Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 80, Chúa Nhật 16.11.2008


MỤC LỤC 

Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông Vững Vàng Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành          LG.

BÀI GIẢNG CỦA ĐGH GIOAN PHAOLÔ II TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHƯỚC
TỬ ĐẠO VIỆT NAM TẠI RÔMA NGÀY 19-08-1988
       Bản dịch của Đức Ông Vinh Sơn TRẦN NGỌC THỤ

VÁ LƯỚI (CHIA SẺ về Truyền Giáo, bài 4)                                 TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

BA VỊ ẨN TU: MỘT TRUYỀN THUYẾT ĐƯỢC LƯU HÀNH Ở THỊ TRẤN VOLGA  Leon Tolstoy, Trần Hiếu dịch

“SUY NGHĨ CỦA CHÚNG TA PHẢI PHÙ HỢP VỚI Ý MUỐN CỦA THIÊN CHÚA” Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ

SỨ ĐIỆP CỦA NGÔI MỘ ĐÁ                                                             GM. Giuse Vũ Văn Thiên

HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ NHỮNG MÂU THUẪN                          Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

NỖI NIỀM CỦA MỘT NỮ TU SAU KHI DU HỌC                                       Lm. Anmai, C.Ss.R.

ĐỪNG XEN VÀO CHUYỆN NGƯỜI KHÁC (2)                    Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

ĐỨc Tin - Thánh ThẦn - HIẾn TẾ                 Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

ĐAU TIM, TỨC NGỰC                                                                          Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI                                                        Chuyện phiếm của Gã Siêu


Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông Vững Vàng Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội - Lumen Gentium 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Chương VIII

Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa

Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô

Và Giáo Hội 67*

 

V. Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông Vững Vàng

Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành 90*

 

68. Ðức Maria, dấu chỉ của Dân Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội sẽ hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x. 2P 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành. 91*

69. Ðức Maria chuyển cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Thánh Công Ðồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được, nhất là các anh em Ðông Phương, những người nhiệt thành và hết lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh 24. Tất cả mọi Kitô hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng Con Ngài trong sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi gia đình dân tộc hoặc đã mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia. 92*.

 

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

 

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.

 


Chú Thích:

(lưu ý: những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo trước)

 

90* Các số 68-69: Kết luận.

Hai vấn đề được đặt ra ở Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp nhất.

91* Số 68: Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông.

Số này bàn đến một ý tưởng quan trọng: ý nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa Giêsu đối với toàn thể Giáo Hội. Ðức Maria là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là dấu hiệu cậy trông. Mẹ cũng đã phải chịu thử thách nên do kinh nghiệm riêng mà biết được gánh nặng của chúng ta. Tình thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ khuyến khích chúng ta cố gắng không ngừng.

92* Số 69: Ðức Maria và sự hiệp nhất các Kitô hữu.

Ðây là một điểm tế nhị. Nhiều người nghĩ dường như Ðức Maria là một trở ngại trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Công Ðồng đã đề cập vấn đề theo khía cạnh tích cực: Công Ðồng nhận định một sự kiện không ai chối cãi: trong số những anh em ly khai, cũng có người kêu cầu đến Trinh Nữ hèn mọn thành Nazareth. Như vậy vẫn còn hy vọng. Công Ðồng muốn mọi Kitô hữu cầu xin Ðức Maria cho việc hiệp nhất, vì Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên xưng Con Mẹ là Ðấng Cứu Thế, và cho cả những ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ vai trò làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng ngời vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hiến Chế tín lý về Giáo Hội khởi đầu và kết thúc bằng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Từ Thiên Chúa, do tình yêu mà có mọi sự, và trong tình yêu mọi sự qui về Ngài. Hiến Chế này là một lời tuyên xưng đức tin không lay chuyển và sẽ không chịu sự hao mòn của thời gian.

 
VỀ MỤC LỤC
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM TẠI RÔMA NGÀY 19-08-1988
 

Anh chị em thân mến,  

1 – Chúng tôi rao giảng Chúa Giêsu tử nạn Thập Giá” (1Cr 1, 23) 

Mượn lời trên đây của Thánh Phaolô, Giáo Hội Rôma hôm nay gửi lời chào Giáo Hội Việt Nam, mặc dầu trùng dương xa cách, nhưng rất gần gũi trong tình thân ái của tôi. Đồng thời, tôi xin chào toan thể dân tộc Việt Nam và nói lên rằng cà Giáo Hội hoàn vũ hết lòng cầu chúc cho dân tộc quý quốc đựơc trăm phần an lành.

Mối thịnh tình ưu ái đầu tiên xin dành cho người anh em thân yêu Giám Mục Hà Nội, và cho tất cả Giám Mục trong giáo đoàn Việt Nam, mà giờ này tôi ao ước các ngài hiện diện nơi đây. Cùng với hàng Giáo Phẩm, tôi chào tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ, các thành phần giáo dân tham gia công cuộc truyền đạo, và trong toàn thể giáo dân Việt Nam: trong giờ phút này, tôi linh cảm mình hiệp thông với họ một cách sâu xa đặc biệt.

Tôi chào tất cả anh em Giám mục cũng như giáo dân của Tây Ban Nha, Pháp và Phi Luật Tân, những xứ sở mà trong ba thế kỷ đã góp phần vào việc truyền giáo tại Việt Nam. Tất cả tuôn về Rôma hôm nay để tưởng niệm những người anh em trước kia là Thừa Sai xuất xứ từ ba quốc gia này.

Một tư tửơng ưu ái xin gửi đến các linh mục Đaminh thuộc tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi đã thánh lập từ bốn thế kỷ và Hội Thừa Sai Ba-Lê đã cống hiến một số đông đảo Giám Mục và Linh mục, mà hôm nay chúng ta sùng kính như những vị Tử Đạo vì rao giảng Lời Chúa. 

2 – Một cách đặc biệt, tôi gửi lời chào tất cả anh chị em Việt Nam, hiện là giáo đòan thế giới, hôm nay từ bốn phương trời: Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu và Âu Châu tuôn về địa điểm này. Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm nhu cầu - đứng chung quanh các vị Thánh - để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, thương mến, hiện đang phập phồng trong đáy lòng vì nghĩ đến giang sơn gấm vóc ở xa. Hướng về quê hương này, anh chị em hoài cảm, luyến ái, nhớ nhung, là vì giữa thời gian phiêu bạt, anh chị em cố tìm ra một giây phút cảm thông với nhau và cùng chung sống niềm hy vọng.

Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Kitô tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những vị Thừa Sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống Đức Tin Chúa Kitô.

Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó một phụ nữ, Thánh Agnès Lê Thị Thành, mẹ sáu người con?

Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa đựơc truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại suốt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc!

Để lấy một ví dụ: Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiền phong có Thánh Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dậy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức Linh mục năm 1823, đựơc bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên trở thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt. Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn đựơc giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ đựơc chết vì Chúa. “Những ngừời chết vì Đức Tin - ngài nói – thì lên Thiên  Đàng thẳng rẵng; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền: thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo có phải hơn không?”. Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21-12-1839.

3 – Trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc lại những gì Chúa Kitô tiên đoán về sự kiện các Tông Đồ và những ai theo chân các Ngài sẽ bị bách hại: “Họ sẽ lôi chúng con ra tòa Công Nghị, sẽ đánh đập chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng con trước vua chúa quan quyền vì danh Cha, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại” (Mt 10, 17-18). Chúa tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không có úp mở. Chúa không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng với thói quen nói thẳng lời chân lý toàn diện, Chúa chuẩn bị tâm hồn các ngài trước nguy cơ: “Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên tố cáo làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Cha, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền chí tới cùng sẽ đựơc cứu độ.” (Mt 10, 21-22) 

4 – Tuy nhiên, Thầy Chí Thánh không bỏ rới các Tông Đồ và các người tin theo các Tông Đồ trong những cơn bách hại:

“Khi bị nộp vào tay họ, chúng con đừng lo phải nói thế nào, Vì thực ra không phải chúng con nói, nhưng là Thần Linh của Thân Phụ nói trong chúng con.” (Mt 10, 19-20).

Thần Linh chinh là Thần Linh chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư? Thánh Phaolô hồi xưa đã không nói: “Chính sự kiện Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ” (1Cr 1, 23) đó ư? Từ thới các Thánh Tông Đồ đã vẫn thế rồi, qua các thế hệ lịch sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt Nam, sự kiện đó vẫn không thay đổi.

Phải, cần phải có mãnh lực, khôn ngoan từ Thiên Chúa mới có thể tuyên xưng mầu nhiệm tình yêu của Ngài, chính là tình yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy lụân loài người. “Là vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan người đời, và yếu hèn nơi Thiên Chúa còn mạnh sức hơn cả sức lực phàm nhân” (1Cr 1, 25).

Chính vì thế mà Thánh Tông Đồ đã viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô tử nạn Thập Giá: Đức Kitô, trong mầu nhiệm Phục Sinh, đã chứng minh Ngài là mãnh lực của Thiên Chúa, là khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1, 23-24). 

