, phơi khô quần áo, giúp sửa
lại chiếc thuyền.
Đức giám mục hỏi, “Họ nhìn như thế nào?”
“Một người thì nhỏ con, lưng bị gù. Ông ta mặc áo dòng và nom
rất già; có lẽ cả trên trăm tuổi, tôi nghĩ vậy. Ông ta già với
bộ râu bạc màu, nhưng miệng lúc nào cũng nở một nụ cười, và
khuôn mặt rạng rỡ như mặt một thiên thần. Người thứ hai cao hơn,
nhưng cũng rất già. Ông ta mặc chiếc áo khoác rách rưới như một
người nông phu. Chòm râu của ông ta rậm, và đang ngã qua màu
vàng. Ông là một người lực lưỡng. Trước khi tôi có thể giúp ông
ta một tay, thì ông đã lật ngược chiếc thuyền của tôi như nâng
một xô nước. Ông ta cũng rất tử tế và vui vẻ. Còn người thứ ba
thì cao, và chòm râu trắng như tuyết gần chạm đến đầu gối. Ông
nom khắc khổ, với đôi lông mày dựng ngược; ông chẳng mang gì
ngoại trừ một mảnh vải thắt ngang lưng.”
“Họ có nói gì với anh không?”, Đức giám mục hỏi.
“Phần lớn họ làm mọi sự trong thinh lặng, và nói rất ít, ngay
cả với nhau. Khi một người nhướng mắt nhìn, người kia đã hiểu ý.
Tôi hỏi người cao nhất là họ đã ở đó bao lâu, ông ta nhướng mày
nom rất giận dữ. Nhưng người già nhất nắm lấy tay ông và mỉm
cười, còn người cao thứ hai thì im lặng. Người cao tuổi nhất chỉ
nói, ‘Xin thương xót chúng tôi’ và mỉm cười.”
Trong khi người ngư phủ đang nói, chiếc tàu đã đến gần hòn đảo
hơn.
Người lái buôn trỏ ngón tay và nói, “Đó, bây giờ Đức Cha có thể
nhìn rõ rồi, nếu ngài muốn.”
Đức giám mục nhìn lên, và lúc nầy ngài thấy một vệt đen, đó là
hải đảo. Ngài rời mũi tàu, nhìn kỹ hơn một chút nữa, rồi đi về
phía đuôi tàu và nói với viên cầm lái:
“Đó là hòn đảo, phải không?”
Người đàn ông trả lời, “Vâng, đảo nầy không có tên. Có nhiều
hòn đảo như thế ở biển nầy.”
“Có những đan sĩ sống ở đó để cứu rỗi linh hồn của họ, phải
không?”
“Thưa ngài, vâng, nhưng tôi không biết điều đó có đúng không.
Những ngư phủ ở đây đều nói đã thấy họ; nhưng dĩ nhiên đó cũng
có thể là chuyện biạ.”
“Tôi muốn vào hòn đảo đó để gặp họ,” Đức giám mục nói. “Làm sao
tôi có thể vào được?”
Người lái tàu nói, “Tàu không thể đến gần bờ đảo. Nhưng ngài có
thể chèo xuồng vào. Ngài nên nói chuyện với ông thuyền trưởng.”
Người ta đi gọi viên thuyền trưởng và ông đến.
Đức giám mục nói, “Tôi muốn gặp các đan sĩ. Có thể nào tôi
không vào được chăng?”
Viên thuyền trưởng cố khuyên can ngài.
Ông nói, “Dĩ nhiên điều đó có thể làm được, nhưng chúng ta sẽ
mất rất nhiều thì giờ. Và ngay cả tôi có cố gắng, những ông già
đó cũng chẳng đáng công để ngài vào gặp. Tôi đã từng nghe nói
rằng những ông gìa da vàng đó ngây ngô, chẳng hiểu gì, mà cũng
chẳng nói lời nào, không hơn gì cá ở biển.”
“Tôi mong muốn gặp họ dẫu cho khó khăn và tốn nhiều thì giờ”,
Đức giám mục nói. “Làm ơn cho tôi mượn một chiếc xuồng”.
Không làm được gì hơn, vì lệnh đã ban hành. Các thủy thủ sửa
lại buồm, hạ bánh lái, và chiếc tàu hướng mũi vào hải đảo. Một
chiếc ghế được sắp sẵn ở đầu mũi tàu cho Đức giám mục, và ngài
ngồi xuống nhìn ra đằng trước. Các hành khách tuôn về đầu mũi,
và chăm chú nhìn vào hòn đảo. Những người mắt tỏ bây giờ có thể
nhìn thấy các mỏm đá, và một túp lều cỏ. Cuối cùng một người
nhìn thấy các đan sĩ. Viên thuyền trưởng mang ống nhòm đến, và
sau khi nhìn kỹ, ông đưa ống nhòm cho Đức giám mục.
“Đúng rồi. Có ba đan sĩ đang đứng trên bờ. Đó, họ đứng về mé
trái của cục đá lớn.”
Đức giám mục cầm lấy ống nhòm, nhắm và nhìn thấy ba người: một
người cao, một người thấp hơn, và một người nhỏ con lưng gù, họ
đứng trên bờ cùng nắm tay nhau.
Ông thuyền trưởng quay qua Đức giám mục và nói, “Thưa Đức cha,
tàu không thể đến gần hơn được nữa. Nếu ngài muốn lên bờ, xin
bước xuống xuồng và tàu sẽ hạ neo ở đây”.
Giây cáp được nhanh chóng hạ xuống; neo thả ra và buồm cuốn
lại. Con tàu bị ghì lại và lắc mạnh. Khi chiếc xuồng nhả ra, các
tay chèo nhảy xuống, còn Đức giám mục bước lần theo cầu thang và
ngồi vào chỗ. Các nhịp chèo đẩy nhanh chiếc xuồng hướng vào bờ
đảo. Khi họ tới gần cách khoảng ném một cục đá, họ nhìn thấy ba
người già: một người cao với một mảnh giải đeo ngang thắt lưng,
người thấp hơn trong chiếc áo nhà nông rách nát, và một cụ già
còng lưng mặc một chiếc áo dòng—cả ba tay nắm tay.
Các tay chèo kéo xuồng vào bờ, giữ chặt xuồng để Đức giám mục
bước ra.
Ba người già bái chào Đức giám mục và ngài ban phép lành trong
lúc họ đang cúi đầu.
Đức giám mục nói, “Tôi được biết các vị sống tốt lành ở đây cho
phần rỗi linh hồn của mình và cầu nguyện cho những người khác.
Là tôi tá bất xứng của Chúa, tôi cũng được gọi do lòng thương
của Người để chăm sóc và dạy dỗ đàn chiên Chúa. Tôi mong muốn
được gặp các vị là những tôi trung của Chúa để có thể hướng dẫn
được điều gì chăng”.
Những người già nhìn nhau mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng.
Đức giám mục nói, “Nói cho tôi hay các vị làm gì để cứu rỗi, và
làm sao để phụng sự Chúa trên đảo nầy.”
Vị đan sĩ thứ hai thở dài và ngước nhìn vị cao tuổi. Vị nầy mỉm
cười và nói, “Chúng con không biết phục vụ Chúa thế nào, vì vậy
chỉ biết phục vụ và giúp đỡ nhau như là các đầy tớ của Chúa mà
thôi.”
“Nhưng các người cầu nguyện với Chúa thế nào?” Đức giám mục
hỏi.
Vị đan sĩ đáp, “Chúng con cầu nguyện như thế nầy. Lạy Ba đấng,
ba chúng con đây, xin thương xót chúng con.”
Và khi người cao tuổi nói những lời nầy, cả ba ngước mắt lên
trời, và lập lại:
“Lạy Ba đấng, ba chúng con đây, xin thương xót chúng con.”
Đức giám mục mỉm cười.
Ngài nói, “Chắc hẳn các ngươi đã nghe biết về Thiên Chúa Ba
Ngôi. Nhưng các ngươi không cầu nguyện đúng cách. Các ngươi là
những người lành thánh đã làm tôi động lòng. Tôi biết rằng các
ngươi muốn đẹp lòng Chúa, nhưng các ngươi không biết cách phục
vụ Ngài. Đây không phải là cách để các ngươi cầu nguyện; nhưng
hãy nghe, tôi sẽ chỉ cách. Tôi dạy các ngươi, không bằng cách
của tôi, nhưng là cách Thiên Chúa trong Thánh Kinh đã dạy mọi
người cầu nguyện.”
Thế rồi Đức giám mục bắt đầu giải thích cho các đan sĩ Chúa đã
tỏ mình ra cho con người thế nào, và dạy họ về Đức Chúa Cha,
Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Ngài nói, “Chuá Con đã xuống thế để cứu chuộc nhân loại, và đây
là điều Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện. Hãy lắng nghe và lập
lại theo tôi: ‘Lạy Cha chúng con’.
Người thứ nhất lập lại, “Lạy Cha chúng con” và người thứ hai
đọc, “Lạy Cha chúng con” và người thứ ba, “Lạy Cha chúng con”.
“Đấng ngự trên trời,” Đức giám mục đọc tiếp.
Người thứ nhất lập lại, “Đấng ngự trên trời,” nhưng người thứ
hai vụng về đáp lại, còn người cao to thứ ba không thể lập lại
đúng chữ. Tóc của ông đã phủ che cả miệng vì vậy ông không phát
âm rõ tiếng. Vị đan sĩ cao tuổi nhất, không có răng, cũng mấp
máy không rõ ràng.
Đức giám mục lập lại lần nữa, và ba người già lập lại sau ngài.
Đức giám mục ngồi xuống một tảng đá, còn những người già đứng
trước mặt ngài, quan sát miệng ngài và lập lại từng lời ngài
nói. Và sau một ngày dài lao động vất vả, đọc lời kinh hai mươi,
ba mươi và cả hàng trăm lần, và sau mỗi lần các đan sĩ tiếp tục
đọc theo. Họ vụng về, và ngài tiếp tục sửa, và muốn họ lập lại
từ đầu.
Đức giám mục đã không rời chỗ cho đến khi đã dạy họ toàn bộ
Kinh Lạy Cha để họ không phải lập lại sau ngài mà có thể tự đọc
một mình. Người đứng giữa là người đầu tiên học thuộc, và có thể
tự lập lại một mình. Đức giám mục bắt người nầy đọc đi đọc lại,
để ít nhất hai người kia cũng lập lại được.
Trời đã tối và ánh trăng đang hiện lên trên mặt biển. Đức giám
mục đứng lên và bước xuống tàu. Khi ngài rời đi, các đan sĩ cúi
rạp mình xuống đất trước mặt ngài. Ngài nâng họ lên, hôn từng vị
một, dặn họ cầu nguyện theo cách ngài đã dạy. Thế rồi ngài rảo
bước xuống xuồng để trở lại con tàu.
Đang khi ngồi trên xuồng và chiếc xuồng chèo ra tàu lớn, ngài
nghe ba đan sĩ lớn tiếng lập lại Kinh Lạy Cha. Khi chiếc xuồng
đến gần con tàu, tiếng kinh của họ không còn nghe được nữa nhưng
bóng họ còn nhìn thấy trên mặt biển dưới ánh trăng, nom giống
như lúc ngài rời họ trên bờ đảo: người thấp nhất ở giữa, người
cao nhất bên phải, và người cao vừa bên trái. Khi Đức giám mục
vừa đến tàu và trèo lên, neo được nhổ lên và buồm thả ra. Gío
thổi mạnh và con tàu trẩy đi. Đức giám mục đến ngồi cuối đuôi
tàu nhìn hòn đảo đang rời xa. Một lúc sau ngài còn thấy ba đan
sĩ, tuy hòn đảo đã cách xa chỉ thấy lờ mờ. Cuối cùng hải đảo
biến mất, chỉ còn mặt biển lung linh với ánh trăng.
Các khách hành hương đã đi ngủ và quang cảnh yên lặng trên
boong tàu. Đức giám mục chưa muốn ngủ, ngài ngồi yên ở cuối con
tàu, mắt nhìn ra mặt biển nơi hải đảo đã rời xa, và suy nghĩ
miên man về ba đan sĩ. Ngài nghĩ hẳn họ đã rất vui học được Kinh
Lạy Cha; và ngài cám ơn Chúa đã gửi ngài đến giúp họ.
Đức giám mục tiếp tục ngồi, suy nghĩ, và dán mắt vào mặt biển
khi hải đảo đã biến đi. Rồi ánh trăng lóe lên trước mắt ngài,
các tia sáng lóng lánh, khi chỗ nầy, khi chỗ khác trên các lượn
sóng. Thình lình ngài nhìn thấy vật gì đó màu trắng và chiếu
sáng, băng băng trên biển thành một đường thẳng phát quang dưới
ánh trăng. Một con chim biển lớn, hoặc một cánh buồm lấp lóe của
con thuyền nào đó? Đức giám mục dán mắt vào vật đó và quá đỗi
ngạc nhiên.
Ngài thốt nghĩ, “Phải là một con thuyền chạy đằng sau, nhưng nó
vượt lên nhanh qúa. Nó mới còn ở xa mà đã đến gần rồi. Nhưng nó
không thể là con thuyền, vì không có buồm; nhưng dầu nó là vật
gì đi nữa, nó đang chạy theo và đuổi kịp mình.”
Và ngài không thể đoán ra đó là vật gì nữa. Không phải con
thuyền, cũng chẳng phải chim, cũng không là cá! Nó qúa lớn,
không thể là con người, mà con người làm sao đang chạy trên
biển. Đức giám mục đứng phắt dậy, và nói với người lái tàu:
“Coi kià, cái gì vậy, anh bạn? Cái gì vậy?” Đức giám mục lập
lại, mặc dầu lúc nầy ngài đã thấy rõ—đó chính là ba vị đan sĩ
đang chạy trên mặt nước, ánh quang của chòm râu trắng lấp lánh
tiến gần con tàu, nhanh đến nỗi như tàu đang ngừng chạy.
Người lái tàu nhìn, và vụt bỏ tay lái vì sợ hãi.
“Ôi, lạy Chúa tôi! Các đan sĩ đang chạy theo giống như họ đang
chạy trên bờ!”
Các hành khách nghe ông nói bật dậy và tập họp ở cuối con tàu.
Họ nhìn thấy các đan sĩ đang chạy theo, tay trong tay, và hai
người bên ngoài vẫy tay ra hiệu cho con tàu ngừng lại. Cả ba
đang trượt trên nước mà không phải cử động bàn chân. Trước khi
con tàu ngừng lại, các đan sĩ đã bắt kịp, họ cùng nâng đầu lên,
và nói:
“Chúng con đã quên lời dạy của ngài, vị tôi tớ Chúa. Khi lập
lại lời kinh thì chúng con còn nhớ, nhưng khi ngừng một chút thì
quên từng chữ, bây giờ thì quên hết rồi. Xin ngài dạy lại cho
chúng con.”
Đức giám mục làm dấu thánh gía, rồi dựa bên thành tàu, ngài
nói:
“Lời cầu của các ngươi đã thấu tai Chúa, hỡi người con của
Chúa. Đó không phải là điều tôi đã dạy các ngươi. Xin cầu cho
chúng tôi là kẻ tội lỗi.”
Và Đức giám mục bái lạy các người già; họ quay đi và băng qua
mặt biển. Một vệt sáng lóe lên mãi cho đến lúc rạng đông khi dấu
vết của họ biến mất cuối chân trời.
Tác
giả Leon Tolstoy, Trần Hiếu dịch |
VỀ MỤC LỤC |
|
“SUY NGHĨ CỦA CHÚNG TA PHẢI PHÙ HỢP VỚI Ý MUỐN CỦA THIÊN CHÚA”
|
Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ
Bài giảng
trong thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới với chủ
đề “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội” của Đức Thánh
Cha Bênêđíctô XVI tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, Chúa
Nhật 26 tháng 10 năm 2008.
Chư huynh
trong hàng Giáo Phẩm và Giáo Sỹ
Anh Chị Em
thân mến,
Lời của Chúa,
được vang vọng trong Tin Mừng mới đây, đã nhắc nhở chúng ta rằng
tất cả mọi Lề Luật đều được tóm lược trong tình yêu. Thánh sử
Mátthêu kể rằng, những người Pharisiêu, sau khi biết Chúa đã bịt
miệng bọn Sađốc, đã hội họp nhau để thử thách Ngài (cf.
22:34-35). Moät trong boïn hoï laø tieán só luaät ñaõ hoûi
Ngaøi: “Thöa Thaày, giới răn nào là giới răn trọng nhất?
(22:36). Câu hỏi cho phép ta nhìn thấy sự lo lắng, hiện diện
trong truyền thống cổ xưa của người Do Thái, của việc tìm kiếm
một nguyên tắc chung giữa nhiều cách thức bày tỏ Ý muốn của
Thiên Chúa. Đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời, vì có đến
613 huấn lệnh và điều cấm kỵ trong bộ luật của Maisen. Làm sao
tìm được điều nào là điều quan trọng nhất giữa những luật lệ ấy?
Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại, và trả lời ngay lập tức:
“Ngươi phải kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh
hồn, và hết trí khôn. Đấy là giới luật trọng đại nhất”
(22:37-38). Chúa Giêsu trưng dẫn Shemà (lời tuyên bố về một
nguyên tắc căn bản của niềm tin Do Thái Giáo), một lời cầu của
người Do Thái sốt sắng đọc nhiều lần mỗi ngày, đặc biệt vào buổi
sáng và buổi chiều (cf. Dt 6:4-9; 11:13-21; Nb 15:37-41): Lời
công bố về một tình yêu toàn diện và hoàn vẹn đối với Thiên
Chúa, như một Thiên Chúa duy nhất. Nhấn mạnh về việc đặt tất cả
sự dâng hiến này cho Thiên Chúa, về việc liệt kê ba cơ năng mà
nó định nghĩa con người trong cấu trúc tâm lý sâu xa của nó:
trái tim, linh hồn và trí khôn.