5 – Trước mặt chúng ta hôm nay, các vị Tử Đạo Việt Nam vai trò những người đi gặt lúa cho Chúa, như đã ghi trong Thánh Vịnh: 

            “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

            Lúc ra đi phải khóc than, vì công vất vả gieo hạt,

            Nhưng khi trở về, lòng thênh thang phấn khởi,

            Vì ôm nặng nhiều bông lúa.” (Tv 125-126, 5-6) 

Lời huyền diệu trên đây nói lên ý nghĩa cuộc chứng nhân lịch sử nơi các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam. Trong vũng nước mắt của họ đã gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trở thánh vô số bông hoa ĐỨC TIN;

“Hạt giống gieo xuống mà không mục đi thì chỉ trơi trọi một mình, nhưng nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa.“ (Ga 12, 24) 

Các vị Tử Đạo Việt Nam “gieo trong lệ sầu”, có nghĩa là các ngài đã khởi sự giữa lớp người đồng hương và giữa nền văn hóa dân tộc một cuộc đối thoại sâu rộng và cởi mở, bằng cách nêu cao chân lý và tin vào Chúa là sự kiện phổ cập tất cả hoàn cầu. Đồng thời, các góp phần vào việc nhận định các giá trị và nghĩa vụ thích hợp với nền văn hóa tôn giáo trong thế giới Đông Phương. Trong cuốn giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã tuyên xưng nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi một bản thể đã tạo dựng trời đất. Ra trứơc quan quyền tra khảo về ĐỨC TIN, các vị Tử Đạo đã quả quyết mình đựơc tự do tín ngưỡng, và đạo Chúa Trời là đạo duy nhất, nếu mình từ bỏ là bất tuân lệnh Thương Đế, tức là Thiên Chúa. Đồng thời, các ngài đã can đảm nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, nhưng không vì thế mà làm điều gì bất chính. Các ngài đã dậy phải tôn kính Tổ Tiên theo truyền thống dân tộc, và dưới ánh sang mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó, với sự dấn thân và hành động chứng nhân của các vị Tự Đạo, Giáo Hội Viêt Nam hiên ngang nói lên sự quyết tâm và tha thiết của mình, không chối bỏ truyền thống văn hóa và các thể chế quốc gia, trái lại, Giáo Hội tuyên xưng và chứng minh rằng: nếu mình nhập cuộc trong truyền thống và văn hóa dân tộc là vì có góp phần vào việc xây dựng quốc gia một cách trung thực hơn.

Và rồi những cuộc đấu tranh, những căng thẳng chính trị hồi xưa, xen lộn vào trong những bang giao giữa giáo dân và nhà cầm quyền, những quan hệ lợi hại giữa các tôn giáo, những lý do kinh tế xã hội, sự kiện người ta không hiểu rằng: Tín ngưỡng bao hàm quan niệm siêu việt và phổ cập toàn thế giới. . là những yếu tố tạo nên trần gian như một nồi nung nấu, trong đó thanh lọc mọi khía cạnh, để chỉ nổi bât nét khiết bạch và sức dũng mạnh của tấm gương nhân chứng. 

6 – Đòan thể đông đảo các Tử Đạo, những gian lao đau khổ, những giọt nước mắt. . . tất cả đã tạo nên “mùa lúa vàng” của Thiên Chúa. Các ngài là những bậc Thầy, tôi xin mượn dịp hôm nay, để nêu lên trước toàn thể Giáo Hội sức linh hoạt và hình vóc hùng tráng của Giáo Hội Việt Nam: ý chí kiên cường, sự nhẫn nại và khả năng vượt mọi khó khăn để tuyên xưng Chúa Kitô. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả mọi ơn lành mà Thánh Linh của Ngài hiện đang thực hiện một cách dồi dào giữa chúng ta.

Một lần nữa, giữa giáo đoàn Viêt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng: máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong ĐỨC TIN. Giữa anh em, Đức tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. ĐỨC TIN này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con ngừơi tự do,, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia (1Pr 2, 13-17). Do đó, công ích của quốc gia vẫn là điểm người công dân có đạo phải dấn thân, nhưng đồng thời phải đựơc tự do tuyên xưng chân lý của Chúa, đựơc cảm thông với những với các vị Chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân. 

7 – “Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh nhiều tín hữu”.

Hạt giống các tín hữu”: Ngoài con số từng ngàn từng vạn giáo dân trong các thế kỷ trứơc đây đã đi theo con đường tử nạn của Chúa, ngày nay là tất cả những ai đang lao động trong khắc khoải, trong khó nghèo cực độ về thể chất, kinh tế, trong hy sinh liên tục, nhưng chỉ mang một hoài bão là có thể trung kiên trong vườn nho Thiên Chúa, xứng với danh hiệu những người quản lý trung thành trong nước Trời.

Hạt giống các tín hữu” là tất cả những ai ngày nay vì chính nghĩa Thiên Chúa và sống giữa những người đồng hương đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa cây Thập Giá của Chúa Kitô: Thánh Giá bài trừ sự nói dối, bài trừ tội ác, nhưng thúc đẩy con ngừơi biết thinh lặng, biết tha thứ, biết cầu xin cho nước Cha trị đến trong tâm linh nhân loại, và đặc biệt tại quê hương của họ là môi trường đời sống.

Công tác này: công tác liên tục diễn tiến trong nội tâm vừa gây go vừa trường kỳ vì luôn luôn bị hoàn cảnh đặc thù chế ngự, và âm mưu thử thách ĐỨC TIN, do đó, đòi hỏi rất nhiều nhẫn nại. Phải xác tín rằng: đêm tối rồi cũng qua đi và ánh bình minh đang ló rạng ngoài ngưỡng cửa. 

8 –Những linh hồn lành thánh . . . ở trong tay Thiên Chúa”. (Kn 3, 1) 

Chân lý trên đây đựơc đề cao trong sách Khôn ngoan càng là ánh sáng quảng diễn biến cố long trọng hôm nay. Phải, “linh hồn lành thánh ở trong tay Thiên Chúa, không hình khổ nào chạm tới đựơc.” Quả quyết như thế có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra hình khổ đã va chạm thân xác các vị Tử Đạo, và va chạm ghê gớm. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng:

“Một người điên dại cho rằng các ngài đã mệnh một và kết liễu cuộc đời bằng cái chết là một tai họa: Chết đi là một đổ vỡ, tuy nhiên, các ngài vẫn sống trong an bình. Trước mắt trần gian, các ngài đã bị đau khổ, nhưng niềm hy vọng nơi các ngài mang nặng mầm mống trường sinh.” (Kn 3, 2-4)

Các Thánh Tử Đạo: Tử Đạo Việt Nam! Các ngài là chúng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Chứng nhân là con ngừơi vẫn đựơc kêu gọi về hướng trường sinh. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, anh em sẽ đựơc nhiều ơn vĩ đại, là ví Thiên Chúa đã luyện lọc anh em và thấy anh em xứng đáng, Ngài đã thử thách anh em như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận anh em như của lễ toàn thiêu. Phải, của lễ toàn thiêu hợp với của lễ hy sinh trên Thập Giá của Chúa Kitô. Là vì kiên cường cho đến chết, anh em đã tuyên xưng Chúa Kitô tử nạn – Ngài là sự khôn ngoan, là quyền năng Thiên Chúa. Chúa Kitô: trong Ngài chúng ta đựơc Thiên Chúa cứu rỗi.

9 – Tất cả những ai tin cậy nơi Ngài – nơi Chúa Kitô tử nạn và phục sinh – họ sẽ đựơc hiều biết chân lý; những ai trung thành với Ngài sẽ đựơc cùng Ngài sống trong yêu thương, ví là ân sủng và tình thương vẫn đựơc dành cho những người được tuyển chọn. (Kn 3, 9)

ANH EM: dòng giống các vị Tử Đạo, ANH EM: dòng giống những người được kêu gọi. Anh em hãy nghe hết lời sách Khôn ngoan: “Trong ngày phán xét, họ sẽ long lanh như những tia sáng chiếu trên đồng cỏ từ Đông sang Tây.” (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn ngoan: “Các dân tộc sẽ trị vì, họ cai trị dân chúng. Nhưng trên tất cả, Thiên Chúa sẽ thống trị mọi loài.’ (Kn 3, 17) Chúa đây, tức là Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, Ngài xuống trần gian “không để xét xử thế giới, nhưng để thế giới nhờ Ngài mà đựơc cứu rỗi.” (Ga 3, 17) Chính Chúa Kitô này: anh em đã tham gia vào cuộc thống khổ và tử nạn Thập Giá của Ngài, hôm nay anh em hãy tham gia vào việc cứu độ trần gian mà chính Ngài đã kết liễu. Nguyện Chúa cho mùa lúa vàng của anh em muôn năm tồn tại trong hoan lạc.

 Bản dịch của Đức Ông Vinh Sơn TRẦN NGỌC THỤ

VỀ MỤC LỤC
VÁ LƯỚI (CHIA SẺ về Truyền Giáo, bài 4)

 

(Mt 4, 21 ; Mc 1, 19) 

Lạng sơn-Cao bằng là vùng biên giới phải hứng chịu nhiều cuộc chiến tranh. 1945 Nhật vào Lạng sơn. 1947 Pháp đổ bộ trở lại Lạng sơn. 1950 Cách mạng thành công sau chiến dịch Đông khê ác liệt. 1967 Mỹ oanh tạc Lạng sơn. 1979 Trung quốc đánh vào Lạng sơn. Mãi đến năm 1990 tất cả dân chúng mới trở lại yên ổn làm ăn.

Chiến tranh liên miên tàn phá rất nhiều, Giáo hội cùng chung số phận. Vào năm 1945 Lạng sơn-Cao bằng có khoảng 30 nhà thờ. Nhưng sau các cuộc chiến tranh, Lạng sơn chỉ còn 5 nhà thờ. Cao bằng không còn nhà thờ nào. Nhà thờ chính toà bị bom phá sập. Toà giám mục không còn. Chủng viện tiêu tan. Nhà cửa cháy rụi. Đường xá bị xe tăng cày nát loang lổ ổ gà. Cầu cống chỉ còn hai mố không nguyên vẹn. Rừng Lạng sơn biến mất để lại những mảng đồi nham nhở.