Chữ trí khôn,
diánoia, bao gồm yếu tố lý lẽ. Thiên Chúa không chỉ là mục tiêu
của tình yêu, của ý chí và cảm tình, nhưng còn là đối tượng của
thông minh mà nó không thể bị tách biệt khỏi tình yêu. Suy nghĩ
của chúng ta phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Và vì thế,
Chúa Giêsu thêm vào một số điều trong đóù, thật ra, vị tiến sỹ
luật đã không hỏi tới: “Điều thứ hai cũng giống như thế: Ngươi
phải yêu thương cận thân như chính mình” (22:39). Điều ngạc
nhiên trong câu trả lời của Chúa Giêsu bao gồm trong sự kiện đó
là Ngài thiết lập một sự tương đồng giữa giới răn thứ nhất và
thứ hai, mà ở vào thời điểm đó, đã định nghĩa như một lề luật
Thánh Kinh rút ra từ sự thánh thiện của luật Lêvy (cf. Lv
19:18). Và do đó, hai giới luật được liên kết bằng một trục
chính, trên đó tất cả mặc khải Thánh Kinh dựa vào nó: “Tất cả
mọi lề luật và lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn này”
(22:40).
Lời Phúc Âm
mà chúng ta đang suy niệm, chiếu lên ánh sáng về ý nghĩa của
việc làm môn đệ Chúa Kitô, là thực hành lời giảng dậy của Ngài,
điều này có thể được qui về trong giới luật trọng đại nhất và
đầu tiên của Thánh Luật, giới luật tình yêu. Ngay trong Bài Đọc
Đầu Tiên, trích từ Sách Xuất Hành, gồm tóm nhiệm vụ của tình
yêu, một tình yêu được minh chứng cách thiết thực trong những
tương quan giữa con người: đó phải là những mối liên kết của
kính trọng, hợp tác, giúp đỡ tận tình. Kế đến là yêu thương
những người xa lạ, cô nhi, quả phụ và bần cùng, hay có thể nói
là những công dân không thể tự “bảo vệ” được mình. Thánh ký đi
sâu vào những chi tiết như trường hợp một người nghèo đi cầm đồ
vật của mình (cf. Ex 22:25-26). Trong trường hợp này, chính
Thiên Chúa là người bảo đảm cho tình trạng của người nghèo ấy.
Trong Bài Đọc Thứ Hai, chúng ta có thể tìm thấy một ứng dụng cụ
thể của giới luật cao cả nhất của tình yêu tại một trong những
Cộng Đoàn Kitô Giáo Tiên Khởi.
Thánh Phaolô
viết cho giáo dân Thesalonia, hướng dẫn họ để hiểu rằng, trong
khi biết họ chỉ với một thời gian vắn vỏi, ngài đã tiếp nhận họ
và mang trong lòng mối cảm khích đối với họ. Bởi thế, ngài coi
họ như như “tấm gương cho tất cả những người tin nhận ở
Maceđônia và Achaia” (1 Th 1:6-7). Không thiếu những vấn nạn và
yếu kém trong cộng đoàn vừa mới được thành lập này, nhưng tình
yêu thắng vượt tất cả, đổi mới tất cả, chiến thắng tất cả: tình
yêu của những người hiểu được những giới hạn của họ, một cách
ngoan ngoãn đi theo lời của Chúa Kitô, Vị Thầy Thần Linh, đã
được chuyển đạt qua một trong những môn đệ trung tín của Ngài.
Thánh Tông Đồ viết: “Anh em coi chúng tôi và Thiên Chúa như mẫu
mực của anh em, đón nhận lời ngài với niềm vui của Thánh Thần
mặc dù thử thách lớn lao”. Ngài viết tiếp: “vì từ anh em mà lời
của Thiên Chúa được rao giảng – không phải chỉ quanh Macedonia
và Achaia, vì đức tin của anh em vào Thiên Chúa đã được lan rộng
khắp nơi” (1 Th 1:6,8). Baøi hoïc maø chuùng ta coù theå ruùt ra
töø kinh nghieäm cuûa giaùo ñoaøn Thessaloânia, vaø kinh nghieäm
töø söï kieän thoâng thöôøng trong baát cöù moät coäng ñoaøn
Kitoâ höõu chaân thaønh naøo, laø tình yeâu ñoái vôùi caän thaân
ñöôïc troå sinh töø vieäc chaân thaønh lắng nghe Lời Chúa, cũng
như đón nhận những thử thách đối với lời chân lý để từ đó tình
yêu chân thật mọc lên và chân lý chiếu sáng. Điều rất quan trọng
là lắng nghe Lời và nhập thể lời vào sự có mặt của cá nhân cũng
như cộng đoàn!
Trong khi cử
hành Thánh Lễ này, thánh lễ bế mạc công việc của Thượng Hội
Đồng, trong một cách đặc biệt, chúng ta cảm thấy sự gắn bó mà nó
hiện hữu giữa việc yêu mến lắng nghe lời Chúa, và việc phục vụ
bất vụ lợi đối với anh chị em. Bao nhiêu lần trong ít ngày qua,
chúng ta đã nghe những kinh nghiệm và những phản ảnh nhu cầu nổi
bật của ngày nay của việc chân thành lắng nghe lời Chúa, của
việc hiểu biết thành thật hơn Lời Cứu Độ của Ngài; của việc chia
sẻ nhiệt tình hơn đức tin được nuôi dưỡng một cách vững vàng nơi
bàn tiệc Lời Chúa! Chư huynh khả kính, cám ơn sự đóng góp mà mỗi
chư huynh đã cống hiến trong việc thảo luận quanh chủ đề của
Thượng Hội Đồng: “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo
Hội”. Tôi chào đón tất cả chư huynh với cảm tình tha thiết. Đặc
biệt xin chào mừng quí Hồng Y, những vị Chủ Tịch của Thượng Hội
Đồng, và Tổng Thư Ký, những vị mà tôi xin cảm ơn về sự cống hiến
nhiệt tình của quí vị cho Thượng Hội Đồng. Thưa anh chị em thân
mến, tôi chào mừng anh chị em, những người đến từ những lục địa
với kinh nghiệm phong phú mình. Khi trở lại quê hương, xin hãy
trao cho từng người lời chào thăm thắm thiết của vị Giám Mục
Rôma. Tôi chào mừng các phái đoàn Thượng Phu, những Nhà Chuyên
Môn, những Quan Sát Viên, và những Thượng Khách của Thượng Hội
Đồng: những thành viên của Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, và
tất cả những người làm việc trong ngành truyền thông. Đặc biệt,
tôi nghĩ về những Giám Mục của Trung Hoa Lục Địa, những vị đã
không được đại diện trong Thượng Hội Đồng này. Tôi muốn nhân
danh các vị này và cảm tạ Thiên Chúa vì tình yêu của các vị đã
dâng cho Chúa Kitô, sự hiệp nhất với Giáo Hội Hoàn Vũ, và lòng
trung thành của các vị đối với đấng kế vị Thánh Phêrô Tông Đồ.
Các ngài hiện diện trong những lời cầu nguyện của chúng ta, cùng
với mọi tín hữu được trao phó cho sự săn sóc mục vụ của các
ngài. Chúng ta hãy cầu xin “Đấng Chăn Chiên Tối Cao” (1 Pt 5:4)
ban cho họ niềm vui tông đồ, sức mạnh, và sự hướng dẫn nhiệt
tâm, với sự khôn ngoan và tầm nhìn xa xôi, cộng đồng Công Giáo
Trung Hoa rất quí mến của tất cả chúng ta.
Tất cả chúng
ta, những người tham dự vào công việc của Thượng Hội Đồng sẽ
mang theo với mình kiến thức mới mẻ mà công tác chính của Giáo
Hội, ngay khi bắt đầu tân thiên niên kỷ, là trên tất cả là nuôi
dưỡng chúng ta ta bằng Lời của Thiên Chúa, để có thể ảnh hưởng
hơn việc tân phúc âm hóa, lời công bố của thời đại chúng ta.
Điều cần thiết lúc này là kinh nghiệm hội thánh đây phải vươn
tới mọi cộng đoàn; chúng ta phải hiểu sự cần thiết của việc
chuyển đổi Lời Chúa mà chúng ta đã nghe thành những nghĩa cử yêu
thương, bởi vì đó là con đường duy nhất làm cho Tin Mừng thành
một lời công bố đáng tin cậy, mặc dù có những yếu đuối con người
nơi mỗi người. Điều đòi hỏi đầu tiên trên tất cả là hiểu biết
mật thiết hơn về Chúa Kitô và chân thành hơn đón nhận lời
Ngài.
Trong Năm
Thánh Phaolô này, hãy làm cho những lời này của ngài trở thành
của chúng ta: “Khốn cho tôi, nếu tôi không [rao giảng Phúc Âm]”
(1 Cor 9:16), tôi hy vọng với tất cả tấm lòng tôi rằng trong mỗi
một cộng đoàn trong Năm Thánh Phaolô này sẽ được cảm nhận bằng
một lòng xác tín hơn bao giờ như một ơn gọi trong việc phục vụ
Phúc Âm đối với thế giới. Ngay lúc khai mạc Thượng Hội Đồng, tôi
đã hồi tưởng lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Mùa màng thì bề
bộn” (Mt 9:37), một lời mời gọi chúng ta phải đáp trả không mệt
mỏi giữa tất cả mọi khó khăn mà chúng ta gặp phải. Càng nhiều
người tìm kiếm, một đôi khi bằng một cách không chủ ý, cuộc gặp
gỡ với Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài; càng có nhiều người tìm
thấy nơi Ngài một ý nghĩa cho cuộc đời của họ. Đưa ra lời chứng
chia sẻ và trong sáng về một cuộc đời theo Lời Chúa, được chứng
nhận bởi Chúa Giêsu, do đó, trở nên một tiêu chuẩn thiết thực
chứng tỏ sứ vụ của Chúa Kitô.
Những Bài Đọc
trong phụng vụ giúp chúng ta suy niệm hầu nhắc nhớ chúng ta rằng
giữa trọn lề luật, cũng như mọi lời Thánh Kinh, là tình yêu. Vì
thế, tất cả những ai tin rằng mình hiểu biết Thánh Kinh, hoặc ít
nhất một phần nào của Thánh Kinh, mà không xây dựng, bằng sự
khôn ngoan của mình, tình yêu giữa Thiên Chúa và cận thân mình,
chứng tỏ rằng trong thực tế, họ còn xa cách trên con đường bắt
gặp gỡ ý nghĩa sâu thẳm hơn của nó. Nhưng làm sao chúng ta có
thể đem vào thực hành giới luật này. Làm sao chúng ta có thể
sống trong tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu anh chị em mình
mà thiếu vắng sự sống và tiếp xúc mật thiết với Thánh Kinh? Công
Đồng Vaticanô II xác định sự cần thiết này rằng “sự tiếp cận dễ
dàng với Thánh Kinh sẽ đem lại cho tất cả Kitô hữu niềm tin”
(Cost. Dei Verbum, 22), vì thế, những người trong việcï gặp gỡ
chân lý, có thể sẽ lớn lên trong tình yêu chân chính. Đây là
điều kiện cần thiết cho việc phúc âm hóa ngày nay. Và vì thường
xuyên sự va chạm với Thánh Kinh đang bị đe dọa không phải “một
dữ kiện” từ phía Giáo Hội, nhưng do hướng dẫn bở chủ thể, và tự
ý, một sự thăng hoa uy tín mục vụ do hiểu biết chắc chắn Thánh
Kinh, để công bố, cử hành và sống Lời Chúa trong cộng đồng Kitô
hữu, để trở thành cần thiết, một cuộc đối thoại với những nền
văn hóa của thời đại chúng ta, đặt chúng ta vào việc phục vụ
chân lý, và không chỉ những tư tưởng hiện tại, và gia tăng cuộc
đối thoại Thiên Chúa mong muốn với mọi người (cf ibid 21). Với ý
nghĩa này, việc săn sóc đặc biệt đòi hỏi các vị mục tử phải
chuẩn bị, sẵn sàng, và phải làm bất cứ điều gì cần thiết để
truyền bá sinh hoạt Phúc Âm với những phương tiện thích hợp.
Những cố gắng
tiếp tục để làm sống động phong trào Thánh Kinh giữa những tín
hữu giáo dân cần được khuyến khích, song song với việc thành lập
nhóm người cổ võ, đặc biệt chú ý đến giới trẻ. Chúng ta cũng
phải giúp đỡ sự cố gắng để đức tin được biết tới qua Lời Chúa
đối với những người “xa lạ”, cũng như đặc biệt đối với những ai
đang thành tâm kiếm tìm cho họ một ý nghĩa cho đời sống của họ.
Còn nhiều suy
nghĩ nữa cần được thêm vào, nhưng tôi muốn tự giới hạn để nhấn
mạnh rằng chỗ đứng riêng biệt ở đó Lời của Thiên Chúa vang vọng,
rằng việc xây dựng Giáo Hội, như đã được đề cập nhiều lần trong
Thượng Hội Đồng, không thể nghi ngờ là phụng vụ. Ở trong đó,
Thánh Kinh là cuốn sách của con người và cho con người; một di
sản, một giao ước được trao cho người đọc để nó được đem vào
thực hành trong đời sống của mỗi người lịch sử ơn cứu độ đã được
ghi chép trong đó. Vì thế, sẽ có một mối hiệp thông hỗ tương
trong sự liên kết sống động giữa con người và Sách Thánh: Thánh
Kinh luôn luôn là một cuốn Sách sống động với con người mà điều
cốt yếu là đọc nó; con người không thể tồn tại mà không có sách
Thánh, bởi vì ở trong đó mà con người tìm được lý do cho cuộc
sống, ơn gọi, và phẩm vị của mình. Muối liên kết hỗ tương giữa
con người và Sách Thánh được cử hành mỗi khi cử hành phụng vụ,
mà ở đó nhờ Chúa Thánh Thần, lắng nghe Chúa Kitô vì chính Ngài
là Đấng nói khi Thánh Kinh được công bố trong Giáo Hội và đón
nhận Giao Ước mà Thiên Chúa làm mới mẻ với dân Ngài. Do đó,
Thánh Kinh và việc hội họp phụng vụ, với một mục đích đơn thuần
là mang con người đến cuộc đối thoại với Thiên Chúa và để vâng
nghe ý muốn của Chúa. Lời Chúa phát ra từ miệng Ngài, được chứng
minh trong Sách Thánh, trở lại với Ngài trong hình thức của một
lời đáp trả nguyện cầu, của một lời đáp trả sống sống, của một
lời đáp trả của tình yêu (cf Is 55:10-11).
Anh chị em
thân mến, chúng ta hãy cầu xin rằng từ việc đổi mới cách lắng
nghe Lời Chúa, được hướng dẫn bởi tác động Chúa Thánh Thần, một
cuộc đổi mới chính thức của Giáo Hội hoàn vũ, cũng như nơi mọi
cộng đồng Kitô hữu sẽ trổ sinh. Chúng ta phó thác những hoa trái
của Thượng Hội Đồng cho sự chuyển cầu từ mẫu của Trinh Nữ Maria.
Tôi cũng tín thác nơi Người Hội Nghị Đặc Biệt Lần Thứ Hai của
Thượng Hội Đồng Giám Mục Phi Châu sẽ được tổ chức tại Rôma vào
tháng Mười năm tới.
Tháng Ba năm
tới, tôi dự định tới Cameroon để công bố kết quả Văn Kiện của
Thượng Hội Đồng với đại diện các Hội Đồng Giám Mục Phi Châu. Từ
đó, với ý muốn của Thiên Chúa, tôi sẽ đi tới Angola để long
trọng kỷ niệm 500 năm quốc gia này đón nhận Tin Mừng. Rất Thánh
Maria, người đã dâng đời sống anh chị em lên như “người tôi tớ
của Thiên Chúa”, để nhờ đó mọi việc sẽ xẩy ra theo với thánh ý
của Ngài (cf Lk 1:38) và là người bảo chúng ta hãy làm những gì
Chúa Giêsu bảo chúng ta làm (cf Jn 2:5), dạy cho chúng ta nhận
thức trong cuộc sống của chúng ta nét đặc thù của Lời Chúa mà
chỉ có mình nó có thể ban cho chúng ta ơn cứu độ. Amen.
(Theo tài
liệu bằng Anh ngữ phổ biến trên màn
điện toán toàn cầu
Permalink:http://zenit.org/article-).082?|=english) |
VỀ MỤC LỤC |
|
SỨ ĐIỆP CỦA NGÔI MỘ ĐÁ |
(suy niệm nhân dịp lễ cầu cho các
linh hồn)
Có ai trong chúng ta mà đã không
hơn một lần đến viếng người thân và đã trầm ngâm bên ngôi mộ. Có
biết bao hình thức khác nhau của ngôi mộ: một đá, mộ xây, mộ xi
măng, mộ đất. Mỗi ngôi mộ thường chỉ được ghi vài dòng chữ đơn
sơ nói lên tên, tuổi ngày sinh và ngày mất của người nằm bên
dưới 3 tấc đất. Dừng chân suy tư bên những ngôi mộ, có lẽ mỗi
người chúng ta đã tự hỏi: phải chăng cuộc đời con người, đã có
thời huy hoàng là thế, mà nay chỉ còn lại ngôi mộ lanh lẽo với
vài dòng chữ đó thôi sao ?
Không ! ngôi mộ không chỉ là nấm
đất vô hồn. Đó là nơi an nghỉ của một con người, một cuộc đời.