Có những ngôi nhà thờ nay trở thành chuồng trâu bò, lợn gà. Có những nơi nhà xứ nay trở thành nơi phóng uế. Có ngôi nhà thờ vì giáo dân chạy loạn đã đóng cửa hơn 10 năm trời. Khi trở về, nhà thờ đã trở thành chỗ cho dơi dơi trú ngụ. Lễ Tro năm đầu tiên mọi người dự lễ phải tay che đầu, tay bịt mũi. Khi cha xức tro, dơi dơi cũng giúp xức các thứ khó ngửi xuống đầu mọi người. Nếu ví Lạng sơn như một tấm áo, tấm áo đó đã bị chuột cắn lỗ chỗ. Nếu ví Lạng sơn như một thân thể, thân thể đó đã bị lở loét đầy thương tích.

Còn lại vài ngôi nhà xứ ọp ẹp. Có những đêm mưa, nhìn nước mưa chảy qua những kẽ nứt trên mái, trên tường nhà. Con hiểu rằng nhiệm vụ của con sẽ hàn gắn lại những rạn nứt. Đi vá những rách nát, băng bó những vết thương. Như người ngư phủ vá lại manh lưới trước khi ra khơi đánh cá.

Càng gần gũi dân chúng, con càng thấy rằng xây dựng cơ sở vật chất tuy khó, nhưng hàn gắn những tâm hồn mới thật là vấn đề. 

1.    Vá tâm hồn 

Tâm hồn con người thật sâu xa, ẩn kín. Nhưng khi nó đã bị tổn thương sẽ rất khó bình phục. Vết thương sâu xa khó phát hiện. Phát hiện rồi cũng khó chữa lành.

Khi một cơ thể yếu nhược sẽ có đủ thứ vi trùng, bệnh tật xâm nhập, tàn phá.

Giáo dân Lạng sơn là một cộng đoàn bé nhỏ, một thân thể gầy yếu. Lại bị những hoàn cảnh khó khăn, tạo cơ hội thuận tiện cho bệnh tật xâm nhập, tàn phá, đục khoét tâm hồn.

Có những lỗ hổng mê tín do thiếu hiểu biết Phúc âm, đức tin yếu kém.

Có những lỗ hổng chán nản, sợ sệt, vì đã gặp những khó khăn quá mức chịu đựng.

Có những lỗ hổng tham lam do hoàn cảnh túng thiếu nghèo nàn.

Nhưng trầm trọng nhất có lẽ là những lỗ hổng bất mãn, bị tổn thương vì thái độ bất công, hống hách của chính hàng giáo sĩ.

Có lẽ ai cũng biết chuyện ông Gandhi. Người Ấn độ coi ông là vị thánh vì ông đã có công giải phóng dân tộc Ấn khỏi ách nô lệ Anh quốc, mà chỉ bằng thái độ bất bạo động. Bản thân ông lãnh đạo nước Ấn bằng một đời sống đạo đức, liêm khiết. Khi đi tìm con đường giải phóng dân tộc, ông đã say mê Phúc âm. Những chân lý chói ngời ánh sáng tự do, bình đẳng, bác ái huynh đệ lôi cuốn ông. Ông đã tìm đến nhà thờ học hỏi. Nhưng buồn thay, ông vào đúng nhà thờ dành cho người da trắng. Người ta xua đuổi ông. Ông ngỡ ngàng thất vọng vì thấy người có đạo không đẹp như đạo lý của Chúa. Lòng ông mang một vết thương. Vết thương ấy không bao giờ lành.

Giáo hội đã nhiều lần tự mình làm rách lưới nên đã để mất những mẻ cá quan trọng.

Tại Lạng sơn đã có những bản làng muốn theo đạo. Nhưng khi biết theo đạo phải bỏ bát hương, bỏ bàn thờ ông bà, họ không muốn theo nữa (tìm thêm Trung quốc).

Ý thức được những mảng lưới rách ấy, Giáo hội đã không ngừng ra sức vá lưới.

Đức Giáo hoàng đương kim là một người vá lưới vĩ đại. Từ 10 năm nay, ngài không ngừng đi tìm những mảng lưới rách để vá. Hàng trăm lần, ngài  khiêm nhường công khai xin lỗi vì những lỗi lầm Giáo hội  mắc phải trong quá khứ : như kết án Galilê, buôn bán nô lệ tại Phi châu, ép buộc người thổ dân Châu Mỹ theo đạo, thiếu kính trọng nền văn hoá Trung quốc. Đó là những lỗi lầm do thái độ tự tôn đi đến độc tôn. Từ độc tôn đi đến độc tài và độc ác. Ngày nay Giáo hội hiểu được những tác hại ấy. Nên đã biết khiêm nhường xét mình và nhận lỗi hơn. Trường hợp Pedo ở Mỹ là một bằng chứng. 

2.    Nối liền những khoảng cách 

Những cộng đoàn yếu kém lại thiếu người hướng dẫn dễ đi đến chỗ phân tán. Lạng sơn do địa hình phức tạp lại trải qua nhiều thăng trầm nên cộng đoàn có nhiều khoảng cách.

Có những khoảng cách tranh giành quyền lợi làm suy yếu cộng đoàn. Có những khoảng cách lạnh lùng nghi kị làm héo úa cộng đoàn. Có những khoảng cách ghen ghét hận thù giết chết cộng đoàn.

Đó cũng là những mảng lưới rách làm mất đàn cá. Đó cũng là những vết thương cần hàn gắn.

Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội đã không ngừng hoạt động để nối liền các khoảng cách trong lòng Giáo hội. Biết bao nỗ lực đưa đến hoà giải, tha thứ, đại kết. Đã có những đối thoại. Đã có những công bố chung. Đã có những hợp tác. Rút ngắn những khoảng cách trong lòng Giáo hội chưa đủ. Giáo hội còn muốn xoá đi những khoảng trống ngăn cách Giáo hội với thế giới. Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới, đặt Giáo hội vào trong lòng thế giới để đồng cảm, để chung chia vui buồn, lo âu, hy vọng. Hiến chế Gaudium et Spes là một cánh cửa mở ra đem Giáo hội và thế giới lại gần nhau.

Dịp Ad limina vừa rồi Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ Giáo hội Việt nam ba điểm, trong đó hai điểm khuyến khích Giáo hội Việt nam xích lại gần xã hội. Đó là đối thoại và cộng tác. Đây quả là một quan điểm rất mới mẻ của Giáo hội, của Đức Thánh Cha đối với xã hội nói chung, đặc biệt với chính quyền XHCN tại Việt nam nói riêng.

Đối thoại tức là thôi lên án, thôi thù ghét. Đối thoại là quên đi những quá khứ chống đối đau buồn. Đối thoại là xích lại gần nhau để nghe nhau, để nói với nhau những lời xây dựng. Đối thoại là tin tưởng nhau. Đối thoại là cùng nhau tìm một hướng mới, một lối mở ra tương lai. Đối thoại như thế là tin vào những gì tươi đẹp sẽ gặt hái được.

Đức Thánh Cha còn đi xa hơn nữa khi khuyến dụ Giáo hội Việt nam hãy hợp tác với Nhà nước.

Đây quả là một bước đi rất xa, rất mới. Vì ngay tại Việt nam không thiếu người cho rằng Cộng sản là ma quỉ. Tiếp tay với Cộng sản là tiếp tay với ma quỉ. Đã có nhiều người không cho con cháu đi học trường Nhà nước. Đã có nhiều người ngăn cấm không cho con cháu được tham gia công tác. Riêng Toà Thánh vẫn chưa có quan hệ ngoại giao với Việt nam, tôn giáo vẫn còn gặp khó khăn.

Thế mà Đức Thánh Cha thúc giục ta phải cộng tác với Việt nam. Thật là một bước đi rất nhanh và rất xa, không những đến nói chuyện trao đổi mà còn cùng nhau làm việc. Đây là một bước đi chủ động, bước trước. Đây là bàn tay chủ động giơ ra bắt tay.

Cộng tác không những là chấp nhận mà còn đồng ý ở mức độ cao, để có thể cùng nhau làm việc chung, chấp nhận con người, chấp nhận chương trình và sẵn sàng. 

ĐỨC GIÊSU VÀ THIẾU PHỤ SAMARIA ( Ga 4, 1-41 ) 

Nhưng có lẽ không gì bằng nhìn lên tấm gương của Đức Giêsu trong cuộc gặp gỡ với người thiếu phụ xứ Samaria bên bờ giếng Giacóp. Đây là khuôn mẫu của một cuộc truyền giáo thành công. Thành công nhờ vá lưới. Vá những vết thương. Vá những khoảng cách. Vá những mặc cảm.

Qua cuộc tiếp xúc, Đức Giêsu đã làm nên những thay đổi kỳ diệu :

1.    Từ xa lạ trở nên thân tình

2.    Từ câu chuyện thông thường dẫn đến câu chuyện ơn cứu độ

3.    Từ tội nhân trở nên nhà truyền giáo

 

1.    Từ xa lạ đến thân tình 

Theo tục lệ Đông phương giữa người nam và người nữ có một sự xa cách. Việt nam xưa đã có câu “nam nữ thọ thọ bất thân”. Gặp gỡ nhau đã trở thành một điều cấm kỵ. Không có gặp gỡ tự do tuỳ tiện. Muốn gặp gỡ phải qua những qui định xã hội.

Người Samaria với người Giuđêa có mối bất hoà từ lâu đời. Do những phân ly về tôn giáo, chính trị mà hai bên coi nhau như thù địch. Người Giuđêa có đền thờ tại Giêrusalem trung tâm chính trị và tôn giáo. Cả nước chỉ có một đền thờ. Những ngày lễ trọng mọi người trong cả nước phải về Giêrusalem dự lễ. Thánh Giuse, Đức Maria và Đức Giêsu cũng thường tham dự những buổi hành hương này. Trong khi đó người Samaria có đền thờ trên núi Garizim và có nước, có vua riêng. Người Giuđêa vẫn coi người Samaria như ngoại đạo.