Nằm dưới ngôi mộ là cả một lịch sử đời người với những tháng
ngày vinh quang xen lẫn với ô nhục; với những giọt nước mắt và
những nụ cười; với một thời yêu thương và một thuở giận hờn… nói
tóm lại, dưới ngôi mộ là cả một chặng đường của một con người có
Thiên Chúa luôn đồng hành. Vì vậy, ngôi mộ đá có biết bao điều
nói với chúng ta:
1- Điều thứ
nhất ngôi mộ đá nói với chúng ta: cuộc đời này thật mỏng
manh quá đỗi. Như bông hoa phù dung sớm nở tối tàn, cuộc đời
thật ngắn ngủi. Mới ngày nào còn cắp sách đến trường, hôm
nay đã lên ông lên bà, rồi già lão, bệnh tật, rồi chấm dứt cuộc
đời. Khi nghĩ về cuộc đời quá ngắn ngủi như thế, xin đừng mưu mô
tính toán mà làm gì. Xin đừng chia rẽ và giận ghét làm chi. Cuộc
đời này ngắn lắm, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay
ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được. Rồi đến lúc bàn tay
xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.
2- Điều thứ
hai ngôi mộ đá nói với chúng ta: đây chỉ là một điểm
dừng. Những ngôi mộ đá không nằm yên bất động mãi mãi. Cũng như
cuộc đời này chỉ là cõi tạm, là quán trọ, ngôi mộ chỉ là một chỗ
dừng chân. Thân xác con người được an táng trong lòng đất như
hạt giống được gieo xuống. Hạt ấy bị mục nát, nhưng đó là điều
cần thiết để mọc lên một cây mới. Sẽ có ngày Thiên Chúa mở tung
các ngôi mộ. Sẽ có ngày Ngài cất tấm khăn tang bao trùm thế
giới. Khi ý thức ngôi mộ chỉ là nơi dừng chân, chúng ta được yên
ủi, vì chúng ta không mãi mãi mất những người thân, nhưng họ
đang an giấc trong bụi đất, chờ ngày phục sinh. Chính vì vậy,
một số nghĩa trang công giáo được gọi là “nhà chờ”, một số phòng
chứa hài cốt được gọi là “phòng đợi”. Đây chính là nơi chờ đợi
đến ngày ra trình diện trước nhan Chúa và để gặp gỡ Ngài.
3- Điều thứ
ba ngôi mộ đá nhắc nhở chúng ta về một ngôi mộ trống:
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần -Tin Mừng Thánh Gioan kể lại -
Maria Mađalêna ra mồ từ sáng sớm và bà thấy ngôi mộ trống. Ngôi
mộ ấy là mộ của Đức Giêsu. Ngài đã được an táng ba ngày trước
và nay không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chiến thắng tử thần.
Thân xác Người không bị hư nát trong mồ. Thiên Chúa đã cho Người
sống lại vinh quang. Cùng với Người, những ai tin vào Người cũng
sẽ được sống lại như vậy “ai tin Ta sẽ được sống muôn đời” (Ga
6,47). Như vậy, ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về biến cố Đức Giêsu
phục sinh và đồng thời nhắc chúng ta rằng những người đang an
nghỉ nơi đây sẽ được sống lại. Người lành được sống lại để hưởng
vinh quang; kẻ dữ được sống lại để lĩnh án phạt đời đời.
Như vậy, khi dừng chân suy niệm
bên mộ người thân, chúng ta hãy lắng nghe điều được phát biểu
qua những nấm mộ tưởng chừng như vô tri vô giác và lạnh băng ấy.
Suy nghĩ về cuộc đời, về linh hồn, về sự chết cũng giúp chúng ta
hãy cố gắng sống hoàn thiện hơn.
+ GM. Giuse Vũ
Văn Thiên |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÔN NHÂN ĐỒNG
TÍNH VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến
cảnh
Người đầu tiên được
Thiên Chúa dựng nên là ông Adam và bà Eva, tức là một người Nam
và một người Nữ với mục đích để hai người ăn ở với nhau và sinh
con đẻ cái hầu thờ phượng, làm sáng danh Chúa (St1-27,28.
Mt.19-4). Chúa đã không chỉ tạo nên hoặc hai người Nam hay hai
người Nữ để họ chung sống với nhau. Sau này khi Chúa Giêsu giáng
trần, nói về phép hôn phối, Chúa cũng đã nói hai người nam và nữ
kết hợp với nhau nên cùng một thân xác, yêu thương gắn bó với
nhau để sinh con cái thờ phượng Chúa. (Mt.19-5,6). Chúa đã quở
trách những người ngoại tình (Mt.5-27,28). Trong cựu ước ta thấy
Chúa đã phạt cả dân thành Sodom vì họ không vâng lời Chúa thờ
ngẫu tượng và phạm tội sodoma (St.18-19).
Vậy thì theo luật
Chúa và luật tự nhiên, để thành vợ chồng phải là một người Nam
và một người Nữ, không thể là hai người Nam hoặc hai người nữ
với nhau.
Qua nhiều triều đại
từ thuở tạo thiên lập địa, tất cả những gì trái với luật tự
nhiên là trái đạo và kỳ quái bất thường không được xã hội chấp
nhận. Nó trái cả với sinh lý bình thường tự nhiên của con người.
Nhưng ngày nay con
người càng văn minh tiến bộ thì người ta lại càng làm nhiều điều
trái lẽ tự nhiên lấy cớ tự do, buông chiều theo dục tính hay tâm
tư mình, cho rằng Chúa dựng nên như vậy. Vấn đề hôn nhân đồng
tính giữa nam với nam hoặc nữ với nữ đã nảy sinh và phát triển
mỗi ngày mỗi rộng, đặc biệt ở Âu Châu và Châu Mỹ / Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ, hôn
nhân đồng tính đã trở thành trọng tâm của mọi cuộc tranh luận.
Mới đây ngày 10-10 2008 Tối Cao Pháp Viện Connecticut đã đồng ý
cho những cặp đồng tính được chính thức lấy nhau thành vợ chồng,
đưa Connecticut lên hàng thứ ba sau Massachusetts và California.
Chúng ta thử
tìm hiểu xem phản ứng của Giáo Hội Công Giáo thế nào đối với
quyết định đó. Tòa Thánh thì dĩ nhiên đã lên tiếng tỏ thái độ
bất đồng từ lâu. Tại Connecticut, Hội Đồng Giám Mục Connecticut
(HĐGM) đã lên tiếng phản đối và trong một tuyên cáo cùng ngày
10-10-2008 đã đưa ra lời bình luận: “Tối
Cao Pháp Viện đã quên rằng bổn phận của Tòa Án là cắt nghĩa luật
và cơ quan lập pháp mới có quyền làm ra luật”.
Nhưng ở đây Tòa Án lại làm ra luật. Phải chăng có cái gì bất ổn,
không được chỉnh và trái nguyên tắc. Các ngài cho rằng quyết
định đó của TCPV chứng tỏ đã coi thường nguyên tắc Tự Do Tôn
Giáo nếu không muốn nói là đã vi phạm Tự Do Tôn Giáo. Những ưu
tư đó chính là đầu đề của một cuốn sách mới xuất bản nói về hôn
nhân đồng tính:
“HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ TỰ DO TÔN GIÁO: Những xung đột”.
Đây là một cuốn
sách gồm một số bài viết của những học giả chuyên viên về luật
đã được trình bày trong một hội nghị dưới sự bảo trợ của quỹ Tự
Do Tôn Giáo Becket mà Douglas Laycock, Anthony R. Picarello Jr.
và Robin Fretwell Wilson đã thu nhặt lại rồi in thành sách. Hai
cộng tác viên Rowman và Litlefield đã đưa ra vấn đề để thảo luận
là khi mà quyền hôn nhân đồng tính được chính thức công nhận thì
sẽ có những xung đột nào xẩy ra.
Marc D. Stern, phụ
tá giám đốc hội nghị những người Mỹ gốc Do Thái đã nêu vấn đề
là: Các cơ quan / tổ chức tôn giáo có bổn phận “rao truyền
niềm tin của họ” cho cả những tín hữu của
họ lẫn những người ngoài tôn giáo họ. Như vậy thì quyền tự do
phát biểu, tự do ngôn luận chống lại hôn nhân đồng tính có tiếp
tục được nhà nước lắng nghe hay không? Điều thắc mắc đòi hỏi đó
xem ra có vẻ không vừa lòng phía nhà nước. Ông đã nêu trường hợp
ở Canada, những than phiền phản đối được đưa lên Ủy Ban Nhân
Quyền cấp Tỉnh và Liên Bang đã đưa đến hậu quả là nhà nước đã ra
luật chống lại những mục sư và những ai đã công khai phê phán
chỉ trích đồng tính luyến ái. Tuy nhiên ông lại cho biết là
quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ được tôn trọng
hơn ở Âu Châu và những quốc gia khác thì luật về sách nhiễu phái
tính rất dễ dàng đưa tới tình trạng chống đối hôn nhân đồng
tính.
NHỮNG CƠ QUAN CÔNG GIÁO
Stern cũng nêu vấn
đề nhân viên của các cơ sở hoặc cơ quan Công Giáo. Mới đây tòa
ra lệnh cho các cơ quan Công Giáo phải cung cấp bảo hiểm sức
khỏe có ngừa thai cho nhân viên. Như vậy các nhà xứ, nhà thờ sẽ
gặp trở ngại lôi thôi khi nhân viên của họ là những cặp vợ chồng
đồng tính. Stern cũng báo động là các cơ quan tư vấn hôn nhân,
các phòng tâm lý và những cơ sở tương tự của một số nhà xứ, nhà
thờ, cơ quan tôn giáo rất có thể sẽ gặp khó khăn khi xin chính
quyền giấy phép hành nghề nếu mà họ có khuynh hướng chống đối
hôn nhân đồng tính. Ngoài ra một số cơ quan của nhà thờ nhận tài
trợ của nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn. Stern kết luận bài viết
của ông là chắc chắn những ai chống đối hôn nhân đồng tính sẽ bị
ảnh hưởng một khi hôn nhân đồng tính được công nhận và hợp pháp
hóa, và dựa vào luật hiện hành thì những ai bất đồng ý kiến hoặc
chống đối hôn nhân đồng tính chắc chắn sẽ khó có thể thoát khỏi
hậu quả của pháp luật.
Jonathan Turley,
giáo sư đại học George Washington đã lý luận rằng nguyên tắc
luật lệ của Tối Cao Pháp Viện về vấn đề kỳ thị dựa trên tôn giáo
có “những cái mâu thuẫn chõi ngược làm người ta phân vân
không biết khi nào nó đúng khi nào sai”. Chẳng hạn Tòa cho
phép chính quyền phạt những tổ chức tôn giáo bằng cách từ chối
không cho họ được miễn thuế với tư cách là hội vô vị lợi, trong
khi đó lại tuyên bố mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do
phát biểu và tự do lập hội. Ông cho rằng hôn nhân đồng tính lại
một lần nữa tạo ra những xung đột trầm trọng giữa việc thi hành
luật tu chính số Một
và luật cấm không đựoc kỳ thị và phạt những ai phạm luật kỳ
thị.
NHỮNG MÂU THUẪN
Turley đã chứng
minh cái mâu thuẫn chõi ngược đó là một đàng thì nói là các tổ
chức tôn giáo có quyền phản đối đồng tính luyến ái trong các
giáo huấn của mình, một đàng lại buộc họ phải nhận những người
đồng tính luyến ái vào làm việc trong những cơ sở tổ chức của
họ.
Ngoài chuyện từ
chối không cho họ được quyền miễn thuế, Tòa Án còn có thể phạt
những tổ chức, cơ quan nào có tính kỳ thị. Tối Cao Pháp Viện
California đã đồng ý từ chối không cấp loại giường đặc biệt của
hải quân ở Berkeley cho hội Hướng Đạo Nam vì tổ chức này chống
đối đồng tính luyến ái.
Charles J.Reid,
Jr., giáo sư luật Đại Học Thánh Thomas đã so sánh sự tương quan
giữa Tôn Giáo, Luật Pháp và Nhà Nước. Luật pháp chứng tỏ giá trị
của nó qua cung cách xử phạt cũng như cách thức cấm đoán. Kitô
giáo đã giữ một vai trò chính yếu trong việc định đoạt luật lệ
về hôn nhân, không phải chỉ ở Âu Châu từ thời Trung Cổ mà còn ở
ngay Hoa Kỳ này. Từ thế kỷ XII cho đến cách đây mấy thập niên về
trước, điều đó đã được đương nhiên công nhận như là luật về hôn
nhân của con người đã được Thiên Chúa hướng dẫn. Trong nhiều
thế kỷ, hôn nhân đã giữ một vai trò tối quan trọng trong trật tự
xã hội và được coi là nền tảng căn bản của xã hội loài người.
Hôn nhân đã được coi như không phải chỉ là yếu tố tạo thành quốc
gia, mà còn là một tổ chức định đoạt tương lai của quốc gia.
Theo Reid, hôn nhân
ngày nay đang bị tục hóa, làm mất đi tính cách thanh sạch thánh
đức của nó để rồi đi đến chỗ ly dị ngày càng gia tăng và những
đứa con ngoại hôn ngày càng nhiều.
NHỮNG BÀI HỌC
Một hệ quả khác nữa
là cách cắt nghĩa luật trong những quyết định của TCPV
Massachusetts khi luật hôn nhân đồng tính được hợp thức hóa. Nói
về tương quan giữa hôn nhân và nhà nước, Tòa phán rằng: “Nói một
cách đơn giản là nhà nước tạo nên hôn nhân dân sự”.
Vậy thì làm sao mà
xã hội có thể tạo ra luật lệ để điều khiển hôn nhân và những thề
hứa của họ được. Làm sao một đứa trẻ nít miệng còn hoi sữa lại
có thể giảng giải về những giá trị của đời sống ở những khía
cạnh thực tế sống động khác nhau. Reid đã kết luận là cuộc tranh
luận hiện nay về hôn nhân là một cuộc tranh đấu một phần nào cho
những bài học chính đáng đã được luật pháp chỉ bảo.
Trong phần kết thúc
của cuốn sách, Douglas Laycok, giáo sư luật Đại Học Michigan đã
đưa ra nhận xét:
-
Các tác giả đã có những cái
nhìn khác nhau về hôn nhân đồng tính và tôn giáo, nhưng tất cả
đều đồng ý rằng hôn nhân đồng tính là một đe dọa cho tự do tôn
giáo.
Ngoài ra Laycok còn
thêm:
-
Những người đồng ý ủng hộ
hôn nhân đồng tính đòi hỏi không phải chỉ được luật pháp công
nhận, các tổ chức tư nhân dễ dãi mà còn đòi hỏi cả hai phía nhà
nước và tổ chức tư nhân công nhận và tích cực yểm trợ. Một số
người còn đang tìm cách loại bỏ những ý kiến chống đối và phủ
nhận hôn nhân đồng tính.
Laycok nhận xét:
-
Kinh nghiệm về những xung
đột văn hóa ở quá khứ cho thấy là một khi có điều gì mới mẻ và
quan trọng được công nhận và bảo đảm thì đồng thời tiếp theo đó
lại có những đòi hỏi khác được đưa ra….
Vì vậy ông đề nghị
là cứ để cho tôn giáo định đoạt về hôn nhân, nhà nước chỉ nên
làm công việc của mình là phần dân sự mà thôi. Tuy nhiên –ông
cho biết- cho dù có chấp nhận giải pháp đó đi nữa thì vấn đề vẫn
không thể giải quyết được tất cả những khúc mắc phức tạp của nó.
PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT.
Trong khi Giáo Hội
Công giáo Hoa Kỳ nhất định không nhân nhượng những quan niệm của
mình về hôn nhân thì ngày 15 tháng 10 vừa qua Hội Đồng Giám Mục
Hoa Kỳ đưa ra báo chí một tuyên cáo là đã phối hợp với Hội Hiệp
Sĩ Columbus “thành lập một kế hoạch hành động trên
toàn nước để bảo vệ hôn nhân”.
Một phần của sáng
kiến đó là Đức Hồng Y Francis George, chủ tich HĐGM đã cho thành
lập một Ủy Ban đặc trách hôn nhân và chỉ định Đức TGM Joseph
Kurtz của Louisville thuộc tiểu bang Kentucky làm chủ tịch.
Đức TGM Kurtz đã
tuyên bố khi ra mắt Ủy Ban:
-
“Chúng ta phải hết sức cố
gắng làm sao cho mọi người hiểu biết được vẻ đẹp độc nhất của
ơn gọi hôn nhân”
Một trong những
hành động đầu tiên của các Giám Mục là phát động bản tuyên cáo
2003 của các Giám Mục Hoa Kỳ, xác định rằng hôn nhân là sợi dây
liên kết tương giao duy nhất giữa một người nam và một người nữ,
và như vậy nó là một yếu tố nòng cốt và chính yếu của những xã
hội lành mạnh. Quan niệm như vậy về hôn nhân có được thực hiện
hay không thì còn cần phải quan sát.
Fleming Island,
Florida- Nov.10, 2008
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NỖI NIỀM CỦA
MỘT NỮ TU SAU KHI DU HỌC
|
Chẳng biết đổ lỗi cho ai : cho
chiến tranh ? cho thời cuộc ? cho hoàn cảnh ? để rồi sau mấy
chục năm trời xa cách tôi mới nhận ra một gia đình ở Huế là bà
con gần của mình. Thoạt đầu, khi nói chuyện với bà cố thì tưởng
chừng bà có 1 người con tận hiến cho Chúa hiện đang giúp một
giáo xứ ở Mỹ thôi thế nhưng sau khi hỏi kỹ mới biết bà còn 1
người con đang giúp 1 xứ nghèo ngoại ô Thành phố Huế và 1 nữ tu
đang đi học bên Tây. Gia đình có 1 người con tận hiến người ta
thường bảo là có phúc rồi vậy mà bà có đến 3 người con tận hiến
và 1 cô gái cưng đi học bên Tây những đến 6 năm !
Vừa rồi, nhân dịp ra Huế dự lễ kỷ
niệm 10 năm linh mục của các linh mục lớp cha anh, tôi tranh thủ
ghé thăm bà cố. Lần này, thật ngạc nhiên khi thấy bà sơ con của
bà cố cùng dùng cơm tối chung. Sơ cho biết là đã hoàn tất chương
trình và giờ đây về lại Việt nam chờ bài sai của Nhà Dòng.
Vì thời gian có hạn nên giờ cơm
cũng là giờ chị em tâm sự với nhau về đời tu, về việc học và
nhất là việc mà chị được Nhà Dòng gửi sang trời Tây để bổ sung
kiến thức.
Chị chẳng ngại gì để nói rằng khi
đi qua bên đó và khi được học mình mới càng nhận ra là mình ngu
?! Chị nói rằng chỉ khi nào qua đó mới thấy được biển học là bao
la. Người Việt của chúng ta vẫn quen lối học từ chương nên khi
qua đó phải cố gắng lắm mới có thể chống chõi được với cách học
nặng phần tự lập và nghiên cứu.
Xa quê hương, xa Hội Dòng, xa gia
đình nên chuyện nhớ nhà là một chuyện luôn ám ảnh của các sinh
viên khi đi học. Có những lúc nhớ nhà chỉ còn biết khóc mà thôi.
Với những ai còn mẹ như chị thì nỗi niềm thương nhớ ấy còn da
diết gấp bội khi nghĩ về tuổi già của mẹ phải đối diện với đau
yếu bệnh tật. Chị cũng đã tâm sự rằng có những lúc đã viết thư
gửi về cho Bề Trên ở Việt Nam để xin đi về chứ không thể nào
chịu nỗi với những khó khăn đang gặp phải. Chẳng hiểu sao mỗi
lần viết xong tính gửi về thì lại xé vì sợ các chị ở nhà tưởng
chừng như “được gửi đi học rồi làm nư !”.
Sau những năm tháng cố gắng, giờ
đây chị hoàn thành chương trình học của mình, chị tạ ơn Chúa vì
muôn ơn lành Chúa đã ban cho chị trong những năm “du học”.
Về thăm mẹ già, thăm gia đình, chị
vào chào Cha nguyên chánh xứ. Sau khi chào xong chị bị “sốc” vì
câu nói của Cha già mến yêu : “Đi du học về phải làm lớn cho
xứng với học vị tiến sĩ chứ !”. Thật ra chị không buồn Cha già
nhưng chị thấy quan điểm của Cha già vẫn còn cổ hũ làm sao ấy !
Chị nói với tôi rằng tiến sĩ không phải làm lớn nhưng làm cái gì
cũng được. Thậm chí những việc nho nhỏ trong nhà dòng như quét
rác, làm cỏ cũng được vì thật sự học vị tiến sĩ chẳng là gì cả
vì càng học mình càng thấy ngu.
Chị nói là ngày nay việc du học
quá dễ dàng để rồi được đi thì chẳng là gì cả. Thế nhưng có một
dòng nọ người ta đang đua nhau để lấy học vị tiến sĩ. Tưởng chị
nói đùa nhưng chị minh chứng cho tôi đó là một sự thật đang diễn
ra trong một dòng tu nọ.
Tôi tin là chị không nói dối vì lẽ
chị được may mắn ra nước ngoài học thì chị có cái nhìn rộng rãi
hơn, thông thoáng hơn.
Người chị họ vừa du học về mà tôi
được gặp gỡ, tiếp xúc không phải là một tu sĩ du học đầu tiên mà
tôi được gặp. Chị đi học, chị đi Tây về nhưng mà lối sống, lối
suy nghĩ của chị đơn sơ và khiêm hạ.
Thật ra thì quan niệm sau khi đi
học bên Tây về của chị cũng là quan niệm của phần đông tu sĩ,
linh mục được gửi đi học về. Thế nhưng, đáng tiếc thay trong
phần đông đấy lại có lợn cợn vài “người tu” mà chẳng tu gì cả.
Phải đau đớn khi mà nói như vậy khi nhìn lại hành trình đời tu
của những người ấy. Họ không biết tận dụng trí thông minh, tài
hiểu biết của Chúa ban cho họ để họ đầu tư kiến thức về Thiên
Chúa, về lòng tin, về mạc khải của Thiên Chúa. Họ đã quá kiêu
ngạo để tỏ mình cho mọi người biết ta đây là người “ăn trên ngồi
chốc”, là người được đi Tây đi U.
Nói chuyện với chị, tôi nhớ đến
Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên. Trong một lần nói chuyện với các
tu sĩ nam nữ nhân ngày khai giảng năm học mới, Ngài chia sẻ về
việc học của Ngài bên trời Tây. Sau khi cố gắng lấy cho được tấm
bằng, Ngài trở về Việt Nam. Tấm bằng Ngài lấy được Ngài treo
ngay đầu giường. Treo để làm gì ? Xin thưa, treo để nhắc nhớ
rằng Ngài nợ biết bao nhiêu người đã cưu mang, lo lắng cho Ngài
ăn học và Ngài nguyện ước sẽ cố gắng hết sức để phục vụ lại Giáo
Hội trong khả năng cho phép của Ngài.
Thế đấy ! Một tâm tình đơn sơ, nhỏ
bé của một Gíam mục một địa phận. Chắc ít nhiều gì ai ai cũng
biết Ngài là một giám mục bình dân, đơn giản. Từ Cần Thơ về Sài
Gòn có việc hay đi đâu đó ngoài tỉnh, ít khi Ngài dùng xe của
Toà Giám Mục dẫu rằng đó là phương tiện cần cho Ngài. Ngài đi
Sài Gòn hay đi đâu đó với một cái giỏ xách con con và nhảy phốc
lên xe đò là xong chuyện. Trên những chuyến xe Cần Thơ về Sài
Gòn, đâu ai biết ngồi chung xe của họ có một vị giám mục một địa
phận, một người đã từng đi tu học bên trời Tây ? Không phải ca
tụng, tung hô Ngài nhưng hình ảnh của một vị giám mục hiền lành,
đơn sơ và khiêm hạ ấy phải chăng là bài học quá lớn cho mỗi
người chúng ta ?
Có một vị linh mục nọ dám tuyên bố
rằng một cách khinh tướng với bạn bè rằng : “Tao sang đó 2 năm
tao lấy tiến sĩ”. Không biết khả năng, trình độ của vị ấy ra sao
mà chỉ mới 1 năm sang Mỹ, linh mục ấy đã phải quay lại Việt Nam
với chứng nhận “Cái đầu có vấn đề !”. Thế đấy ! Quá cao ngạo để
cuối cùng phải đón nhận hậu quả của lòng kiêu căng của mình.
Cạnh trường hợp đó thì có trường
hợp quá cay đắng là được Hội Dòng dốc cho không biết bao nhiêu
tiền của để đi học. Chẳng hiểu sao qua đó học không xong rồi lại
về. Tưởng chừng vị ấy phải xin lỗi Hội Dòng vì mình không hoàn
thành trách nhiệm, bổn phận nhà Dòng trao phó mà còn cao ngạo
nịnh trên đạp dưới để rồi biết bao nhiêu người đau khổ với người
đó. Học thì lo đi học đàng hoàng, học xong lấy bằng cấp về hẳn
hoi đi chứ còn học dở dở ương ương xong về rồi lại bi ba bi bô.
Bao nhiêu năm đi học rồi trở về với hai bàn tay trắng. Biết bao
nhiêu tiền của, hy sinh, đóng góp của Hội Dòng cho đi học vậy mà
giờ đây trở về tay không. Bi đát ở chỗ là về tay không mà không
biết mình về tay không mà đi đâu cũng huyên hoang tự cao tự đắc.
Chỉ có những người kém hiểu biết mới tung hô những kiểu mẫu cao
ngạo như thế thôi. Còn nữa, người ấy không biết xấu hổ mà còn lu
loa nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Trường hợp ấy tôi
chẳng hiểu là tu kiểu nào ? Tu cách nào đây ? Chuyện này xin gửi
lại trong tâm tư sâu lắng của người tu ấy với Chúa, còn tôi, tôi
xin phép miễn bàn.
Còn một trường hợp quá bi đát là
Hội Dòng dốc hết hầu bao cho sang Tây học mấy năm trời. Vừa đáp
máy bay về Việt nam thì cộng đoàn thấy có cái gì khác khác nơi
vị này. Và cái khác khác đó đã thành hiện thực khi vài tuần về
thăm gia đình thì tu sĩ ấy đã đệ đơn lên Bề Trên để xin ra khỏi
Dòng. Thế là bao nhiêu tiền của, bao nhiêu đầu tư, bao nhiêu hy
vọng của Hội Dòng dành cho vị ấy bây giờ tan tành mây khói !
Thông minh, được Hội Dòng tín
nhiệm quả là hồng ân bao la mà Thiên Chúa ban cho những người đi
du học. Họ được gửi đi học thì họ quá đủ thông minh để nhận ra
điều ấy nhưng cách cư xử đời thường thì ngược lại. Họ quá cao
ngạo, họ quá quấy nhiễu để rồi họ trở thành gánh nặng cho người
khác. Ai ai cũng biết cả nhưng vì lòng bác ái, vì tình người
người ta không nói ra thôi chứ ở đó mà vênh vang !
Có vênh vang chăng ? Có tự hào
chăng ? Thì hãy tự hào, hãy vênh vang trong Chúa chứ ai đâu mà
vênh vang với mảnh bằng tiến sĩ cỏn con.
Tất cả đều nằm trong lòng bàn tay
của Thiên Chúa vậy mà cứ mãi vênh vang trước ân huệ của Ngài
chăng ?
Tiến sĩ hay không tiến sĩ, giàu
hay nghèo, sang hay hèn, chức cao hay quyền thấp không quan
trọng. Chuyện quan trọng, chuyện cần nhất của đời người đó là
lòng khiêm hạ, sự khiêm cung trước tình yêu bao la và sự quan
phòng của Thiên Chúa mà thôi.
Lm. Anmai, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG XEN VÀO
CHUYỆN NGƯỜI KHÁC (2)
|
Mỹ Thanh là
một đứa cháu nội 7 tuổi. Bà nội rất thích cô bé và mang nhiều
quà đến cho cô bé mỗi lần bà đến thăm. Bố mẹ nó thì chỉ muốn cho
những quà mà họ cho là thích hợp. Cô bé nhận 6 món quà từ bà nội
vào ngày phục sinh, 5 vào ngày sinh nhật của cô bé, và 10 vào
ngày Chúa Giáng Sinh. Cô mở quà của bố mẹ cho, và cảm ơn bố mẹ.
Cô nhìn những món quà rất thích thú trong dáng điệu thật tự
nhiên. Nhưng, sau khi cô bé mở món quà cuối cùng của bà nội cho,
cô bé lại phàn nàn: “Chỉ vậy sao?” Một ít ngày sau đó, bà mẹ mới
khám phá ra cô bé đã đánh dấu tất cả những ngày có quà trên tờ
lịch của cô bé bằøng bút chì đỏ. Rất khó chịu với thái độ như
thế, bà mẹ nói với ông bố và xin ông nói với bà nội phải giới
hạn quà cho cô bé. Ông bố từ chối. Ông nghĩ rằng yêu sách đó quá
vô lý, và một sự cãi vả xảy ra. Bà mẹ cảm thấy rằng bà nội làm
hư cô bé ngoài điều mong ước.
Bà mẹ ít hiểu
biết, không tự tin vào ảnh hưởng của mình trên đứa con nên luôn
thấy nhiều nguy hiểm từ chỗ thiếu cân bằng trong thực tại. Vì bà
mẹ và ông bố giữ được thế quân bình trong việc cho quà, cô bé
không tỏ ra thái độ tham lam với họ, nhưng lại có thái độ đó đối
với bà nội. Bà mẹ không thể kiểm soát điều mà bà nội muốn làm.
Đó không phải là công việc của bà. Sự liên hệ mà bà nội muốn
phát triển với cô bé thì thuộc về họ. Trong trường hợp nầy bà mẹ
nghĩ rằng việc trao đổi quà cáp trong gia đình cần thiết lập một
mẫu mực để tránh việc cho quá nhiều quà cáp của bà nội, và như
vậy sẽ làm hư đứa trẻ. Tuy nhiên, điều quan trọng và cần thiết
là làm sao cho đứa trẻ biết học không chỉ nhận mà cũng phải cho
nữa - dạy cho cô bé nhớ ngày sinh nhãt của bà nội, phải cho và
còn cho nhiều hơn nữa vào những ngày lễ đặc biệt dành cho bà
nội. Bà mẹ nên chuẩn bị quà cáp và để cho cô bé trao quà cho bà
nội để thiết lập một quan hệ tốt đẹp với bà nội.
Mỗi đứa trẻ
sống trong một môi trường gồm có bố mẹ và nhiều người lớn khác.
Sau bố mẹ là ông bà và bà con là những giao tiếp gần nhất, sau
đó đến những người láng giềng, bạn bè của bố mẹ, các cô thầy
giáo, và sau cùng là một vòng quây rộng lớn của những người
trong cộng đồng. Việc kiểm soát những ảnh hưởng mà những người
nầy gây trên đứa trẻ thì hoàn toàn không thể đối với bố mẹ. Tuy
nhiên, khi đứa trẻ phải đối đầu với ảnh hưởng bất lợi, chúng ta
dễ có phản ứng chống lại những người lớn liên quan, hy vọng loại
bỏ được sự ảnh hưởng của họ trên đứa trẻ. Đây là sự vô ích. Đứa
trẻ không cần được bảo vệ khỏi môi trường của nó, cũng không cần
phải xếp đặt lại mọi sự cho nó. Điều nó cần là hướng dẫn để đáp
lại. Cái nguyên nhân kích thích được phơi bày trước mặt đứa trẻ
không quan trọng cho bằng sự đáp trả của nó đối với vấn đề đó.
Đứa trẻ là
một cá nhân, và như thế phát triển những tương quan cá nhân
riêng của nó với những người mà nó tiếp xúc trong sự gần gũi
thân thiện. Con trẻ chúng ta cần có kinh nghiệm với nhiều người
để chúng có thể hiểu biết và đánh giá người ta. Bổn phận chúng
ta là trông coi để nâng đỡ chúng có sự đánh giá đúng đắn.
Liên hệ với
ông bà là nguồn gốc của nhiều sự xung khắc trong gia đình ngày
hôm nay. Sự kiện đó là dấu chỉ của những thay đổi đang xảy ra
trong văn hóa chúng ta và trong sự tách rời khỏi truyền thống
chúng ta. Con gái và con trai có những ý nghĩ hoàn toàn khác
nhau về cách thế con cái nên dược dạy dỗ và cách thế phản ứng sự
can thiệp của bố mẹ họ. Nếu họ cố gắng ép buộc bố mẹ họ chấp
nhận cách thế của họ, họ chỉ làm cho sự liên hệ của họ không
được tốt đẹp thôi. Họ có thể tránh khỏi sự xung khắc với bố mẹ
họ bằng cách nói với người vợ hoặc ông chồng rằng “Anh (hay em)
có thể đúng. Anh (hoặc em) sẽ nghĩ lại chín chắn về vấn đề đó.”
Và bấy giờ hãy làm điều mà họ cảm thấy là đúng. Hãy nhớ rằng ông
bà lúc nào cũng thương mến con cháu. Họ ở trong vị thế có những
đặc quyền mà không có bổn phận nuôi nấng con cháu. Nếu người mẹ
hoặc người cha cảm thấy khó chịu về sự làm hư hỏng của ông bà,
điều đó cho thấy sự bi quan và sự thiếu tự tin vào khả năng
riêng của họ trong việc hướng dẫn đứa trẻ. Bất cứ cố gắng nào để
sửa sai ông bà đều là một sự sai lầm, vô ích, và chỉ tạo nên sự
căng thẳng và xung khắc mà thôi. Sự liên hệ giữa đứa trẻ và ông
bà là công việc của họ. Tuy nhiên chúng ta phải giúp đứa trẻ
trong việc đáp trả đối với ông bà. Một ông bà quá cưng chìu con
trẻ có thể cho đứa trẻ một ấn tượng rằng nó có quyền có cái nó
muốn, và rằng ai chống lại ước muốn của nó là kẻ thù địch. Trong
trường hợp như thế, chúng ta phải giúp đứa trẻ thay đổi đầu óc
của nó. Qua việc giúp đỡ cho sự đáp trả của đứa trẻ, bà mẹ có
thể khiến ông bà ngưng tạo cho đứa trẻ một ấn tượng sai lầm về
cuộc đời và quyền riêng của nó.
Quang Minh 6
tuổi đang đi thăm ba nó, người đã ly dị với mẹ nó và đã tái hôn.
Khi trở về nhà, mũi nó đỏ lên. Bà mẹ quan tâm, hỏi nó cái gì đã
xảy ra. “Bà nội đánh con và làm mũi con đỏ lên” “Sao vậy? Con đã
làm gì? “ “Đọc sách cho bà nội.” “Tại sao bà nội đánh con?” “Vì
con không thể đọc được tiếng khó.” Bà mẹ nổi giận. Chiều hôm đó,
bà gọi cho bố đứa trẻ trong sự giận dữ, và ngày hôm sau bà gọi
luật sư. Một chuyện lớn xảy ra nhưng không có gì là cụ thể từ
chuyện đó.