Đức Giêsu là nam giới, một người Giuđêa, trong khi người phụ nữ là người Samaria. Một khoảng cách rất xa. Nhưng sau một vài câu chuyện, người phụ nữ đã trở nên thân tình và đã bộc bạch tất cả ý nghĩ của mình về tôn giáo. Sau cùng thì tâm sự cả chuyện gia đình. 

2.    Từ câu chuyện thông thường đến câu chuyện về ơn cứu độ 

Đức Giêsu đã khởi đầu bằng chuyện xin nước. Một chuyện rất bình thường trong đời sống. Cũng như ta nói chuyện thời tiết mưa nắng. Rất nhẹ nhàng và tự nhiên Đức Giêsu chuyển sang lãnh vực thiêng liêng. Nước uống được chuyển đề tài sang nước hằng sống. Vừa gợi trí tò mò. Vừa gợi niềm khao khát.

Tò mò “Ông không có gầu làm sao múc nước”. Khao khát “Xin ông cho tôi thứ nước ấy”. Thật là một nghệ thuật dẫn dắt tuyệt vời. Rồi đi đến kết luận về một tôn giáo đúng nghĩa “Phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý”. Và sau cùng đi đến niềm tin. 

3.    Từ một tội nhân đến một nhà truyền giáo 

Nhưng biến đổi kỳ diệu nhất chính là biến đổi sâu xa trong tâm hồn nguời phụ nữ. Từ một thái độ xa cách, chị đã trở nên thân tình thổ lộ với Chúa những chuyện riêng tư. Từ một thái độ kiêu hãnh của người có nước, có đền thờ, có gia đình, chị đã đi đến thái độ khiêm nhường nhận biết sự thiếu thốn của mình để xin Chúa giúp đỡ. Những biến đổi đó đã khiến chị thay đổi hẳn cuộc đời. Từ một người tội lỗi công khai nay trở thành nhà truyền giáo. Sự biến đổi trong tâm hồn quá mãnh liệt. Khám phá Đức Kitô soi sáng tâm hồn đem đến cho chị niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm bình an. Phấn khích vì được ơn soi sáng chị không cầm lòng được nên đã về nói với mọi người trong làng. Lời nói của chị phải rất xác tín, hùng hồn nên đã khiến cả làng ra xem và nghe Chúa.

Đức Giêsu đã tiến hành cuộc truyền giáo thành công này nhờ những thái độ sau : 

a)    Đi bước trước 

Không uý kị, không rụt rè, Đức Giêsu đã chủ động đến gặp người phụ nữ. Nếu không có người đi bước trước hố cách ngăn sẽ không xoá được. Kinh nghiệm cho thấy những thiên kiến, những hiểu lầm, những nghi ngại rất khó vượt qua. Phải mạnh dạn. Phải gạt bỏ tất cả quá khứ. Phải xoá đi mọi thiên kiến.

Đi bước trước là một thái độ phóng khoáng. Đi bước trước gợi lên niềm tin tưởng : mình tin người để người cũng tin mình. Tôi có chủ động đến với những người không ưa tôi, những người khác đạo, những người ghét đạo không ? 

b)    Thái độ khiêm nhường 

Đức Giêsu đến với người phụ nữ với thái độ khiêm nhường. Người không đến như kẻ cả để lên lớp dạy chị. Người không đến như kẻ có quyền để ban ơn cho chị. Trái lại Người đến như một kẻ yếu đuối, đói khát cầu xin chị giúp đỡ. Một người Do thái đến xin nước một người phụ nữ mà đó lại là người xứ Samaria, một người ngoại đạo, một người bỏ đạo, một người phản đạo.

Một người thánh thiện đi xin một tội nhân. Phải khiêm nhường lắm mới có thể hạ mình như thế. Chính thái độ khiêm nhường làm cho chị phụ nữ cảm thấy dễ gần, thông cảm với Chúa. 

c)    Thái độ kính trọng 

Đức Giêsu đến xin nước. Đó là một thái độ trân trọng. Người công nhận chị là chủ nhân. Người đánh giá cao cái giếng, nước giếng. Người trân trọng chị dù chị là người tội lỗi, không có danh giá trong làng. Chính thái độ kính trọng này gây được cảm tình nơi chị. Đây chính là một bài học về hội nhập văn hoá. Nhà truyền giáo khi đến một nơi xa lạ phải biết trân trọng những gì sẵn có, những giá trị của nền văn hoá địa phương.

Chính nhờ những thái độ chủ động, khiêm nhường, kính trọng, Đức Giêsu đã thành công trong việc vá lưới.

Người đã vá được những mảng rách trong quan hệ giữa người Giuđêa và Samaria. Người đã nối liền những khoảng cách về giới tính, về chính trị, về tôn giáo giữa hai miền.

Người đã vá được tâm hồn người phụ nữ. Một tâm hồn đã có quá nhiều thương tích và chắc chắn mang nặng mặc cảm. Không những chữa lành tâm hồn chị, Người đưa chị trở lại mối liên hệ tốt đẹp với con người. Và trên hết Người dẫn chị tới mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa.

Người đã nối được nhịp cầu. Chính chị phụ nữ giờ đây trở thành nhịp cầu cho dân làng đến gặp Chúa.

Qua việc gặp người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu dạy ta hiểu truyền giáo là tiếp xúc với tâm hồn con người. Tâm hồn con người rất tế nhị và phức tạp. Phải có thái độ rất cởi mở, rất khiêm nhường và rất trân trọng mới mong thành công.

Trong Giáo hội, trong giáo phận, trong giáo xứ, trong mỗi người ta gặp đều có những khoảng cách, những phần lưới rách. Nhất là trong bản thân tâm hồn người tông đồ có nhiều mảng rách. Những mảng lưới rách làm cho chúng ta lỡ nhiều đàn cá.

Chúng ta hãy biết khâu vá cho nhau. Và xin Chúa khâu vá tâm hồn chúng ta.

Một điều kiện để khâu vá là phải nhìn thẳng vào chỗ rách, thành thực không giấu giếm. Và khiêm nhường xin Chúa và anh em khâu vá cho ta.

Lạy Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò

Chúa chẳng khinh chê (Tv 50).

TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

VỀ MỤC LỤC
BA VỊ ẨN TU: MỘT TRUYỀN THUYẾT ĐƯỢC LƯU HÀNH Ở THỊ TRẤN VOLGA

 
 
 Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Matthew VI: 7, 8
 
 Cùng trẩy đi trên chuyến tàu từ Archangel đến Đan Viện Solovétsk, Đức giám mục và các khách hành hương định đến viếng ngôi đền ở đó. Chuyến du hành thật êm ả. Gió thổi nhẹ và khí hậu mát mẻ. Khách hành hương nằm trên boong tàu, ăn uống, và ngồi thành từng nhóm nhỏ chuyện trò với nhau. Đức giám mục cũng bước lên lan can và khi đang rảo bước ngài chú ý một nhóm các ông đứng gần mui tàu đang lắng nghe một ngư phủ tay chỉ về hướng biển và nói điều gì đó. Đức giám mục dừng lại và nhìn theo hướng tay của người ngư phủ. Ngài chẳng thấy gì ngoại trừ mặt biển lóng lánh ánh mặt trời. Ngài đến gần hơn để nghe, nhưng khi thấy ngài, người ngư phủ cất mũ và yên lặng. Những người khác cũng cất mũ và cúi đầu chào.
 
 Đức giám mục lên tiếng, “Tôi không dám làm phiền, anh em cứ tự nhiên. Tôi cũng muốn nghe điều anh bạn nói”.
 
 Một người là lái buôn, mạnh dạn hơn tất cả những người trong nhóm, đáp lại, “Người ngư phủ nói về các đan sĩ”.
 
 “Đan sĩ nào?” Đức giám mục vừa hỏi vừa đi về phía hông tàu, và ngồi lên một cái bục. “Kể cho tôi về họ. Tôi cũng muốn nghe. Anh đang chỉ tay vào cái gì vậy?”
 
 Người ngư phủ vừa trỏ ngón tay vào một chấm nhỏ về phía tay phải ở đằng xa vưà trả lời, “Một hòn đảo nhỏ ngài đang thấy đó. Đây là hòn đảo các nhà ẩn tu sống để được phần rỗi linh hồn”.
 
 Đức giám mục hỏi, “Đâu, hòn đảo ở đâu? Tôi chẳng thấy gì cả.”
 
 “Ở đằng xa kia, xin ngài nhìn theo tay tôi. Ngài có thấy đám mây nhỏ đó không? Bên dưới đám mây đó, chếch bên trái một chút, có một vệt mờ mờ. Đó là hòn đảo.”
 
 Đức giám mục nhìn kỹ hơn, nhưng ánh mắt không quen của ngài chẳng nhìn thấy gì mà chỉ toàn những ánh lung linh trên mặt biển.
 
 “Tôi không thấy gì”, ngài nói. “Nhưng các vị ẩn tu ở đó là ai vậy?”
 
 Người ngư phủ trả lời, “Đó là những vị thánh. Tôi đã nghe nhiều về họ nhưng mãi đến năm trước mới có dịp diện kiến.”
 
 Và người ngư phủ kể lại có một lần khi đang đánh cá, anh ta bị sóng đánh dạt vô hải đảo lúc ban đêm, nhưng chẳng biết đó là đâu. Vào sáng sớm, khi đang lang thang trên hòn đảo, anh đi qua một túp lều, và gặp một cụ gìa đứng gần. Ngay lúc đó hai người khác bước ra, và họ đã cho anh ta ăn, phơi khô quần áo, giúp sửa lại chiếc thuyền.
 
 Đức giám mục hỏi, “Họ nhìn như thế nào?”
 
 “Một người thì nhỏ con, lưng bị gù. Ông ta mặc áo dòng và nom rất già; có lẽ cả trên trăm tuổi, tôi nghĩ vậy. Ông ta già với bộ râu bạc màu, nhưng miệng lúc nào cũng nở một nụ cười, và khuôn mặt rạng rỡ như mặt một thiên thần. Người thứ hai cao hơn, nhưng cũng rất già. Ông ta mặc chiếc áo khoác rách rưới như một người nông phu. Chòm râu của ông ta rậm, và đang ngã qua màu vàng. Ông là một người lực lưỡng. Trước khi tôi có thể giúp ông ta một tay, thì ông đã lật ngược chiếc thuyền của tôi như nâng một xô nước. Ông ta cũng rất tử tế và vui vẻ. Còn người thứ ba thì cao, và chòm râu trắng như tuyết gần chạm đến đầu gối. Ông nom khắc khổ, với đôi lông mày dựng ngược; ông chẳng mang gì ngoại trừ một mảnh vải thắt ngang lưng.”
 
 “Họ có nói gì với anh không?”, Đức giám mục hỏi.
 
 “Phần lớn họ làm mọi sự trong thinh lặng, và nói rất ít, ngay cả với nhau. Khi một người nhướng mắt nhìn, người kia đã hiểu ý. Tôi hỏi người cao nhất là họ đã ở đó bao lâu, ông ta nhướng mày nom rất giận dữ. Nhưng người già nhất nắm lấy tay ông và mỉm cười, còn người cao thứ hai thì im lặng. Người cao tuổi nhất chỉ nói, ‘Xin thương xót chúng tôi’ và mỉm cười.”
 
 Trong khi người ngư phủ đang nói, chiếc tàu đã đến gần hòn đảo hơn.
 
 Người lái buôn trỏ ngón tay và nói, “Đó, bây giờ Đức Cha có thể nhìn rõ rồi, nếu ngài muốn.”
 
 Đức giám mục nhìn lên, và lúc nầy ngài thấy một vệt đen, đó là hải đảo. Ngài rời mũi tàu, nhìn kỹ hơn một chút nữa, rồi đi về phía đuôi tàu và nói với viên cầm lái:
 
 “Đó là hòn đảo, phải không?”
 
 Người đàn ông trả lời, “Vâng, đảo nầy không có tên. Có nhiều hòn đảo như thế ở biển nầy.”
 
 “Có những đan sĩ sống ở đó để cứu rỗi linh hồn của họ, phải không?”
 
 “Thưa ngài, vâng, nhưng tôi không biết điều đó có đúng không. Những ngư phủ ở đây đều nói đã thấy họ; nhưng dĩ nhiên đó cũng có thể là chuyện biạ.”
 
 “Tôi muốn vào hòn đảo đó để gặp họ,” Đức giám mục nói. “Làm sao tôi có thể vào được?”
 
 Người lái tàu nói, “Tàu không thể đến gần bờ đảo. Nhưng ngài có thể chèo xuồng vào. Ngài nên nói chuyện với ông thuyền trưởng.”
 
 Người ta đi gọi viên thuyền trưởng và ông đến.
 
 Đức giám mục nói, “Tôi muốn gặp các đan sĩ. Có thể nào tôi không vào được chăng?”
 
 Viên thuyền trưởng cố khuyên can ngài.
 
 Ông nói, “Dĩ nhiên điều đó có thể làm được, nhưng chúng ta sẽ mất rất nhiều thì giờ. Và ngay cả tôi có cố gắng, những ông già đó cũng chẳng đáng công để ngài vào gặp. Tôi đã từng nghe nói rằng những ông gìa da vàng đó ngây ngô, chẳng hiểu gì, mà cũng chẳng nói lời nào, không hơn gì cá ở biển.”
 
 “Tôi mong muốn gặp họ dẫu cho khó khăn và tốn nhiều thì giờ”, Đức giám mục nói. “Làm ơn cho tôi mượn một chiếc xuồng”.
 
 Không làm được gì hơn, vì lệnh đã ban hành. Các thủy thủ sửa lại buồm, hạ bánh lái, và chiếc tàu hướng mũi vào hải đảo. Một chiếc ghế được sắp sẵn ở đầu mũi tàu cho Đức giám mục, và ngài ngồi xuống nhìn ra đằng trước. Các hành khách tuôn về đầu mũi, và chăm chú nhìn vào hòn đảo. Những người mắt tỏ bây giờ có thể nhìn thấy các mỏm đá, và một túp lều cỏ. Cuối cùng một người nhìn thấy các đan sĩ. Viên thuyền trưởng mang ống nhòm đến, và sau khi nhìn kỹ, ông đưa ống nhòm cho Đức giám mục.
 
 “Đúng rồi. Có ba đan sĩ đang đứng trên bờ. Đó, họ đứng về mé trái của cục đá lớn.”
 
 Đức giám mục cầm lấy ống nhòm, nhắm và nhìn thấy ba người: một người cao, một người thấp hơn, và một người nhỏ con lưng gù, họ đứng trên bờ cùng nắm tay nhau.
 
 Ông thuyền trưởng quay qua Đức giám mục và nói, “Thưa Đức cha, tàu không thể đến gần hơn được nữa. Nếu ngài muốn lên bờ, xin bước xuống xuồng và tàu sẽ hạ neo ở đây”.
 
 Giây cáp được nhanh chóng hạ xuống; neo thả ra và buồm cuốn lại. Con tàu bị ghì lại và lắc mạnh. Khi chiếc xuồng nhả ra, các tay chèo nhảy xuống, còn Đức giám mục bước lần theo cầu thang và ngồi vào chỗ. Các nhịp chèo đẩy nhanh chiếc xuồng hướng vào bờ đảo. Khi họ tới gần cách khoảng ném một cục đá, họ nhìn thấy ba người già: một người cao với một mảnh giải đeo ngang thắt lưng, người thấp hơn trong chiếc áo nhà nông rách nát, và một cụ già còng lưng mặc một chiếc áo dòng—cả ba tay nắm tay.
 
 Các tay chèo kéo xuồng vào bờ, giữ chặt xuồng để Đức giám mục bước ra.
 
 Ba người già bái chào Đức giám mục và ngài ban phép lành trong lúc họ đang cúi đầu.
 
 Đức giám mục nói, “Tôi được biết các vị sống tốt lành ở đây cho phần rỗi linh hồn của mình và cầu nguyện cho những người khác. Là tôi tá bất xứng của Chúa, tôi cũng được gọi do lòng thương của Người để chăm sóc và dạy dỗ đàn chiên Chúa. Tôi mong muốn được gặp các vị là những tôi trung của Chúa để có thể hướng dẫn được điều gì chăng”.
 
 Những người già nhìn nhau mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng.
 
 Đức giám mục nói, “Nói cho tôi hay các vị làm gì để cứu rỗi, và làm sao để phụng sự Chúa trên đảo nầy.”
 
 Vị đan sĩ thứ hai thở dài và ngước nhìn vị cao tuổi. Vị nầy mỉm cười và nói, “Chúng con không biết phục vụ Chúa thế nào, vì vậy chỉ biết phục vụ và giúp đỡ nhau như là các đầy tớ của Chúa mà thôi.”
 
 “Nhưng các người cầu nguyện với Chúa thế nào?” Đức giám mục hỏi.
 
 Vị đan sĩ đáp, “Chúng con cầu nguyện như thế nầy. Lạy Ba đấng, ba chúng con đây, xin thương xót chúng con.”
 
 Và khi người cao tuổi nói những lời nầy, cả ba ngước mắt lên trời, và lập lại:
 
 “Lạy Ba đấng, ba chúng con đây, xin thương xót chúng con.”
 
 Đức giám mục mỉm cười.
 
 Ngài nói, “Chắc hẳn các ngươi đã nghe biết về Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng các ngươi không cầu nguyện đúng cách. Các ngươi là những người lành thánh đã làm tôi động lòng. Tôi biết rằng các ngươi muốn đẹp lòng Chúa, nhưng các ngươi không biết cách phục vụ Ngài. Đây không phải là cách để các ngươi cầu nguyện; nhưng hãy nghe, tôi sẽ chỉ cách. Tôi dạy các ngươi, không bằng cách của tôi, nhưng là cách Thiên Chúa trong Thánh Kinh đã dạy mọi người cầu nguyện.”
 
 Thế rồi Đức giám mục bắt đầu giải thích cho các đan sĩ Chúa đã tỏ mình ra cho con người thế nào, và dạy họ về Đức Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
 
 Ngài nói, “Chuá Con đã xuống thế để cứu chuộc nhân loại, và đây là điều Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện. Hãy lắng nghe và lập lại theo tôi: ‘Lạy Cha chúng con’.
 
 Người thứ nhất lập lại, “Lạy Cha chúng con” và người thứ hai đọc, “Lạy Cha chúng con” và người thứ ba, “Lạy Cha chúng con”.
 
 “Đấng ngự trên trời,” Đức giám mục đọc tiếp.
 
 Người thứ nhất lập lại, “Đấng ngự trên trời,” nhưng người thứ hai vụng về đáp lại, còn người cao to thứ ba không thể lập lại đúng chữ. Tóc của ông đã phủ che cả miệng vì vậy ông không phát âm rõ tiếng. Vị đan sĩ cao tuổi nhất, không có răng, cũng mấp máy không rõ ràng.
 
 Đức giám mục lập lại lần nữa, và ba người già lập lại sau ngài. Đức giám mục ngồi xuống một tảng đá, còn những người già đứng trước mặt ngài, quan sát miệng ngài và lập lại từng lời ngài nói. Và sau một ngày dài lao động vất vả, đọc lời kinh hai mươi, ba mươi và cả hàng trăm lần, và sau mỗi lần các đan sĩ tiếp tục đọc theo. Họ vụng về, và ngài tiếp tục sửa, và muốn họ lập lại từ đầu.
 