Trong sự phức
tạp của những tương quan ngày hôm nay, những biến cố như thế
không phải là bất thường. Ly dị và tái hôn tạo nên những tình
cảnh phức tạp cho những đứa trẻ cũng như cho người lớn. Những
hận thù ngày xưa đã gây nên sự ly dị lại được củng cố, và trẻ
con rất nhiều lần cũng chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến.
Chúng lẫn lộn không biết đứng về phía nào để chống lại phía kia.
Người ta có thể tưởng tượng: một đứa trẻ có thể tạo nên những
xáo trộn để chiếm được cảm tình và sự an ủi đặc biệt. Cần thiết
là bà mẹ không nên rơi vào những biến cố như vậy và bà không nên
làm lớn chuyện. Nếu cậu bé không tạo nên một xáo trộn nào trong
một hoàn cảnh phức tạp như thế, cậu bé có thể phát triển một
tương quan tốt với người vợ kế của ông bố. Bà mẹ có thể giúp cậu
bé bằng cách gợi ý cho nó một cách thế hành động để khỏi bi ăn
đòn, chẳng hạn như: “Cưng ơi, đó là sự chọn lựa của con. Mẹ nghĩ
rằng con sẽ tìm thấy cách thế để khỏi có vấn đề với bà nội
con.”
Một người
láng giềng gọi ông bố để phàn nàn rằng cậu bé Quốc Bảo đã chạy
xe đạp tông vào xe đạp của con ông là Văn Minh khiến con ông té
và bị đau. Cả 2 đứa đều 9 tuổi. Ông láng giềng rất giận dữ và
muốn người bố phạt cậu bé Quốc Bảo và bảo nó không được gây
chiến nữa. “Tôi xin lỗi. Ông quá làm lớn chuyện. Nhưng ông không
nghĩ rằng trận chiến giữa hai đứa trẻ là vấn đề của chúng sao?”
Ông láng giềng nhìn một lúc, đoạn nói: “Ông có ý muốn nói gì?”
“Tôi có ý nói rằng tôi không biến điều đó thành việc của tôi để
kiểm soát những liên hệ của bé Quốc Bảo với bạn nó. Tôi bảo đảm
rằng hai đứa trẻ sẽ tạo ra nhiều chuyện nếu để chúng cô đơn.”
“Nhưng con tôi, Văn Minh luôn luôn bị đau đớn. Cậu bé Quốc bảo
luôn làm một cái gì để làm đau đớn nó. Và tôi thì cảm thấy mệt
mỏi rồi.” Ông nầy nghe nói cảm thấy buồn cười vì cậu bé Văn Minh
cao và nặng hơn Quốc Bảo. “Quốc Bảo về nhà nhiều lần cũng đau
đớn vậy! Tôi chỉ cảm thấy rằng nếu ông và tôi để ý công việc
riêng của chúng ta thì hai đứa nhóc cũng sẽ cảm thấy mệt mỏi về
việc bị thương tích đó, và chúng sẽ làm một cái gì về việc đó.”
“Tôi nghĩ đã đến lúc ông nên kiểm soát đứa con ông.” “Tôi không
có ý tưởng nào để làm cho cậu bé ngưng cả, ngoại trừ giới hạn nó
và ở với nó mọi giây phút. Tôi không nghĩ hành động như thế sẽ
giúp nó chơi phù hợp với những đứa trẻ khác và giải quyết được
vấn đề xảy ra giữa chúng với nhau. Dĩ nhiên, tôi sẽ nói chuyện
với con tôi và thử xem tôi có thể giúp nó hiểu được tình cảnh
hay không? Nhưng đó là tất cả những gì mà tôi có thể làm.”
Sau khi ông
láng giềng rời bỏ đi, cậu bé Quốc Bảo đi vào nhà, sau khi nghe
rõ toàn thể cuộc đối thoại, trong cách thế nửa do dự nửa tự mãn.
Ông bố vẫn yên lặng. “Bố ơi, Văn Minh chạy xe ở phía bên cấm.”
“Con ơi, bố không muốn nghe chi tiết. Bố lấy làm lạ: Chớ không
phải con và Văn Minh không thích gây chiến với nhau sao? Xem ra
con làm cho gia đình của nó nổi giận.” Cậu bé chỉ biết cắn răng
ngậm miệng và cười gượng cho xong chuyện. “Có lẽ con và Văn Minh
nên tìm ra cách thế khác để chơi. Đó là sự lựa chọn của con. Bố
xem thử con sẽ làm thế nào về điều đó?”
Giao tiếp với
những người khác là một phần của cuộc đời. Công việc của chúng
ta là giúp trẻ con phát triển những thái độ thích hợp và cách
thức hữu hiệu cho thực tại. Bố của Văn Minh cố gắng kiểm soát
hoặc thay đổi thực tại. Ông không đang giúp cho cậu bé Văn Minh
nhưng đang cho nó một quan niệm sai lầm rằng bố sẽ luôn luôn ở
đó để xếp đặt mọi sự. Câu bé không cần làm một chút cố gắng nào
về phần nó để phát triển nghệ thuật tham gia về vấn đề xã hội.
Trái với Văn Minh, cậu bé Quốc Bảo đã được trao trách nhiệm cho
những vấn đề riêng của nó. Không cần dạy dỗ, ông bố đã gợi ý cho
nó rằng nó phải tái thẩm định cách thế của nó và rồi đã gợi ý
cho sự thích thú của nó bằng câu cuối cùng.
Lm. Lê văn
Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨc Tin - Thánh ThẦn - HIẾn TẾ |
Tác
Phẩm CHÚA VẪN
THƯƠNG
Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss
Phần hai
BẠn cỘng tác
vào Chương trình CỨu ĐỘ
cỦa Thiên Chúa
2.
ĐỨc Tin - Thánh ThẦn - HIẾn TẾ
Bạn hãy xin Chúa một
Đức Tin sống động
Đức Tin là một ân huệ
không bao giờ Chúa từ chối với người kiên nhẫn cầu xin. Đó là
phương thế duy nhất cho bạn có được tiếp sóng với cõi bên kia. Bao
lâu còn tại thế, bạn sống trong bầu khí Đức Tin, pha trộn ánh sáng
và bóng tối, kết hợp với Chúa mà không lãnh hội được Chúa. Tuy
nhiên, càng sống Đức Tin trong đức Mến, bạn càng nhận thức được sự
hiện diện thần linh của Chúa trong bóng tối.
Người công chính sống nhờ
Đức Tin, sự phong phú của họ là nhận thức được những thực tại vô
hình. Lương thực của họ là sự hiện diện của Chúa, cái nhìn của Chúa,
sự trợ giúp của Chúa, đòi hỏi tình yêu của Chúa. Tham vọng của họ là
muốn làm cho Chúa sinh ra và lớn lên trong các linh hồn. Xã hội của
họ là nhiệm thể của Chúa. Gia đình họ là gia đình Chúa Ba Ngôi, mọi
sự đều từ đó mà ra và mọi sự đều quy về đó nhờ Chúa, với Chúa và
trong Chúa. Chúa mời gọi bạn hãy sống chương trình đó một ngày một
hơn.
Bạn hãy trung thành xin
Chúa một Đức Tin sâu xa, vững chắc và tỏa sáng. Đức Tin không chỉ là
kết hợp trí khôn và ý chí với những Chân lý trừu tượng, mà là nhận
thức sự sống động của Chúa, tiếng nói nội tâm của Chúa, sự dịu dàng
yêu thương của Chúa, những ước muốn của Chúa. Bạn hãy nhận biết rằng
Chúa muốn nhận lời bạn, nhưng bạn hãy tha thiết cầu xin hơn nữa.
Lòng tín nhiệm của bạn chứng tỏ tình yêu của bạn đối với Chúa.
Bạn không kêu xin đủ vì
bạn chưa có đủ Đức Tin. Bạn chưa có đủ Đức Tin để tin rằng Chúa có
thể nhậm lời bạn, rằng Chúa có đó chờ đón những ước muốn của bạn.
Bạn chưa có đủ Đức Tin để bền lòng kêu xin. Chúa xem ra giữ im lặng
là để thử thách Đức Tin ấy và gia tăng phần thưởng của bạn. Bạn chưa
có đủ Đức Tin để chú tâm đến tầm quan trọng của những ân huệ bạn
phải đạt được cho bạn và cho người khác, cho Giáo hội và cho thế
giới.
Bạn chưa có đủ Đức Tin để
mãnh liệt ước ao những gì cần thiết cho bao nhiêu linh hồn ngày nay.
Bạn chưa có đủ Đức Tin để thỉnh thoảng đến bên Chúa một giờ. Bạn
chưa có đủ Đức Tin để không cảm thấy sỉ nhục khi bị gạt ra bên lề,
trong khi bạn lại quá hay bỏ rơi Chúa, để Chúa hoàn toàn đứng bên lề
cuộc đời bạn. Bạn chưa có đủ Đức Tin để nhịn đôi món thèm khát vô
ích, trong khi nhờ những hy sinh đó bạn có thể lôi kéo được bao
nhiêu ơn cho các linh hồn.
Chúa thích bạn biết khám
phá Chúa, nhận ra Chúa qua anh chị em bạn, qua thiên nhiên, qua các
biến cố lớn nhỏ. Tất cả là hồng ân và Chúa luôn có mặt.
Bao lâu bạn còn ở trần
gian, mắt bạn như bị băng lại. Chỉ bằng Đức Tin dưới tác động của
Thánh Linh mà bạn nhận thức được sự hiện diện của Chúa, tiếng nói
của Chúa, tình yêu của Chúa. Bạn hãy hành động như bạn nhìn thấy
Chúa.
Chúa tôn trọng con người
biết bao! Chúa không muốn hối hả. Chúa hết sức nhẫn nại, đến đỗi cảm
nhận từng dấu hiệu nhỏ nhặt biểu lộ tình yêu, ngay cả một sự chú ý.
Hãy mở rộng con tim ra với thế giới bao la. Bạn tưởng Chúa không có
chi để đổ đầy nó sao?
Bạn hãy kêu xin
Thánh Thần
Bạn hãy năng kêu đến Thánh
Thần. Chỉ có Ngài mới có thể thanh tẩy bạn, gợi hứng cho bạn, soi
sáng bạn, sưởi ấm bạn, tăng sức cho bạn, làm cho bạn nên phong phú.
Chính Ngài giải thoát bạn khỏi mọi tinh thần thế tục, óc vụ hình
thức bề ngoài hay hẹp hòi thu vào mình. Chính Ngài giúp bạn đánh giá
đúng những sỉ nhục, đau khổ, cố gắng, phần thưởng, trong tổng thể
của Nhiệm Cục Cứu Độ.
Chính Ngài sẽ dọi chiếu sự
khôn ngoan của Thiên Chúa vào mọi trạng thái tâm hồn, vui mừng hay
đau khổ của bạn trong chương trình Quan Phòng của Chúa. Chính Ngài
bảo đảm cho bạn hiệu năng phục vụ Giáo Hội. Chính Ngài sẽ gợi lên
cho bạn những gì phải làm, những gì phải xin, để Chúa có thể hành
động qua hoạt động của bạn và cầu nguyện qua lời cầu nguyện của bạn.
Chính ngài sẽ thanh tẩy
bạn khỏi lý trí, phán đoán, tình cảm, ý chí cá nhân bạn, trong khi
bạn hoạt động. Chính Ngài gìn giữ cuộc sống bạn trong trọng tâm tình
yêu và ngăn cản bạn chiếm lấy cho mình thiện ích Ngài dạy bạn làm.
Chính Ngài đặt lửa vào trong trái tim bạn và làm cho nó linh hoạt
trong hiệp thông với Thánh Tâm Chúa.
Chính Ngài dọi vào trí
khôn bạn những ý tưởng mà bạn không hề nghĩ tới. Chính Ngài soi sáng
cho bạn những quyết định nào thích hợp, cách sống nào đạt tới ơn cứu
độ và lúc nào phải trở lại sa mạc. Chính Ngài sẽ ban cho bạn sức
mạnh để hoạch định công việc và can đảm để tiếp tục, mặc dầu những
trở ngại, những mâu thuẫn và chống đối. Và chính Ngài sẽ gìn giữ bạn
trong bình an, trong thanh tĩnh, trong ánh sáng, trong bền vững,
trong an toàn.
Bạn cần đến Thánh Thần để
Ngài nuôi lớn lên trong bạn tinh thần nghĩa tử đối với Chúa Cha và
tinh thần huynh đệ đối với tha nhân. Bạn cần Thánh Thần để lời cầu
nguyện của bạn được tựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và đạt
được mọi hiệu quả. Bạn cần Thánh Thần để lòng muốn của bạn được
cương quyết, bền bỉ và mạnh mẽ, vì không có Ngài, bạn chỉ là yếu
đuối và khiếm khuyết. Bạn cần Thánh Thần để được sinh hoa kết trái
như Chúa mong muốn, vì không có Ngài, bạn chỉ là tro bụi và khô
khẳng. Bạn cần Thánh Thần để thấy mọi sự như Chúa thấy và nhận ra
được các biến cố trong tổng thể của Lịch sử đích thực. Bạn cần Thánh
Thần để dọn mình bước vào cuộc sống đích thực, để cầu nguyện, yêu
mến và hành động dường như bạn đã đi đến Thiên Đàng.
Bạn hãy tin vào sự hiện
diện của Thánh Thần trong bạn. Nhưng Ngài chỉ có thể hành động và
cho bạn cảm nhận thực tại thiêng liêng của Ngài khi bạn hiệp thông
với Mẹ Maria mà kêu đến Ngài. Bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho bạn và
cho tha nhân, vì Ngài ở trong lòng nhiều người như bị bịt miệng, như
bị trói chặt, như bị bất toại, và chính vì vậy mà thế giới thường đi
sai lạc.
Bạn hãy kêu xin Thánh Thần
cho những người bạn gặp gỡ. Ngài sẽ đến trong mỗi người tùy theo mức
độ cảm thụ của họ. Bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho tất cả các linh
hồn bạn chưa biết mà Chúa ủy thác cho bạn và sự trung thành của bạn
có thể lôi kéo được nhiều ơn huệ quí báu cho họ.
Nhất là bạn hãy kêu xin
Thánh Thần cho các linh mục và những linh hồn dâng hiến để ngày càng
thêm số những người chiêm niệm đích thực trong thế giới hôm nay.
Giai đoạn hậu Công Đồng luôn cho Giáo Hội là một giai đoạn tế nhị mà
kẻ thù con người đang đêm gieo cỏ lùng lẫn vào với lúa tốt. Ai khao
khát Thánh Thần Chúa sẽ được hít thở tình thương của Thánh Tâm Chúa.
Thế giới sẽ bước đi tốt
đẹp hơn, Giáo Hội sẽ sống động hơn và hiệp nhất hơn biết bao, nếu
Thánh Thần được ước ao tha thiết hơn và trung thành vâng phục hơn.
Bạn hãy xin Mẹ Maria đem bạn vào trong nhà tiệc ly của các tâm hồn
nghèo khó và bé nhỏ. Dưới sự hướng dẫn từ mẫu của Mẹ, họ đang kéo
xuống cho thế giới Thánh Thần tình yêu của Chúa một cách phong phú
và hiệu quả.
Hỡi bạn, hãy tín thác.
Chúa muốn càng ngày người ta càng cảm thấy sự sống của Chúa linh
hoạt trong bạn. Tất cả những gì bạn dâng, tất cả những gì bạn làm,
tất cả những gì bạn cho Chúa, Chúa đều đón nhận với tư cách là Đấng
Cứu Thế. Và đến phiên Chúa Giêsu, trong hiệp nhất với Thánh Thần,
Ngài lại dâng lên Chúa Cha, được thanh tẩy khỏi những mơ hồ của nhân
loại và được phong phú nhờ tình yêu của Ngài vì lợi ích của Giáo Hội
và của toàn thể nhân loại.
Chớ chi bạn biết được năng
lực hiệp nhất của Thánh Thần! Ngài hoạt động dịu dàng nhưng
mạnh mẽ trong thâm sâu của các tâm hồn ngay thẳng đặt mình
dưới tác động của Ngài. Nhưng có ít người thực sự kêu đến Ngài, vì
vậy nên biết bao nhiêu quốc gia, biết bao nhiêu cộng đoàn, biết bao
nhiêu gia đình chia rẽ.
Bạn hãy kêu xin Ngài để
Ngài làm lớn lên trong bạn niềm vui của Chúa Ba Ngôi. Chúa muốn đưa
bạn vào trong niềm vui trọn vẹn hiến dâng, trao đổi và hiệp thông
đó. Lửa tình yêu Chúa muốn tràn vào bạn không phải để phá hủy mà để
biến đổi bạn. Chúa muốn đem lại lửa, ánh sáng, bình an và hiệp nhất.
Nhưng bạn cần mãnh liệt ước mong Chúa đến, tăng trưởng và chiếm ngự,
trung thành hy sinh và khiêm tốn, đồng thời để Chúa sử dụng bạn mà
bộc lộ lòng nhân từ của Chúa. Chớ gì, dưới ảnh hưởng của Thánh
Thần Chúa, bạn trở lên mồi lửa tình yêu!
Thời giờ đặt mình dưới tác
động của Thánh Thần và thời giờ cho Chúa khi Chúa xin không bao giờ
mất đi. Thánh Thần không ngừng làm việc trong mỗi người, cũng như
trong mỗi thể chế nhân loại. Nhưng cần những tông đồ trung thành với
những soi dẫn của Ngài, trong sự vâng phục Phẩm Trật đại diện và
tiếp nối Chúa ở giữa trần gian.