 Đức giám mục đã không rời chỗ cho đến khi đã dạy họ toàn bộ Kinh Lạy Cha để họ không phải lập lại sau ngài mà có thể tự đọc một mình. Người đứng giữa là người đầu tiên học thuộc, và có thể tự lập lại một mình. Đức giám mục bắt người nầy đọc đi đọc lại, để ít nhất hai người kia cũng lập lại được.
 
 Trời đã tối và ánh trăng đang hiện lên trên mặt biển. Đức giám mục đứng lên và bước xuống tàu. Khi ngài rời đi, các đan sĩ cúi rạp mình xuống đất trước mặt ngài. Ngài nâng họ lên, hôn từng vị một, dặn họ cầu nguyện theo cách ngài đã dạy. Thế rồi ngài rảo bước xuống xuồng để trở lại con tàu.
 
 Đang khi ngồi trên xuồng và chiếc xuồng chèo ra tàu lớn, ngài nghe ba đan sĩ lớn tiếng lập lại Kinh Lạy Cha. Khi chiếc xuồng đến gần con tàu, tiếng kinh của họ không còn nghe được nữa nhưng bóng họ còn nhìn thấy trên mặt biển dưới ánh trăng, nom giống như lúc ngài rời họ trên bờ đảo: người thấp nhất ở giữa, người cao nhất bên phải, và người cao vừa bên trái. Khi Đức giám mục vừa đến tàu và trèo lên, neo được nhổ lên và buồm thả ra. Gío thổi mạnh và con tàu trẩy đi. Đức giám mục đến ngồi cuối đuôi tàu nhìn hòn đảo đang rời xa. Một lúc sau ngài còn thấy ba đan sĩ, tuy hòn đảo đã cách xa chỉ thấy lờ mờ. Cuối cùng hải đảo biến mất, chỉ còn mặt biển lung linh với ánh trăng.
 
 Các khách hành hương đã đi ngủ và quang cảnh yên lặng trên boong tàu. Đức giám mục chưa muốn ngủ, ngài ngồi yên ở cuối con tàu, mắt nhìn ra mặt biển nơi hải đảo đã rời xa, và suy nghĩ miên man về ba đan sĩ. Ngài nghĩ hẳn họ đã rất vui học được Kinh Lạy Cha; và ngài cám ơn Chúa đã gửi ngài đến giúp họ.
 
 Đức giám mục tiếp tục ngồi, suy nghĩ, và dán mắt vào mặt biển khi hải đảo đã biến đi. Rồi ánh trăng lóe lên trước mắt ngài, các tia sáng lóng lánh, khi chỗ nầy, khi chỗ khác trên các lượn sóng. Thình lình ngài nhìn thấy vật gì đó màu trắng và chiếu sáng, băng băng trên biển thành một đường thẳng phát quang dưới ánh trăng. Một con chim biển lớn, hoặc một cánh buồm lấp lóe của con thuyền nào đó? Đức giám mục dán mắt vào vật đó và quá đỗi ngạc nhiên.
 
 Ngài thốt nghĩ, “Phải là một con thuyền chạy đằng sau, nhưng nó vượt lên nhanh qúa. Nó mới còn ở xa mà đã đến gần rồi. Nhưng nó không thể là con thuyền, vì không có buồm; nhưng dầu nó là vật gì đi nữa, nó đang chạy theo và đuổi kịp mình.”
 
 Và ngài không thể đoán ra đó là vật gì nữa. Không phải con thuyền, cũng chẳng phải chim, cũng không là cá! Nó qúa lớn, không thể là con người, mà con người làm sao đang chạy trên biển. Đức giám mục đứng phắt dậy, và nói với người lái tàu:
 
 “Coi kià, cái gì vậy, anh bạn? Cái gì vậy?” Đức giám mục lập lại, mặc dầu lúc nầy ngài đã thấy rõ—đó chính là ba vị đan sĩ đang chạy trên mặt nước, ánh quang của chòm râu trắng lấp lánh tiến gần con tàu, nhanh đến nỗi như tàu đang ngừng chạy.
 
 Người lái tàu nhìn, và vụt bỏ tay lái vì sợ hãi.
 
 “Ôi, lạy Chúa tôi! Các đan sĩ đang chạy theo giống như họ đang chạy trên bờ!”
 
 Các hành khách nghe ông nói bật dậy và tập họp ở cuối con tàu. Họ nhìn thấy các đan sĩ đang chạy theo, tay trong tay, và hai người bên ngoài vẫy tay ra hiệu cho con tàu ngừng lại. Cả ba đang trượt trên nước mà không phải cử động bàn chân. Trước khi con tàu ngừng lại, các đan sĩ đã bắt kịp, họ cùng nâng đầu lên, và nói:
 
 “Chúng con đã quên lời dạy của ngài, vị tôi tớ Chúa. Khi lập lại lời kinh thì chúng con còn nhớ, nhưng khi ngừng một chút thì quên từng chữ, bây giờ thì quên hết rồi. Xin ngài dạy lại cho chúng con.”
 
 Đức giám mục làm dấu thánh gía, rồi dựa bên thành tàu, ngài nói:
 
 “Lời cầu của các ngươi đã thấu tai Chúa, hỡi người con của Chúa. Đó không phải là điều tôi đã dạy các ngươi. Xin cầu cho chúng tôi là kẻ tội lỗi.”
 
 Và Đức giám mục bái lạy các người già; họ quay đi và băng qua mặt biển. Một vệt sáng lóe lên mãi cho đến lúc rạng đông khi dấu vết của họ biến mất cuối chân trời.
 
 
Tác giả Leon Tolstoy, Trần Hiếu dịch

VỀ MỤC LỤC
“SUY NGHĨ CỦA CHÚNG TA PHẢI PHÙ HỢP VỚI Ý MUỐN CỦA THIÊN CHÚA”

 

Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ 

Bài giảng trong thánh lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới với chủ đề “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội” của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, Chúa Nhật 26 tháng 10 năm 2008. 

Chư huynh trong hàng Giáo Phẩm và Giáo Sỹ

Anh Chị Em thân mến, 

Lời của Chúa, được vang vọng trong Tin Mừng mới đây, đã nhắc nhở chúng ta rằng tất cả mọi Lề Luật đều được tóm lược trong tình yêu.  Thánh sử Mátthêu kể rằng, những người Pharisiêu, sau khi biết Chúa đã bịt miệng bọn Sađốc, đã hội họp nhau để thử thách Ngài (cf. 22:34-35). Moät trong boïn hoï laø tieán só luaät ñaõ hoûi Ngaøi: “Thöa Thaày, giới răn nào là giới răn trọng nhất? (22:36). Câu hỏi cho phép ta nhìn thấy sự lo lắng, hiện diện trong truyền thống cổ xưa của người Do Thái, của việc tìm kiếm một nguyên tắc chung giữa nhiều cách thức bày tỏ Ý muốn của Thiên Chúa. Đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời, vì có đến 613 huấn lệnh và điều cấm kỵ trong bộ luật của Maisen. Làm sao tìm được điều nào là điều quan trọng nhất giữa những luật lệ ấy? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại, và trả lời ngay lập tức: “Ngươi phải kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn. Đấy là giới luật trọng đại nhất” (22:37-38). Chúa Giêsu trưng dẫn Shemà (lời tuyên bố về một nguyên tắc căn bản của niềm tin Do Thái Giáo), một lời cầu của người Do Thái sốt sắng đọc nhiều lần mỗi ngày, đặc biệt vào buổi sáng và buổi chiều (cf. Dt 6:4-9; 11:13-21; Nb 15:37-41): Lời công bố về một tình yêu toàn diện và hoàn vẹn đối với Thiên Chúa, như một Thiên Chúa duy nhất. Nhấn mạnh về việc đặt tất cả sự dâng hiến này cho Thiên Chúa, về việc liệt kê ba cơ năng mà nó định nghĩa con người trong cấu trúc tâm lý sâu xa của nó: trái tim, linh hồn và trí khôn. 

Chữ trí khôn, diánoia, bao gồm yếu tố lý lẽ. Thiên Chúa không chỉ là mục tiêu của tình yêu, của ý chí và cảm tình, nhưng còn là đối tượng của thông minh mà nó không thể bị tách biệt khỏi tình yêu. Suy nghĩ của chúng ta phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Và vì thế, Chúa Giêsu thêm vào một số điều trong đóù, thật ra, vị tiến sỹ luật đã không hỏi tới: “Điều thứ hai cũng giống như thế: Ngươi phải yêu thương cận thân như chính mình” (22:39). Điều ngạc nhiên trong câu trả lời của Chúa Giêsu bao gồm trong sự kiện đó là Ngài thiết lập một sự tương đồng giữa giới răn thứ nhất và thứ hai, mà ở vào thời điểm đó, đã định nghĩa như một lề luật Thánh Kinh rút ra từ sự thánh thiện của luật Lêvy (cf. Lv 19:18). Và do đó, hai giới luật được liên kết bằng một trục chính, trên đó tất cả mặc khải Thánh Kinh dựa vào nó: “Tất cả mọi lề luật và lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn này” (22:40). 

Lời Phúc Âm mà chúng ta đang suy niệm, chiếu lên ánh sáng về ý nghĩa của việc làm môn đệ Chúa Kitô, là thực hành lời giảng dậy của Ngài, điều này có thể được qui về trong giới luật trọng đại nhất và đầu tiên của Thánh Luật, giới luật tình yêu. Ngay trong Bài Đọc Đầu Tiên, trích từ Sách Xuất Hành, gồm tóm nhiệm vụ của tình yêu, một tình yêu được minh chứng cách thiết thực trong những tương quan giữa con người: đó phải là những mối liên kết của kính trọng, hợp tác, giúp đỡ tận tình. Kế đến là yêu thương những người xa lạ, cô nhi, quả phụ và bần cùng, hay có thể nói là những công dân không thể tự “bảo vệ” được mình. Thánh ký đi sâu vào những chi tiết như trường hợp một người nghèo đi cầm đồ vật của mình (cf. Ex 22:25-26). Trong trường hợp này, chính Thiên Chúa là người bảo đảm cho tình trạng của người nghèo ấy. Trong Bài Đọc Thứ Hai, chúng ta có thể tìm thấy một ứng dụng cụ thể của giới luật cao cả nhất của tình yêu tại một trong những Cộng Đoàn Kitô Giáo Tiên Khởi. 

Thánh Phaolô viết cho giáo dân Thesalonia, hướng dẫn họ để hiểu rằng, trong khi biết họ chỉ với một thời gian vắn vỏi, ngài đã tiếp nhận họ và mang trong lòng mối cảm khích đối với họ. Bởi thế, ngài  coi họ như như “tấm gương cho tất cả những người tin nhận ở Maceđônia và Achaia” (1 Th 1:6-7). Không thiếu những vấn nạn và yếu kém trong cộng đoàn vừa mới được thành lập này, nhưng tình yêu thắng vượt tất cả, đổi mới tất cả, chiến thắng tất cả: tình yêu của những người hiểu được những giới hạn của họ, một cách ngoan ngoãn đi theo lời của Chúa Kitô, Vị Thầy Thần Linh, đã được chuyển đạt qua một trong những môn đệ trung tín của Ngài. Thánh Tông Đồ viết: “Anh em coi chúng tôi và Thiên Chúa như mẫu mực của anh em, đón nhận lời ngài với niềm vui của Thánh Thần mặc dù thử thách lớn lao”. Ngài viết tiếp: “vì từ anh em mà lời của Thiên Chúa được rao giảng – không phải chỉ quanh Macedonia và Achaia, vì đức tin của anh em vào Thiên Chúa đã được lan rộng khắp nơi” (1 Th 1:6,8). Baøi hoïc maø chuùng ta coù theå ruùt ra töø kinh nghieäm cuûa giaùo ñoaøn Thessaloânia, vaø kinh nghieäm töø söï kieän thoâng thöôøng trong baát cöù moät coäng ñoaøn Kitoâ höõu chaân thaønh naøo, laø tình yeâu ñoái vôùi caän thaân ñöôïc troå sinh töø vieäc chaân thaønh lắng nghe Lời Chúa, cũng như đón nhận những thử thách đối với lời chân lý để từ đó tình yêu chân thật mọc lên và chân lý chiếu sáng. Điều rất quan trọng là lắng nghe Lời và nhập thể lời vào sự có mặt của cá nhân cũng như cộng đoàn! 

Trong khi cử hành Thánh Lễ này, thánh lễ bế mạc công việc của Thượng Hội Đồng, trong một cách đặc biệt, chúng ta cảm thấy sự gắn bó mà nó hiện hữu giữa việc yêu mến lắng nghe lời Chúa, và việc phục vụ bất vụ lợi đối với anh chị em. Bao nhiêu lần trong ít ngày qua, chúng ta đã nghe những kinh nghiệm và những phản ảnh nhu cầu nổi bật của ngày nay của việc chân thành lắng nghe lời Chúa, của việc hiểu biết thành thật hơn Lời Cứu Độ của Ngài; của việc chia sẻ nhiệt tình hơn đức tin được nuôi dưỡng một cách vững vàng nơi bàn tiệc Lời Chúa! Chư huynh khả kính, cám ơn sự đóng góp mà mỗi chư huynh đã cống hiến trong việc thảo luận quanh chủ đề của Thượng Hội Đồng: “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”. Tôi chào đón tất cả chư huynh với cảm tình tha thiết. Đặc biệt xin chào mừng quí Hồng Y, những vị Chủ Tịch của Thượng Hội Đồng, và Tổng Thư Ký, những vị mà tôi xin cảm ơn về sự cống hiến nhiệt tình của quí vị cho Thượng Hội Đồng. Thưa anh chị em thân mến, tôi chào mừng anh chị em, những người đến từ những lục địa với kinh nghiệm phong phú mình. Khi trở lại quê hương, xin hãy trao cho từng người lời chào thăm thắm thiết của vị Giám Mục Rôma. Tôi chào mừng các phái đoàn Thượng Phu, những Nhà Chuyên Môn, những Quan Sát Viên, và những Thượng Khách của Thượng Hội Đồng: những thành viên của Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, và tất cả những người làm việc trong ngành truyền thông. Đặc biệt, tôi nghĩ về những Giám Mục của Trung Hoa Lục Địa, những vị đã không được đại diện trong Thượng Hội Đồng này. Tôi muốn nhân danh các vị này và cảm tạ Thiên Chúa vì tình yêu của các vị đã dâng cho Chúa Kitô, sự hiệp nhất với Giáo Hội Hoàn Vũ, và lòng trung thành của các vị đối với đấng kế vị Thánh Phêrô Tông Đồ. Các ngài hiện diện trong những lời cầu nguyện của chúng ta, cùng với mọi tín hữu được trao phó cho sự săn sóc mục vụ của các ngài. Chúng ta hãy cầu xin “Đấng Chăn Chiên Tối Cao” (1 Pt 5:4) ban cho họ niềm vui tông đồ, sức mạnh, và sự hướng dẫn nhiệt tâm, với sự khôn ngoan và tầm nhìn xa xôi, cộng đồng Công Giáo Trung Hoa rất quí mến của tất cả chúng ta. 

Tất cả chúng ta, những người tham dự vào công việc của Thượng Hội Đồng sẽ mang theo với mình kiến thức mới mẻ mà công tác chính của Giáo Hội, ngay khi bắt đầu tân thiên niên kỷ, là trên tất cả là nuôi dưỡng chúng ta ta bằng Lời của Thiên Chúa, để có thể ảnh hưởng hơn việc tân phúc âm hóa, lời công bố của thời đại chúng ta. Điều cần thiết lúc này là kinh nghiệm hội thánh đây phải vươn tới mọi cộng đoàn; chúng ta phải hiểu sự cần thiết của việc chuyển đổi Lời Chúa mà chúng ta đã nghe thành những nghĩa cử yêu thương, bởi vì đó là con đường duy nhất làm cho Tin Mừng thành một lời công bố đáng tin cậy, mặc dù có những yếu đuối con người nơi mỗi người. Điều đòi hỏi đầu tiên trên tất cả là hiểu biết mật thiết hơn về Chúa Kitô và chân thành hơn đón nhận  lời Ngài. 

Trong Năm Thánh Phaolô này, hãy làm cho những lời này của ngài trở thành của chúng ta: “Khốn cho tôi, nếu tôi không [rao giảng Phúc Âm]” (1 Cor 9:16), tôi hy vọng với tất cả tấm lòng tôi rằng trong mỗi một cộng đoàn trong Năm Thánh Phaolô này sẽ được cảm nhận bằng một lòng xác tín hơn bao giờ  như một ơn gọi trong việc phục vụ Phúc Âm đối với thế giới. Ngay lúc khai mạc Thượng Hội Đồng, tôi đã hồi tưởng lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Mùa màng thì bề bộn” (Mt 9:37), một lời mời gọi chúng ta phải đáp trả không mệt mỏi giữa tất cả mọi khó khăn mà chúng ta gặp phải. Càng nhiều người tìm kiếm, một đôi khi bằng một cách không chủ ý, cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và Phúc Âm của Ngài; càng có nhiều người tìm thấy nơi Ngài một ý nghĩa cho cuộc đời của họ. Đưa ra lời chứng chia sẻ và trong sáng về một cuộc đời theo Lời Chúa, được chứng nhận bởi Chúa Giêsu, do đó, trở nên một tiêu chuẩn thiết thực chứng tỏ sứ vụ của Chúa Kitô. 

Những Bài Đọc trong phụng vụ giúp chúng ta suy niệm hầu nhắc nhớ chúng ta rằng giữa trọn lề luật, cũng như mọi lời Thánh Kinh, là tình yêu. Vì thế, tất cả những ai tin rằng mình hiểu biết Thánh Kinh, hoặc ít nhất một phần nào của Thánh Kinh, mà không xây dựng, bằng sự khôn ngoan của mình, tình yêu giữa Thiên Chúa và cận thân mình, chứng tỏ rằng trong thực tế, họ còn xa cách  trên con đường bắt gặp gỡ ý nghĩa sâu thẳm hơn của nó. Nhưng làm sao chúng ta có thể đem vào thực hành giới luật này. Làm sao chúng ta có thể sống trong tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu anh chị em mình mà thiếu vắng sự sống và tiếp xúc mật thiết với Thánh Kinh? Công Đồng Vaticanô II xác định sự cần thiết này rằng “sự tiếp cận dễ dàng với Thánh Kinh sẽ đem lại cho tất cả Kitô hữu niềm tin” (Cost. Dei Verbum, 22), vì thế, những người trong việcï gặp gỡ chân lý, có thể sẽ lớn lên trong tình yêu chân chính. Đây là điều kiện cần thiết cho việc phúc âm hóa ngày nay. Và vì thường xuyên sự va chạm với Thánh Kinh đang bị đe dọa không phải “một dữ kiện” từ phía Giáo Hội, nhưng do hướng dẫn bở chủ thể, và tự ý, một sự thăng hoa uy tín mục vụ do hiểu biết chắc chắn Thánh Kinh, để công bố, cử hành và sống Lời Chúa trong cộng đồng Kitô hữu, để trở thành cần thiết, một cuộc đối thoại với những nền văn hóa của thời đại chúng ta, đặt chúng ta vào việc phục vụ chân lý, và không chỉ những tư tưởng hiện tại, và gia tăng cuộc đối thoại Thiên Chúa mong muốn với mọi người (cf ibid 21). Với ý nghĩa này, việc săn sóc đặc biệt đòi hỏi các vị mục tử phải chuẩn bị, sẵn sàng, và phải làm bất cứ điều gì cần thiết để truyền bá sinh hoạt Phúc Âm với những phương tiện thích hợp.