Hãy cộng tác tích cực với
Ngài bằng cách tận dụng các tài năng và phương tiện Chúa đã ban cho
bạn. Dù chúng bị giới hạn đến đâu. Cộng tác tích cực với Thánh Thần
nghĩa là làm việc trong sự liên lạc với Chúa và hiệp thông với anh
chị em. Chúa không xin bạn đem vào trong trí não bạn sự khổ đau của
thế giới, cả những cơn khủng hoảng của Giáo Hội Chúa, nhưng là đem
vào trong trái tim bạn, trong lời cầu nguyện của bạn và trong sự
hiến dâng của bạn.
Thánh Thần của Chúa ở với
bạn. Ngài là Ánh Sáng và Sự Sống. Ngài là ánh sáng nội tâm soi dẫn
cho bạn tất cả những gì bạn cần biết và lãnh hội. Ngài không mạc
khải trước cho bạn những ý định của Chúa Cha, nhưng trong Đức Tin,
Ngài cho bạn ánh sáng cần thiết cho đời sống nội tâm và hoạt động
tông đồ của bạn.
Ngài là Sự Sống, nghĩa là
ngài khơi dậy những khát vọng, hướng dẫn những chọn lựa, thúc đẩy
những cố gắng của bạn, đồng thời gia tăng sự sống của Chúa trong
bạn, dùng đời sống nghèo hèn và những phương tiện yếu đuối của bạn
mà hoạt động, như dầu thấm vào làm cho những hoạt động của con người
được dễ dàng và hiệu quả.
Thánh Thần đổ xuống trên
người nào thì người đó được biến đổi. Chớ gì lòng ước ao Thánh Thần
đến trong bạn và trong Giáo Hội ngày một mạnh mẽ hơn! Chính bạn sẽ
kinh ngạc về những kết quả nơi bạn và nơi những ai bạn đã kêu xin
Thánh Thần cho họ.
Bạn hãy ở trong
trạng thái hiến dâng
Chúa Giêsu là Đấng dâng
hiến. Bạn hãy liên kết vào của lễ của Ngài dâng lên chúc tụng Chúa
Cha tất cả những niềm vui của con người: niềm vui của tình bằng hữu,
niềm vui của nghệ thuật, niềm vui vì được nghỉ ngơi, niềm vui khi
công việc hoàn tất, nhất là niềm vui được mật thiết với Chúa, được
tận tụy phục vụ Chúa trong tha nhân.
Bạn hãy dâng Chúa “mộc
dược” của tất cả những khổ đau con người: đau khổ trong tâm trí, đau
khổ trên thân xác, đau khổ trong tâm hồn, đau khổ của những người
hấp hối, đau khổ của những người tù đày, đau khổ của những người
hoạn nạn, đau khổ của những người phải đơn chiếc… Một cách dịu dàng,
trầm lắng, yêu thương, bạn hãy kêu xin Chúa hãy đến cứu giúp tất cả
những ai đang phải đau khổ, và bạn hãy liên kết những đau khổ đó với
những đau khổ của Chúa để kéo lôi được những ơn an ủi và nâng đỡ cho
họ.
Bạn hãy dâng cho Chúa
“vàng” của tất cả những hành vi bác ái, tốt bụng, niềm nở, dễ
thương, tận tụy gieo vãi khắp trên trần gian. Chúa nhìn mọi sự với
con mắt yêu thương và cái Chúa kiếm tìm chính là những cố gắng của
con người để có được một tình yêu đích thực dựa trên căn bản của sự
quên mình.
Bạn hãy dâng cho Chúa tất
cả để Chúa khích lệ và nuôi dưỡng chúng ngõ hầu Chúa được lớn lên
trong thế giới. Sự hiến dâng chính là chìa khóa mở tuôn những ngọn
sóng ân sủng cho các linh hồn. Xét bề ngoài thì chẳng đáng là bao
cái cử chỉ, cái ý tưởng Chúa hiến dâng cho những người đau khổ,
những người cô đơn, những người thất vọng, những người chiến đấu,
những người vấp ngã, những người than khóc, những người lâm chung,
và cả những người không nhận biết Chúa hay bỏ Chúa sau khi đã theo
Chúa…
Bạn hãy dâng cho Chúa toàn
thể thế giới: tất cả những linh mục trên thế giới, tất cả các tu sĩ
trên thế giới, tất cả các tâm hồn nhiệt thành trên thế giới, tất cả
những tâm hồn chiêm niệm, tất cả những người nguội lạnh, tất cả
những người tội lỗi, tất cả những người đau khổ…
Bạn hãy dâng cho Chúa mọi
ngày trong suốt năm, tất cả những ngày giờ hạnh phúc vui vẻ, cũng
như tất cả những ngày giờ khổ đau buồn bã. Bạn hãy dâng cho Chúa để
Chúa làm tràn qua chúng một tia hy vọng, và như vậy Chúa sẽ lớn lên
trong nhiều tâm hồn. Chỉ một mình Chúa có thể đổ đầy những khát vọng
sâu xa của họ về vĩnh cửu, công lý, hòa bình mà chỉ một mình Chúa có
thể ban cho họ.
Mỗi ngày một hơn, bạn hãy
sống cho tha nhân, hiệp thông với tất cả. Bạn hãy quy tụ họ lại nơi
bạn vào giờ cầu nguyện, cũng như lúc nghỉ ngơi. Trong bạn và nhờ
bạn, Chúa lôi kéo đến cùng Chúa các linh hồn mà bạn đem trình diện
trước mặt Chúa. Bạn hãy tha thiết ước ao Chúa là ánh sáng, là cứu
độ, là niềm vui cho họ. Chính nhờ những ước muốn tha thiết như thế
được nhân thêm mãi trên khắp thế giới mà nhiệm thể của Chúa được
kiến tạo và tăng triển.
Hãy dâng cho Chúa những
đau khổ của con người để Chúa nâng đỡ và sử dụng cho lợi ích của họ.
Cũng hãy dâng cho Chúa tất cả niềm vui trên mặt đất để Chúa thanh
luyện và làm cho chúng lớn thêm lên bằng cách liên kết chúng với
niềm vui của Chúa và niềm vui của các thánh ở trên trời.
Hãy dâng cho Chúa tội lỗi
của thế gian để Chúa tha thứ và nhận chìm chúng đi trong máu tẩy rửa
của Chúa. Cũng hãy dâng cho Chúa những hành vi nhân đức, những chọn
lựa đã được chu toàn cho Chúa và cho tha nhân để Chúa ban cho chúng
chiều kích vĩnh cửu.
Hãy dâng cho Chúa những gì
không xuôi chảy trên mặt đất, để Chúa đem lại trật tự và bù đắp
những thiệt hại. Cũng hãy dâng cho Chúa những gì trôi chảy tốt đẹp,
từ sự trong sạch của trẻ thơ, can đảm của thanh niên, khiết trinh
của thiếu nữ, tận tụy của bà mẹ, quân bình của người cha, độ lượng
của người già, nhẫn nại của bệnh nhân, hiến dâng của người hấp hối,
một cách tổng quát là tất cả những hành vi yêu thương phát ra từ
trái tim con người.
Có nhiều cái tốt đẹp mà
người ta không ngờ trong tâm hồn của nhiều anh chị em của bạn, có
khi còn tuyệt hảo hơn mà người ta chẳng để ý. Nhưng Chúa thấy tận
sâu thẳm của mỗi người và xét đoán với bao dung và nhân từ. Chúa
thường khám phá ra dưới đống tro những đồng tiền vàng. Bạn hãy dâng
cho Chúa để Chúa làm cho chúng thêm giá trị. Như vậy, nhờ cử chỉ
hiến dâng mà Tình Yêu lớn lên trong trái tim con người và cuối cùng
chiến thắng được hận thù.
Bạn đừng ngã lòng khi phải
sống, hành động và đau khổ cho tha nhân, quen biết hay không quen
biết. Ở trần gian này bạn không thấy hết được những gì bạn thực
hiện, nhưng Chúa bảo đảm với bạn rằng không có cái gì bạn hiến dâng
liên kết với lời cầu nguyện, hiến dâng và tạ ơn của chính Chúa bị
mất đi. Như thế, bạn sẽ làm cho nhiều tâm hồn xa lạ được hội tụ với
Chúa, nhờ đó khi giờ đến, dù phải trải qua những trở ngại trên đường
trần thế, họ sẽ được cứu độ. Chính Chúa sẽ định cho mỗi người cách
thế cộng tác mà Chúa chờ đợi.
Mỗi lúc một hơn, bạn hãy
trung thành liên kết trong Chúa tất cả những lời cầu nguyện, tất cả
mọi hoạt động, tất cả những cử chỉ của lòng tốt, tất cả những niềm
vui cũng như những nhọc nhằn, tất cả những khổ đau và hấp hối của
con người để chúng được thanh luyện và giúp vào việc hồi sinh thế
gian.
May mắn thay thế giới hiện
nay có nhiều tâm hồn quảng đại giúp kẻ khác gặp Chúa, nhận biết
Chúa, nghe Chúa. Lời kêu gọi của Chúa có lẽ sẽ được lắng nghe hơn và
nhiều người, khi hướng về Chúa trong thâm cung lòng mình, sẽ tìm
được triển nở và cứu độ.
Chớ gì bạn đừng để mất
thời giờ trong những hội họp vô bổ và năng đến với Chúa hơn. Sở dĩ
Chúa đã chọn bạn là để bạn nối kết với sự hiến dâng của Chúa, hầu
cộng tác vào việc kéo lôi được nhiều anh chị em của bạn trở về. Bạn
hãy đến và ở bình an trước mặt Chúa. Hãy đến với Chúa, nhưng đừng
đến một mình, bạn hãy nghĩ đến đoàn dân đông đảo mà Chúa chạnh lòng
thương và biết rõ từng yếu tố của những nỗi buồn phiền, âu lo và nhu
cầu bức thiết của mỗi người.
Không một người nào trong
họ không được Chúa quan tâm đến. Nhưng Chúa không muốn làm chi mà
không có sự cộng tác của những người mà Chúa đã đặc biệt dành riêng
ra để phục vụ họ. Nhiệm vụ bao la và mùa gặt phong phú, nhưng thợ
gặt, những người thợ đích thực trung thành đặt việc tìm kiếm Nước
Chúa lên hàng đầu thật quá ít.
Bạn hãy tha thiết nối kết
lời cầu nguyện của bạn vào lời cầu nguyện của Chúa dâng lên Chúa Cha
là chủ mùa gặt, bạn sẽ thấy con số các tông đồ chiêm niệm và những
nhà đào tạo thiêng liêng lớn lên và nhân nhiều ra. Bất cứ ở đâu Chúa
cũng gióng lên một lời yêu cầu đó với các tâm hồn quảng đại trong
các cộng đoàn và trong thế giới. Dĩ nhiên, con số chưa đủ để đáp
ứng, nhưng "phẩm cũng bù cho lượng", điều chính yếu là họ hãy
cầu nguyện trong Chúa và nối kết sâu xa với lời cầu nguyện của chính
Chúa ở trong họ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐAU TIM, TỨC NGỰC
|
Trong suốt cuộc đời, thế nào chúng
ta cũng có lúc ôm ngực kêu đau.
Có người thì hơi đau một chút đã
hoảng hốt la làng là đang bị cơn-đau-tim và vội vàng kêu xe cấp
cứu. Ngược lại thì cũng có người mặt xanh như tầu lá, ngực nhói
đau thì lại bảo vì ăn không tiêu, uống vài viên chống acit là
ổn.
Cả hai thái độ coi bộ đều cần được
xét lại.
Thành ra, thêm một chút
hiểu biết về những cơn đau từ ngực tưởng cũng không phải là dư.
Lồng ngực
Ngực là khoảng trống trước của cơ
thể, nằm giữa cổ và hoành cách mô.
Các xương của ngực kết hợp với
nhau thành một cái chuồng hình nón.
Mười hai xương sườn là chấn song
của lồng ngực. Xuơng sườn nối với xương ức ở phía trước và các
đốt sống ở phía sau.
Giữa các xương sườn là khoảng cách
liên sườn, trong đó có dây thần kinh, mạch máu và cơ.
Lồng ngực bao bọc và che chở cho
hai lá phổi, trái tim, thực quản và các bộ phận phụ thuộc.
Thực quản là ống dẫn thực phẩm từ
miệng xuống bao tứ, nằm sau xương ức.
Từ trái tim đi ra là động mạch
chủ, chạy dọc xuống dưới, phân phối máu đỏ có nhiều dưỡng khí để
nuôi tế bào.
Tĩnh mạch chủ chạy từ phía dưới cơ
thể lên tim, chuyển máu có nhiều khí carbon, rồi lên phổi để đổi
lấy dưỡng khí.
Dưới lồng ngực là xoang bụng chứa
các bộ phận như dạ dày, ruột già ruột non, gan, lá lách, tuyến
tụy, thận, bọng đái. Các bộ phận này nằm sát ngay dưới lồng
ngực.
Ngực và bụng ngăn cách nhau bằng
cơ hoành. Khi áp xuất trong bụng tăng, các bộ phận này cũng ép
lên lồng ngực.
Với sự sắp đặt như vậy, cơn đau
ngực có thể là từ nhiều cơ quan khác nhau, chứ không riêng gì từ
trái tim.
1- Đau không từ trái tim
a. Bệnh của túi mật như viêm hoặc
sỏi mật đôi khi cũng gây đau tương tự như cơn đau của tim.
b. Chứng ợ chua với chất acit từ
bao tử trào ngược lên thực quản, tạo ra cảm giác nóng cháy sau
xương ức.
c. Viêm màng bọc hai lá phổi vì
sưng phổi gây ra cảm giác đau, nhất là khi ho hoặc hít thở mạnh.
d. Đau khi gẫy nứt xương sườn hoặc
viêm lớp sụn nối tiếp xương sườn với xương ức.
e. Đau nhức các cơ liên sườn hoặc
khi dây thần kinh bị kẹp.
g. Đau ngực trong các bệnh phổi
như phổi tràn khí phế mạc (pneumothorax), hen suyễn, nghẽn động
mạch phổi.
h. Trong bệnh zona do virus thủy
đậu gây ra, đau nhức từ sau lưng tới lồng ngực kèm theo một dải
những mụn nước.
i. Nuốt nhiều không khí khi vội
vàng ăn hoặc uống nước có hơi hoặc uống với ống hút. Không khí
làm căng bao tử, tạo ra cảm giác đau đau ở phía trái bụng dưới.
Người đang tức giận bực mình cũng nuốt nhiều hơi trong khi ồn
ào, hổn hển diễn tả lời nói.
k. Nằm ngủ với cánh tay, bả vai ở
vị thế bất bình thường cũng đưa tới đau ngực.
l. Trong cơn hoảng sợ, tim đập
nhanh, hơi thở dồn dập, đổ mồ hôi, hụt hơi thở cũng thường có
cơn đau trước ngực.
2- Đau từ trái
tim
Đau từ trái tim cũng có nhiều
loại:
a- Cơn-đau-thắt-ngực,
tiếng Anh gọi là
angina pectoris. Angina có nghĩa đau như co thắt, xiết chặt trái
tim lại (constricting pain). Pectoris là lồng ngực.
Năm 1768, bác sĩ người Anh William
Heberden là người đầu tiên tả cảm giác này một cách ngắn gọn,
linh động như sau: “Người bị cơn đau thắt ngực hành hạ khi đang
đi lên một con đường dốc hoặc sau khi ăn no. Đau rất khó chịu
tưởng như có thể chết đi được nếu cơn đau cứ tiếp tục. Nhưng may
mắn là khi người đó nghỉ thì cơn đau hết tức thì”.
Đau của angina cho cảm giác như co
thắt toàn thể hoặc phần ngực nằm sau xương ức, lan lên cổ, hàm,
má, bả vai, cánh tay và xuống cả vùng giữa bụng hoặc giữa hai
xương bả vai.
Đau thắt ngực thường xảy ra khi ta
leo lên một ngọn đồi hoặc bước những bậc cầu thang lên lầu, khi
đi trong gió lạnh, mang vật nặng, cào lá, làm vườn, xúc tuyết,
vươn mình chạy đỡ đường banh quần vợt, đang coi một truyện phim
nhiều kích động, đôi khi cả trong lúc hấp dẫn giao hợp hoặc
những cơn thịnh nộ, lo âu. Cũng có trường hợp đang ngủ, cơn đau
xuất hiện đánh thức nạn nhân bừng dậy ôm ngực nhăn nhó.
Mỗi cơn đau như vậy kéo dài không
quá 10 hoặc 20 phút và hầu như chầm dứt khi ta ngưng hoạt động
đã gây ra cơn đau. Hoặc đặt dưới lưỡi một viên nitroglycerin. Và
khi được hỏi đau ở đâu thì hầu như mọi người đều chỉ vào ngực
với cả bàn tay chứ không với một ngón tay.
Tại sao có cơn đau thắt ngực như
vậy?
Thưa đau là tiếng kêu cứu, phản
kháng của trái tim bị bỏ đói, thiếu dưỡng khí mà còn bị lạm dụng
bóc lột sức lao động quá mức.
Với kích thước bằng nắm tay, trái
tim co bóp liên tục ngày đêm 70 lần trong một phút để bơm ra,
hút vào một lượng máu khổng lồ là 6 tấn máu vào cả ngàn cây số
mạch máu mỗi ngày.
Để hoàn tất nhiệm vụ của một cái
bơm, các cơ của tim cần được nuôi dưỡng với oxy. Động mạch vành
lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng này.
Động mạch vành có hai nhánh chính
trước và sau tim và các nhánh phụ bao phủ toàn bộ trái tim như
một cái vương miện. Bình thường, tim và động mạch có khả năng
thích nghi, làm việc nhiều hơn một chút để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng khi cơ thể hoạt động mạnh mẽ hơn.
Động mạch vành có đường kính
khoảng từ 2-3 mm, vừa đủ rộng để chứa một chiếc que diêm.
Nhưng khi động mạch vành bị thu
hẹp, sự nuôi dưỡng cơ tim giảm đi. Cơ tim gào thét bằng những
cơn đau, để báo động cho con người là họ đang trong tình trạng
hiểm nghèo.
Thu hẹp thông thường của động mạch
là do những mảng chất béo cholesterol bám vào thành động mạch
vành. Cholesterol cần cho cơ thể, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải.
Nếu cao quá thì chúng phải kiếm chỗ để dung thân. Mà gần nhất là
ở ngay các động mạch mà chúng đang lưu hành. Đó là sự Vữa Xơ
Động Mạch (Atherosclerosis).
Khởi thủy là lớp màng lót của một
chỗ nào đó trong động mạch trở nên mềm rồi một thời gian sau
cứng lại. Cholesterol bắt đầu bám vào đó, mỗi ngày mỗi cao hơn.
Khoáng chất calci trong máu cũng nhân cơ hội táp vô, làm mảng
cứng, khó tan.
Diễn tiến của sự vữa xơ rất chậm,
có khi cả năm và không có triệu chứng báo hiệu. Con người vẫn
“vô tư” ăn uống, với nhiều chất béo cholesterol rất ngon miệng
trong món ăn. Lòng động mạch thu hep dần dần và khi đường kính
động mạch giảm tới 75% thì chuyện chẳng lành xảy ra. Đó là cơn
đau-thắt-ngực, angina.
Mỗi cơn đau tại một vùng cơ thể là
một lời cảnh cáo, một báo hiệu có hiểm nguy, khó khăn đâu đó. Để
con người biết mà đề phòng, đối phó, chữa trị.
Trái tim thiếu nuôi dưỡng, làm
việc quá sức và kêu đau. Nếu ngưng nguyên nhân gây đau, tim dịu
xuống, hết nhăn nhó.
Cũng có một số trường hợp, vữa xơ
không đưa tới cơn đau thắt ngực. Đó là ở những người mà động
mạch vành thu hẹp đã tạo ra được vài mạch máu bên lề
(collateral), vòng qua đường hẹp tắc, dẫn máu nuôi tim.
Hiện tượng vữa xơ cũng thấy ở các
động mạch nuôi thận, nuôi não, nuôi ruột, nuôi tứ chi.
Ở não, vữa xơ gây ra tai biến não
(stroke). Ở thận đưa tới suy thận, phải lọc máu, thay thận. Ở
chân đưa tới khập khiễng cách hồi (clauditation intermittant)
với đau bắp vế khi đi, khi chạy, hết đau khi ngồi khi nghỉ…
Những rủi ro đưa tới vữa xơ là cao
huyết áp, béo phì, cao cholesterol trong máu, phì phèo thuốc lá
luôn miệng, tiểu đường, không vận động cơ thể, căng thẳng tâm
thần…
Để xác định cơn-đau-thắt-ngực, bác
sĩ cần tìm hiểu y sử người bệnh, hoàn cảnh nào angina xảy ra,
cơn đau như thế nào, thường thường nạn nhân làm gì để giảm cơn
đau.
Rồi khám tổng quát, nghe nhịp
tim, đo điện tâm đồ khi bệnh nhân nghỉ và sau khi bệnh nhân bước
lên chục bực thang hoặc đi trên máy đi bộ (treadmill).
Angina thường thường giảm hết sau
khi ngưng động tác gây ra nó hoặc sau khi dùng nitroglycerin.
Nitroglycerin
là dược phẩm có tác dụng trị liệu rất lớn và thường được dùng để
loại bỏ cấp kỳ cũng như giảm tần số và phòng tránh các cơn
angina.
Thuốc làm giãn mở động mạch vành,
khiến cho máu lưu thông tới tim nhiều hơn để giải tỏa cơn đau
kêu gào thiếu dưỡng khí của cơ tim. Thuốc cũng làm giãn mở mạch
máu toàn thân, nhờ đó tim cũng bớt phải co bóp mạnh hơn để bơm
máu ra.
Thuốc được đặt dưới lưỡi để tự tan
ngấm váo máu và tác động tức thì. Nhớ đừng nhai đừng nuốt
nitroglycerin.
Cũng có loại nitroglycerin dạng mỡ
thoa trên ngực với tác dụng kéo dài vài giờ.
Dùng thuốc theo hướng dẫn của bác
sĩ. Nếu viên đầu không thấy công hiệu, có thể dùng thêm một viên
nữa. Và nếu cơn đau không giảm sau khi dùng thuốc 15 phút, nên
cho bác sĩ hay ngay.
Cơn đau liên tục xẩy ra cần được
điều trị tại nhà thương, vì rất có thể là ta bị cái đau của
cơn-đau-tim, Heart attack.
Để được an toàn, nên nghĩ tới
heart attack khi angina không thuyên giảm với nghỉ hoặc với hai
ba viên nitroglycerin.
Cũng nghĩ tới heart attack nếu
chưa bao giờ bị angina mà bây giờ chợt bị đau nơi ngực, không
bớt khi ngưng công việc đang làm.
b- Cơn-đau-tim
Trên đây là đau-nghỉ-hết đau.
Bây giờ là đau, nghỉ cũng chẳng
hết mà lại có nhiều nguy cơ nghỉ luôn trong lòng đất. Đó là
cơn-đau-tim, heart attack.
Heart attack cũng báo hiệu bằng
cơn đau trước ngực, đau như trái tim bị kẹp giữa hai ngàm của
chiếc máy ép nước mía, kéo dài nhiều giờ và không thuyên giảm
cho tới khi được cấp cứu (với morphine). Đau cũng xuất hiện ở
vùng trên bụng, lan lên cổ, ra hai vai, tới cánh tay và có khi
vòng ra sau lưng.
Bệnh nhân ở trong tình trạng lo
sợ, toát mồ hôi lạnh, mặt xanh như tàu lá, ợ hơi (belching), ọe
khan hoặc ói mửa. Thêm vào đó là cảm giác hụt hơi thở, hổn hển
ngáp ngáp không khí, tim đập nhanh.
Ở nữ giới và lão niên, các dấu
hiệu nhiều khi không rõ rệt, chỉ cảm thấy mệt mỏi, yếu sức khiến
cho họ không nhận ra là đang trong cơn hiểm nghèo.
Nguyên do đưa tới heart attack
cũng bắt nguồn từ những mảng cholesterol trong động mạch. Tới
một lúc nào đó, một mảnh của mảng này tách ra, tạo thành ra một
máu cục, di chuyển tới động mạch tim và hoàn toàn gây tắc nghẽn
sự lưu thông máu tới nuôi tế bào tim. Tế bào chết vì thiếu oxy,
mà y học gọi là nhồi-máu-cơ-tim (myocardial infarction).
Ngoài ra, heart attack cũng gây do
một số nguy cơ khác như gia đình có người bị nan bệnh này, do
hút nhiều thuốc lá, do cao huyết áp, tiểu đường, lạm dụng thuốc
cấm cocaine…Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, các rủi ro này
kết cấu với nhau để gây ra thiệt hại cho trái tim và đưa tới
heart attack.
Xác định heart attack bằng khám
tổng quát, đo điện tâm đồ, chụp x-quang tim và thử máu tìm mức
độ men tế bào tim. Khi tế bào tim bị hủy hoại, chúng nhả ra
những enzyme và tế bào càng chết nhiều thì enzyme trong máu càng
cao.
Cơn-đau-tim là một cấp cứu y khoa
vì tử vong có thể xảy ra trong vài chục phút. Nhiều người thiệt
mạng trước khi tới bệnh viện vì họ coi thường các dấu hiệu báo
động.
Bệnh nhân thiệt mạng phần lớn là
do rối loạn nhịp tim. Nhịp tim nhanh loạn xạ (tachycardia), rung
tim thất (ventricular fibrillation) đưa tới tim rung rinh
(quivering), co giật (twitching) thay vì co bóp (beating) và
cuối cùng là ngưng tim, nhiệm vụ bơm máu chấm dứt.
Do đó, các cơn đau ngực đều nên
coi là khẩn cấp. Nếu bất cứ dấu hiệu nào mà ta nghĩ là có thể
xuất phát từ trái tim, thì kêu cấp cứu ngay.
c- Viêm màng bọc
trái tim
Màng bọc trái tim hoặc
ngoại-tâm-mạc (pericardium) là một cái màng bao quanh tim để che
chở cho cơ quan nhỏ bé nhưng quý giá này. Màng có thể bị viêm vì
nhiễm virus, chứng ure huyết, ung thư và có các triệu chứng như
đau ngực, nóng sốt…
d- Rách động
mạch chủ
Động mạch chủ (aorta) là động mạch
chính của cơ thể, xuất phát từ tâm thất trái, uốn cong phía trên
tim rồi chạy xuống ngực và bụng, phía trước xương sống.
Khi bị một cú đập mạnh vào ngực,
hoặc khi huyết áp lên quá cao, lớp màng lót của động mạch chủ có
thề bị rách (aorta dissection), tạo ra một cơn đau ngực không
lường trước, rất dữ dội, có thể chết ngưới. May mắn là chuyện
này rất hiếm khi xảy ra.
e- Co thắt cơ
của động mạch vành
Đôi khi cơ của động mạch vành co
thắt và cũng đưa tới đau ngực từng cơn. Nguyên do có thể là tự
nhiên co hoặc bị các chất như nicotine, caffeine kích thích. Co
thắt xảy ra khi nghỉ cũng như đang hoạt động.
Kết luận
Đó là những cơn đau ngực với các
nguyên nhân. Biết chúng để đối phó với chúng là điều cần, vì cẩn
tắc vô ưu, cứu bệnh như cứu hỏa.
Bác sĩ chuyên bệnh Tim Mạch Harvey
Simon, Đại học Y khoa Harvard, thường nói với các sinh viên của
ông rằng: “Dấu hiệu thông thường nhất của cơn-đau-tim là cơn đau
thắt ngực và dấu hiệu thứ nhì là sự phủ nhận denial, vùi đầu
trong cát. - Ôi chỉ một chút căng thẳng, khó tiêu, hết ngay ấy
mà!”.
Và ông đề nghị: với mọi nhói tim, nặng
ngực, khó thở, cần tham khảo ý kiến bác sĩ ngay. Kẻo rồi lại quá
trễ.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI
Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Nói theo kiểu “nhà đạo” thì
ngôn ngữ và tiếng nói là một quà tặng, Thiên Chúa đã trao ban
cho con người, để truyền đạt tư tưởng và ý muốn của mình cho
người khác, nhờ đó mà hiểu biết và xích lại gần nhau hơn.
Chính vì thế, gã có thể xác
quyết :
- Người là một con vật có
ngôn ngữ, có tiếng nói.
Thế nhưng, ngày nay người ta
đang tìm hiểu xem liệu loài vật có ngôn ngữ và tiếng nói hay
không ? Chẳng hạn tiếng hót của loài chim. Mấy người chuyên nghề
đi bẫy đã thu tiếng chim hót vào băng “cát sét”, rồi sau đó đem
ra ngoài cánh đồng và mở vang để dụ khị những con chim khác và
thế là chúng bị…sập bẫy.
Tuy nhiên nếu có chăng nữa,
thì cũng chỉ là một phương tiện còn rất thô sơ, chứ chưa thể
được phát triển thành hệ thống như ngôn ngữ và tiếng nói của
loài người.
Theo Thánh Kinh, thì thuở ban
đầu con người có chung một ngôn ngữ, một tiếng nói. Thế rồi vì
hè nhau xây một ngọn tháp chọc trời, được gọi là ngọn tháp
Baben, như một đối chọi với quyền năng Thiên Chúa, nên Ngài đã
khiến cho ngôn ngữ và tiếng nói của họ trở nên bất đồng, nên
phải phân tán, mỗi người đi một phương.
Không biết câu chuyện trên
thực hư như thế nào xét theo phương diện lịch sử, nhưng từ đó gã
có thể rút ra hai điểm :
Một là chắc chắn ngày xửa
ngày xưa nhân loại đã có chung một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng
nói, bởi vì hiện giờ vẫn còn nhiều tiếng giống nhau nơi ngôn ngữ
của các dân tộc. Chẳng hạn như :
- Ba, phụ, pater, père,
father…
- Má, mẫu, mater, mère,
mother…
Hai là do môi trường và hoàn
cảnh sống, dần dần những khác biệt nảy sinh, và những khác biệt
này mỗi ngày một gia tăng và liên tục phát triển theo kiểu “tam
sao thất bổn”, để rồi hình thành những ngôn ngữ, những tiếng nói
riêng của tùng bộ tộc, của từng sắc dân.
Theo một giả thuyết có phần
sát với thực tế và được nhiều người nêu lên, đó là dân Việt
chúng ta là dòng giống Bách Việt, ngày xưa sống tại lưu vực sông
Dương Tử, thuộc tỉnh Chiết Giang bên Tàu. Trước hiểm họa bị đồng
hóa với người Tàu và các sắc dân khác, một số đã tách khỏi nhóm
Bách Việt và di cư xuống miền nam, lấy tên là Lạc Việt.
Dù sao chăng nữa thì đây cũng
chỉ là một giả thuyết, nhưng ít nhiều cũng ẩn chứa một chút sự
thật nào đó. Chẳng hạn ai trong chúng ta cũng đều biết câu
chuyện : Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, đẻ ra một cái bọc, và trong
cái bọc ấy có một trăm trái trứng, nở ra một trăm người con. Rồi
sau đó, năm mươi người theo cha lên núi và năm mươi người theo
mẹ xuống biển…Chính vì thế, nảy sinh hai chữ “đồng bào” nghĩa là
cùng một bọc, để ám chỉ anh chị em cùng cha cùng mẹ, hay những
người cùng một dòng giống, cùng một quê hương đất nước.
Huyền thoại này cắt nghĩa
được sự hiện diện của dân Việt và dân Mường, một sắc dân thiểu
số, sinh sống từ Đà Giang đến Thanh Nghệ. Rất có thể cả hai cùng
một dòng Lạc Việt ở phía bắc, rồi sau mới chia thành hai : dân
Mường sống trên rừng trên núi, còn dân Việt xuống đồng bằng và
ra biển.
Về phương diện ngôn ngữ và
tiếng nói, có thể nhóm Lạc Việt ngày xưa đã nói một thứ ngôn
ngữ, phần trọng yếu còn trong tiếng Mường, vì Mường và Việt có
nhiều tiếng tương tự với nhau. Chúng ta cũng có thể xác quyết :
tiếng Mường là hình thức tối cổ của tiếng Việt, hay nói cách
khác : tiếng Lạc Việt ngày xưa không xa mấy với tiếng Mường ngày
nay, nhờ những vay mượn từ bên ngoài, dần dần đã trở thành tiếng
Việt.
Có một nhà ngôn ngữ học người
Pháp, mà gã quên tiệt mất tên, đã phán như thế này :
- Tiếng Việt là “mère des
langues”, là mẹ của các ngôn ngữ.
Rồi ông ta đưa ra những bằng
chứng :
Thứ nhất : tiếng Việt là
tiếng đơn âm, mà đơn âm là hình thức cổ xưa nhất của ngôn ngữ.
Một đứa trẻ khi bập bẹ tập nói, nó không thể nói nhiều âm nhiều
tiếng, mà mỗi tiếng phải là một âm.
Thứ hai, các ngôn ngữ khác
trên thế giới đều ít nhiều mang dấu ấn của tiếng Việt, như gã đã
đưa ra chữ ba, chữ má làm điển hình.
Thứ ba tiếng Việt có đủ các
âm, nên con em của chúng ta học sinh ngữ tương đối không khó
khăn. Trong khi đó người Tàu không đọc được âm B. Bất cứ chữ B
nào, họ cũng phang thành P hết ráo trọi. Vì thế, phải hỏi lại
cho kỹ :
- B bò, hay B phở.
Còn dân “Phăng xe” chính hiệu
con gà cồ, thì lại không nói được âm H, thành thử họ đọc “haut”
thành “ô” và “les héros” thì cũng giống như “Zéros” mà thôi.
Khi nghe lời phát biểu của
ông tây trên kia, gã đã phổng mũi và rất lấy làm hãnh diện. Tuy
nhiên, sự thật có đúng như vậy hay không, thì còn phải chờ những
“ngâm kíu” nghiêm túc khác nữa.
Tuy nhiên, gã có thể chắc
chắn điều này, đó là từ ngàn xưa, dân Việt đã có một thứ ngôn
ngữ, một thứ tiếng nói riêng, không giống với tiếng Tàu. Sách sử
Tàu cho biết :
“Vào năm Tân Mão, đời vua
Thành Vương nhà Chu (1108), có nước Việt phía nam sai sứ đem
chim bạch trĩ sang cống, phải thông ngôn ba lần mới hiểu…”
Tiếng nói ấy, ngôn ngữ ấy còn
rất mộc mạc, nhưng rồi cùng với thời gian, đã được tinh luyện để
đi vào lòng người với những câu tục ngữ ca dao tuyệt vời :
- Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng
đổ đi.
Có tiếng nói, có ngôn ngữ thì
dân tộc nào cũng có, nhưng để ghi lại tiếng nói ấy, ngôn ngữ ấy
bằng chữ viết, thì không phải dân tộc nào cũng có.
Gã nghiệm ra rằng : Dân Việt
thuở ban đầu chưa có một thứ chữ viết riêng. Tất cả chỉ là
“truyền miệng” với nhau mà thôi, như tục ngữ, ca dao, vè, câu
đố, chuyện cổ tích…tất cả làm thành cái kho tàng văn chương bình
dân, hay văn chương truyền khẩu.
Sau khi tiếp xúc với người
Tàu, đồng thời trước nhu cầu phải ghi lại những ý tưởng của
mình, người ta đã học tiếng Tàu và ghi lại bằng chữ Tàu.
Tuy nhiên vì tự ái dân tộc,
muốn có được một bản sắc riêng, một cung cách riêng, các nhà nho
đã “phệu ra” một cách viết khác, đó là chữ Nôm, để ghi lại những
ý nghĩ của mình, mà người Tàu cũng khó lòng biết được.
Chữ Tàu đã khó, chữ nôm lại
càng khó hơn, vì thế một số nhà nho chính hiệu con nai vàng ngơ
ngác, đã phải chép miệng phê bình :
- Nôm na là cha mánh khóe.
Khi các nhà truyền giáo đặt
chân tới Việt Nam, vì nhu cầu cần phải dọn những bài giảng của
mình, các ngài đã dùng mẫu tự La tinh để ghi lại tiếng Việt và
tạo thành chữ Quốc ngữ mà chúng ta hiện nay đang sử dụng.
Đây là một công trình của
nhiều người qua nhiều thời gian khác nhau, nhưng người có công
đầu hẳn phải là cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Cuốn sách đầu
tiên cha đã viết bằng Việt ngữ với mẫu tự La tinh, đối chiếu với
La ngữ và Pháp ngữ, đó là cuốn :
- Phép giảng tám ngày -
Cathechismus in octo dies divisus – Catéchisme divisé en huit
jours.
Cuốn sách này được xuất bản
tại Rôma năm 1651. Cùng năm ấy cha còn xuất bản cuốn Tự điển
Việt La Bồ.
Có một thời người ta đã hô
hào :
- Chữ quốc ngữ,
Tiếng nước ta,
Con cái nhà,
Mau học lấy.
Người phương tây rất lấy làm
ngạc nhiên khi thấy giữa vùng Đông Nam Châu Á này lại có một dân
tộc với chữ viết bằng mẫu tự La tinh giống như họ, khiến họ phải
tâm phục khẩu phục.
Sỡ dĩ gã phải dài dòng văn
tự, cà kê dê ngỗng như vậy là để bàn dân thiên hạ thấy được rằng
tiếng Việt và Chữ quốc ngữ của mình hiện nay thật là tuyệt vời,
để rồi cố gắng gìn giữ và làm cho nó được trong sáng. Gã xin tán
hươu tán vượn về hai lãnh vực này.
Trước hết là những những
cố gắng làm cho tiếng Việt được trong sáng.
Nói tới lãnh vực này, gã cảm
thấy hơi bị…buồn. Thực vậy, thay vì làm cho trong sáng, một số
người đã làm cho tiếng Việt của mình trở nên tăm tối mù mịt. Vậy
họ là những ai ?
Tiên vàn họ là ông nhà
nước.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
gã đã khấp khởi mừng thầm vì hy vọng một luồng gió mới sẽ thổi
vào lãnh vực văn học nghệ thuật. Nhưng rồi gã đã thất vọng ê
chề.
Thất vọng vì việc dùng tiếng
ta một cách thô thiển : có lần đi bộ trên đường Hồng Thập Tự
(cũ), khi ngang qua bệnh viện Từ Dũ, bất chợt ngước lên lầu, gã
thấy một tấm bảng với hai chữ được viết bằng màu đỏ : XƯỞNG ĐẺ.
Gã đã rụng rời cả tay chân và thở dài đánh thượt một cái.
Thất vọng vì việc dùng tiếng
Tàu một cách bừa bãi : có một thời, các ông cán bộ hễ mở miệng
ra là phát biểu : Nhất trí, đồng ý, đăng ký, quản lý….khẩn
trương!!! Còn những tác phẩm văn học, nhất là những cuốn chuyện
bài bác tôn giáo lại ấu trĩ tới mức không thể nào…ngửi nổi.
Thất vọng vì việc dùng tiếng
Tây một cách không cần thiết. Cho tới hôm nay vẫn còn đó những
chữ như : cái lô-gích, cái mô-típ, binh chủng Tăng-Thiết giáp,
căng tin…
Thất vọng vi việc đặt câu đặt
cú một cách vô tội vạ : có lần đi qua một quầy hàng bán thịt, gã
thấy một bảng hiệu viết như sau : CỬA HÀNG THỊT PHỤ NỮ, thì ra
đây là của hàng bán thịt do các chị em phụ nữ đảm trách. Mới đây
thôi, khi đi tham quan khu du lịch Tức Dụp, thuộc tỉnh An Giang,
gã thấy có một cái hang, muốn vô thì phải chui. Và cái hang ấy
được gọi là : CƠ QUAN PHỤ NỮ. Thấy vậy, gã đành phải bó tay.
Thất vọng vì những cải cách
về việc giảng dạy bộ môn Việt văn. Nào là cải cách chữ viết, nào
là cải cách đánh vần…Cứ mỗi lần cải cách, thì hình như lại thụt
lùi một bước. Và chẳng năm nào mà không có một cải cách nào đó.
Hay thiên hạ chỉ đưa ra cải cách cốt để sách bán chạy, tha hồ
hốt bạc mà thôi.
Chính vì vậy mà mức độ Việt
văn hiện giờ của các em học sinh đã xuống thấp tới mức báo động
: chữ viết thì như gà bới, lỗi chính tả thì không đếm xuể, câu
không thì ra câu, cú chẳng thì ra cú, còn các chấm và phẩy thì
cứ loạn cào cào. Không hiểu với cái đà này, mai ngày tiếng Việt
sẽ đi về đâu ?
Cách đây khá lâu, một người
bạn đã gửi cho gã những bài luận văn tiêu biểu của một số học
sinh. Đọc những mẩu luận văn này, gã chẳng biết nên cười hay nên
khóc. Có lẽ cả hai. Cười rồi khóc. Gã xin trích dẫn một ít bài
để bàn dân thiên hạ cùng chiêm ngưỡng.
Bài của cấp tiểu học :
Đề tài : Em hãy tả hình dáng
và tính tình một cụ già mà em rất kính yêu”.
Hình dáng của bà nội rất
là thấp được hai mét rưỡi, dáng đi rất chậm chạp, mắt thì lừ đừ
ít thấy gì nữa. Tính tình cụ già rất là bực bội. Khi bà nội cười
liền nhe mầm răng ra còn được ba bốn cái gì mà thôi. Con mắt của
bà tròn như hòn bi, mũi có hai cái lỗ, cụ già có hai cái tai,
tóc của bà đã bạc phơ. Cổ ngắn gọn, thân của bà 2, 3 thước, bà
có hai cái tay, có hai cái chân. Bà cụ ngoài 40 tuổi. Hình dáng
bình thường, chiều rộng ba mươi, chiều cao một mét sáu. Khi cười
miệng bà em móm mém như miệng cái hố.
Đề tài : Em hãy tả bạn em.
Bạn em ko cao không thấp,
trung bình. Bạn em ko gầy, ko béo, trung bình. Bạn em ko đen ko
trắng, trung bình. Bạn em ko giỏi ko kém, trung bình…
Đề tài : Em hãy tả đêm giao
thừa.
Em bước ra sân để chuẩn bị
thắp hương giao thừa. Ánh trăng tròn vằng vặc soi rõ khu tập
thể, làm những chiếc lá sáng lên loang loáng…
Bài của cấp trung học :
Đề tài : Em hãy phân tích hai
câu thơ trong tập “Nhật ký trong tù” của tác giả Hồ Chí Minh:
Ngủ thì ai cũng như lương
thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền.
Khi ngủ thì cơ thể chúng
ta nằm im, bất động, mắt nhắm, trông ai cũng giống ai. Nhưng khi
tỉnh dậy, do nhu cầu sinh lý, cơ thể con người cần đào thải một
số cặn bã trong cơ thể nên câu thơ đã tả thực rất chính xác:
“ngủ dậy phân ra…”.
Đề tài : Em hãy phân tích tấm
lòng người mẹ của bà cụ Tứ trong chuyện “Vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân.
Trong cuộc sống sinh hoạt
đời thường, hàng ngày chúng ta đã từng được thưởng thức rất
nhiều loại lòng như lòng lợn, lòng chó, lòng gà, lòng vịt… Chúng
đều rất ngon và có vị riêng biệt khác nhau, nhưng tất cả đều
không thể bằng lòng… mẹ.
Đề tài :Em hãy phát biểu cảm
nghĩ của mình về việc Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta tác phẩm
Truyện Kiều.
Nguyễn Du là lão tiền bối
của chúng ta. Mặc dù tiền bối đã sớm ra đi vào một chiều gió
lạnh nhưng vẫn làm chấn động cả giới hậu bối của chúng ta, qua
bí kíp võ công Vương Thuý Liều hay còn gọi là Đoạn trường thất
thanh hay biến thể của nó là “Đoạn trường tiết canh”. Bằng chứng
là qua các kỳ thi, pho bí kíp này lại xuất hiện và làm thất điên
bát đảo cả giới hậu bối của chúng ta!
Bài của cấp đại học :
Đề tài : Tìm hiều câu “Chim
mỏi về rừng tìm chốn ngủ” trong bài “Chiều tối” của tác giả Hồ
Chí Minh. (Tuyển sinh đại học năm 2004, Đại học khoa học xã hội
và nhân văn TP.HCM)
Bài thơ “Chiều tối” của
Bác Hồ làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du “Chim hôm thoi thóp
về rừng” hay câu thơ “Ngàn năm gió cuốn chim bay mỏi” của Bà
Huyện Thanh Quan. Nhưng so sánh ta thấy rõ chim Bác Hồ khác hẳn
chim Nguyễn Du và còn khác hơn chim Bà Huyện Thanh Quan. Chim Bà
Huyện tự nhiên mỏi còn chim Bác Hồ là con chim phi thường, nó
mỏi có mục đích: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”…
Tiếp đến, họ là những kẻ
thích chơi trội và tỏ ra hơn người.
Đi trên hè phố, gã thấy nhan
nhan những bảng hiệu, cũng như những sản phẩm, từ viên kẹo ngọt
đến gói băng vệ sinh…tất tật được ghi bằng tiếng nước ngoài.
Thậm chí đến cả phân bón và thuốc sâu, dành cho nông dân chăm
bón ruộng đồng, cũng đều có những tên Tây, tên Anh…rất oách.
Có một thời, những nhà trí
thức nửa vời trong câu chuyện trao đổi họ thường chêm tiếng
Phăng-xe hay tiếng Ăng-le để chứng tỏ mình là người học rộng
biết nhiều. Cũng giống như mấy cô cậu Việt kiều khi về nước vốn
thường hay nói : Cái này nặng bao nhiêu “pao”, con đường dài bao
nhiêu “mai”…khiến cho bà con “Hai Lúa” cứ há hốc miệng, chẳng
hiểu cái pao và cái mai là cái chi chi.
Trong lãnh vực này, quí vị
trí thức nửa vời đã dùng tiếng Tây bồi để làm những bài thơ hầu
tỏ bày tình cảm của mình :
- Chiều chiều đi dạo chốn la
rue,
Thấy ở đàng kia có một
fille,
Tuổi tác tuy đang còn
petite,
Xem ra đã thấy cái jolie.
(La rue : đường phố. Fille
: cô gái. Petite : nhỏ. Jolie : đẹp).
Hay :
- Đầu phố đàng kia có một
fille,
Nay moi muốn kết mari cùng
nàng.
Lorsque moi gửi thư sang,
J’écris une lettre cho nàng
savoir.
(Moi : tôi. Mari : vợ
chồng. Lorsque : thế là. J’écris une letre :
tôi viết một lá thư. Savoir
: biết).
Nhưng xét về tính các lâm ly
bi đát có lẽ còn thua xa những me Tây :
- Dê-cờ-ri tình thơ uyn lét,
Để cho mình con-nét mông
cơ.
Từ khi mình kít-tê dơ,
Bon-nơ cũng lắm, ma-lơ
cũng nhiều.
(J’écris une lettre –
connaitre mon coeur – quitter je – bonheur – malheur : Em viết
tình thư một bức, để cho mình biết trái tim em. Từ khi mình bỏ
em, hạnh phúc cũng lắm, khổ đau cũng nhiều).
- Đờ puy cờ dơ tơ con nét,
Duýt ki sì sít sép ta-
nê.
(Depuis que je te connais
jusqu’ici six sept années : Từ khi em biết anh đến nay đã sáu
bảy năm)
Hay dùng tiếng Tây bồi để ru
con :
- Cút-xê đồng, mông se pơ-tí,
Mảnh-tơ-mằng, phi ní
pa-pa.
(Couchez donc, mon cher
petit, maintenant fini papa.
Vậy ngủ đi, bé bỏng yêu dấu
của mẹ, giờ thì ba đã hết rồi).
Hay vui đùa, dùng tiếng Tây
bồi để làm câu đố :
- Tí ti noa, tí ti dôn. Lúy
gầm, lúy gừ. Lúy măng-gê me-xừ. Lúy man-gê cả moi. Đố là con
gì? Thưa đó chính là con…hổ.
(Tí ti đen, tí ti vàng. Nó
gần, nó gừ. Nó ăn ông. Nó ăn cả tôi).
Và đôi khi còn dùng cả tiếng
Tây bồi này để mà nói lái : Vợ Việt đi với chồng Pháp vào tiệm
mua đồ. Thấy nhà hàng nói thách quá, vợ bèn rỉ tai chồng :
- Très chaud ! Très chaud
!
Chồng tưởng vợ kêu nhà hàng
nóng bức quá, nên vội mua và lập cập trả tiền để ra ngoài cho
mát. Thế nhưng, ra tới ngoài, vợ trách chồng :
- Đã bảo quá đắt mà cứ mua.
- Thì có thấy mình kêu đắt
lúc nào đâu ?
- Người ta không tiện nói
trước mặt người bán hàng, sợ họ bảo mình là người Việt mà lại
dèm pha mất món lời của họ, nên đã phải nói lái là “très
chaud”thế mà cũng chẳng hiểu. “Très chaud là trop cher” đó
ông kễnh ạ.
(Très chaud là trời rất nóng,
còn trop cher là quá mắc).
Chuyện rằng có một học sinh
từ miền Nam ra Hà Nội thi tú tài Tây. Anh ta đậu thi viết. Lúc
vào thi o-ran (vấn đáp), thầy giáo Tây hỏi anh có biết một công
trình kiến trúc lớn nào vừa được xây dựng xong tại Việt Nam hay
không ? Anh ta đỏ mặt tía tai và trả lời không biết. Thầy giáo
Tây đuổi anh về chỗ và cho không điểm. Bực quá, anh ta buông
tiếng chửi thề theo phong cách miền Nam :
- Đu me!
Ai ngờ vừa nghe thấy, thầy
giáo Tây bèn gọi anh ta lại và khen lấy khen để :
- Giỏi, giỏi. Tôi cho anh
mười điểm
Thì ra công trình kiến trúc
ấy chính là cầu Long Biên, bắc qua sông Hồng, được đặt bằng tên
của viên quan toàn quyền Đông Dương khi ấy là…Paul Doumer!
Đến thời quân đội Hoa kỳ sang
tham chiến tại Việt Nam, các me Mỹ nói tiếng Mẽo giả cầy cũng
chẳng thua gì các me Tây. Các nàng nói cứ như gió khiến gã rất
lấy làm bái phục. Gã xin ghi lại một vài mẩu đối thoại mà thôi.
- Ây khôn mà anh Mỹ ơi (Em
lạnh : I’cold).
- Du đã là mai hớt bân,
đến khi tao có bê-bi, thì du lại đi cát mao với con đĩ ấy hả
(Mày đã là chồng tao – my husband – đến
khi tao có em bé – baby – thì mày lại đi mèo chuột – cat mouse –
với con đĩ ấy hả).
Một cặp vợ chồng khác đã dùng
tiếng Mẽo giả cầy để cãi nhau. Anh chồng nói :
- Sugar you, you go. Sugar
me, me go
(Đường cô, cô đi. Đường
tôi, tôi đi.
Chị vợ đáp :
- You think you tasty ?
(Anh nghĩ anh ngon hả ?)
Anh chồng bảo :
- I love toilet you go go
!
(Tôi yêu cầu cô đi đi).
Rồi nói tiếp :
- You onion summer me
three down seven up. No, enough listen.
(Cô hành hạ tôi ba chìm bảy
nổi. Thôi, đủ rồi nghe.)
Về chuyện tiếng Tây bồi hay
tiếng Mẽo giả cầy thì còn dài dài, gã xin tạm ngưng ở đây để bàn
sơ qua tới việc thứ hai :
Tiếp đến là hãy gìn giữ
tiếng Việt.
Đây phải là một công việc cấp
bách của mọi người dân Việt, nhất là đối với những người sống ở
nước ngoài. Bởi vì nếu không nỗ lực, nếu không cố gắng, thì sang
thế hệ thứ hai, thứ ba và thứ tư…chắc chắn tiếng Việt sẽ bị quên
lãng và đi đến chỗ mai một.
Vì thế, gã rất cảm phục những
bậc làm cha làm mẹ luôn băn khoăn lo lắng về vấn đề này, bằng
cách luôn dạy và bắt con cái nói tiếng Việt mỗi khi chúng ở nhà.
Đồng thời gã cũng rất cảm
phục những người đã tốn công mở ra những trung tâm dạy tiếng
Việt và tất cả những người thiện chí đã góp sức bằng cách vào
những ngày nghỉ cuối tuần đã tới để dạy cho con em biết viết và
nói tiếng Việt.
Nếu gã nhớ không lầm thì hình
như Phạm Duy có một bài hát với những lời ca như sau :
- Tôi yêu tiếng nước tôi, từ
khi mới ra đời…
Và một học giả nào đó đã phát
biểu :
- Tiếng ta còn, dân ta còn.
Tiếng ta mất, dân ta mất.
Tài liệu tham khảo :
“Chơi Chữ” của Lãng Nhân.
Tạp chí “Kiến Thức Ngày
Nay” số 562
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|