Những cố gắng tiếp tục để làm sống động phong trào Thánh Kinh giữa những tín hữu giáo dân cần được khuyến khích, song song với việc thành lập nhóm người cổ võ, đặc biệt chú ý đến giới trẻ. Chúng ta cũng phải giúp đỡ sự cố gắng để đức tin được biết tới qua Lời Chúa đối với những người “xa lạ”, cũng như đặc biệt đối với những ai đang thành tâm kiếm tìm cho họ một ý nghĩa cho đời sống của họ. 

Còn nhiều suy nghĩ nữa cần được thêm vào, nhưng tôi muốn tự giới hạn để nhấn mạnh rằng chỗ đứng riêng biệt ở đó Lời của Thiên Chúa vang vọng, rằng việc xây dựng Giáo Hội, như đã được đề cập nhiều lần trong Thượng Hội Đồng, không thể nghi ngờ là phụng vụ. Ở trong đó, Thánh Kinh là cuốn sách của con người và cho con người; một di sản, một giao ước được trao cho người đọc để nó được đem vào thực hành trong đời sống của mỗi người lịch sử ơn cứu độ đã được ghi chép trong đó.  Vì thế, sẽ có một mối hiệp thông hỗ tương trong sự liên kết sống động giữa con người và Sách Thánh: Thánh Kinh luôn luôn là một cuốn Sách sống động với con người mà điều cốt yếu là đọc nó; con người không thể tồn tại mà không có sách Thánh, bởi vì ở trong đó mà con người tìm được lý do cho cuộc sống, ơn gọi, và phẩm vị của mình. Muối liên kết hỗ tương giữa con người và Sách Thánh được cử hành mỗi khi cử hành phụng vụ, mà ở đó nhờ Chúa Thánh Thần, lắng nghe Chúa Kitô vì chính Ngài là Đấng nói khi Thánh Kinh được công bố trong Giáo Hội và đón nhận Giao Ước mà Thiên Chúa làm mới mẻ với dân Ngài. Do đó, Thánh Kinh và việc hội họp phụng vụ, với một mục đích đơn thuần là mang con người đến cuộc đối thoại với Thiên Chúa và để vâng nghe ý muốn của Chúa. Lời Chúa phát ra từ miệng Ngài, được chứng minh trong Sách Thánh, trở lại với Ngài trong hình thức của một lời đáp trả nguyện cầu, của một lời đáp trả sống sống, của một lời đáp trả của tình yêu (cf Is 55:10-11). 

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin rằng từ việc đổi mới cách lắng nghe Lời Chúa, được hướng dẫn bởi tác động Chúa Thánh Thần, một cuộc đổi mới chính thức của Giáo Hội hoàn vũ, cũng như nơi mọi cộng đồng Kitô hữu sẽ trổ sinh. Chúng ta phó thác những hoa trái của Thượng Hội Đồng cho sự chuyển cầu từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Tôi cũng tín thác nơi Người Hội Nghị Đặc Biệt Lần Thứ Hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục Phi Châu sẽ được tổ chức tại Rôma vào tháng Mười năm tới. 

Tháng Ba năm tới, tôi dự định tới Cameroon để công bố kết quả Văn Kiện của Thượng Hội Đồng với đại diện các Hội Đồng Giám Mục Phi Châu. Từ đó, với ý muốn của Thiên Chúa, tôi sẽ đi tới Angola để long trọng kỷ niệm 500 năm quốc gia này đón nhận Tin Mừng. Rất Thánh Maria, người đã dâng đời sống anh chị em lên như “người tôi tớ của Thiên Chúa”, để nhờ đó mọi việc sẽ xẩy ra theo với thánh ý của Ngài (cf Lk 1:38) và là người bảo chúng ta hãy làm những gì Chúa Giêsu bảo chúng ta làm (cf Jn 2:5), dạy cho chúng ta nhận thức trong cuộc sống của chúng ta nét đặc thù của Lời Chúa mà chỉ có mình nó có thể ban cho chúng ta ơn cứu độ. Amen.

(Theo tài liệu bằng Anh ngữ phổ biến trên màn điện toán toàn cầu Permalink:http://zenit.org/article-).082?|=english)

VỀ MỤC LỤC
SỨ ĐIỆP CỦA NGÔI MỘ ĐÁ

 

(suy niệm nhân dịp lễ cầu cho các linh hồn) 

Có ai trong chúng ta mà đã không hơn một lần đến viếng người thân và đã trầm ngâm bên ngôi mộ. Có biết bao hình thức khác nhau của ngôi mộ: một đá, mộ xây, mộ xi măng, mộ đất. Mỗi ngôi mộ thường chỉ được ghi vài dòng chữ đơn sơ nói lên tên, tuổi ngày sinh và ngày mất của người nằm bên dưới 3 tấc đất. Dừng chân suy tư bên những ngôi mộ, có lẽ mỗi người chúng ta đã tự hỏi: phải chăng cuộc đời con người, đã có thời huy hoàng là thế, mà nay chỉ còn lại ngôi mộ lanh lẽo với vài dòng chữ đó thôi sao ? 

Không ! ngôi mộ không chỉ là nấm đất vô hồn. Đó là nơi an nghỉ của một con người, một cuộc đời. Nằm dưới ngôi mộ là cả một lịch sử đời người với những tháng ngày vinh quang xen lẫn với ô nhục; với những giọt nước mắt và những nụ cười; với một thời yêu thương và một thuở giận hờn… nói tóm lại, dưới ngôi mộ là cả một chặng đường của một con người có Thiên Chúa luôn đồng hành. Vì vậy, ngôi mộ đá có biết bao điều nói với chúng ta: 

1- Điều thứ nhất ngôi mộ đá nói với chúng ta: cuộc đời này thật mỏng manh quá đỗi. Như bông hoa phù dung sớm nở tối tàn, cuộc đời thật ngắn ngủi. Mới ngày nào còn cắp sách đến trường, hôm nay đã lên ông lên bà, rồi già lão, bệnh tật, rồi chấm dứt cuộc đời. Khi nghĩ về cuộc đời quá ngắn ngủi như thế, xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì. Xin đừng chia rẽ và giận ghét làm chi. Cuộc đời này ngắn lắm, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được. Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì. 

2- Điều thứ hai ngôi mộ đá nói với chúng ta: đây chỉ là một điểm dừng. Những ngôi mộ đá không nằm yên bất động mãi mãi. Cũng như cuộc đời này chỉ là cõi tạm, là quán trọ, ngôi mộ chỉ là một chỗ dừng chân. Thân xác con người được an táng trong lòng đất như hạt giống được gieo xuống. Hạt ấy bị mục nát, nhưng đó là điều cần thiết để mọc lên một cây mới. Sẽ có ngày Thiên Chúa mở tung các ngôi mộ. Sẽ có ngày Ngài cất tấm khăn tang bao trùm thế giới. Khi ý thức ngôi mộ chỉ là nơi dừng chân, chúng ta được yên ủi, vì chúng ta không mãi mãi mất những người thân, nhưng họ đang an giấc trong bụi đất, chờ ngày phục sinh. Chính vì vậy, một số nghĩa trang công giáo được gọi là “nhà chờ”, một số phòng chứa hài cốt được gọi là “phòng đợi”. Đây chính là nơi chờ đợi đến ngày ra trình diện trước nhan Chúa và để gặp gỡ Ngài. 

3- Điều thứ ba ngôi mộ đá nhắc nhở chúng ta về một ngôi mộ trống: sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần -Tin Mừng Thánh Gioan kể lại - Maria Mađalêna ra mồ từ sáng sớm và bà thấy ngôi mộ trống. Ngôi mộ ấy là mộ của Đức Giêsu. Ngài  đã được an táng  ba ngày trước và nay không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chiến thắng tử thần. Thân xác Người không bị hư nát trong mồ. Thiên Chúa đã cho Người sống lại vinh quang. Cùng với Người, những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại như vậy “ai tin Ta sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,47). Như vậy, ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về biến cố Đức Giêsu phục sinh và đồng thời nhắc chúng ta rằng những người đang an nghỉ nơi đây sẽ được sống lại. Người lành được sống lại để hưởng vinh quang; kẻ dữ được sống lại để lĩnh án phạt đời đời. 

Như vậy, khi dừng chân suy niệm bên mộ người thân, chúng ta hãy lắng nghe điều được phát biểu qua những nấm mộ tưởng chừng như vô tri vô giác và lạnh băng ấy. Suy nghĩ về cuộc đời, về linh hồn, về sự chết cũng giúp chúng ta hãy cố gắng sống hoàn thiện hơn. 

+ GM. Giuse Vũ Văn Thiên

VỀ MỤC LỤC
HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ NHỮNG MÂU THUẪN

Bác sĩ Nguyễn Tiến cảnh 

 

Người đầu tiên được Thiên Chúa dựng nên là ông Adam và bà Eva, tức là một người Nam và một người Nữ với mục đích để hai người ăn ở với nhau và sinh con đẻ cái hầu thờ phượng, làm sáng danh Chúa (St1-27,28. Mt.19-4). Chúa đã không chỉ tạo nên hoặc hai người Nam hay hai người Nữ để họ chung sống với nhau. Sau này khi Chúa Giêsu giáng trần, nói về phép hôn phối, Chúa cũng đã nói hai người nam và nữ kết hợp với nhau nên cùng một thân xác, yêu thương gắn bó với nhau để sinh con cái thờ phượng Chúa. (Mt.19-5,6). Chúa đã quở trách những người ngoại tình (Mt.5-27,28). Trong cựu ước ta thấy Chúa đã phạt cả dân thành Sodom vì họ không vâng lời Chúa thờ ngẫu tượng và phạm tội sodoma (St.18-19).

 

Vậy thì theo luật Chúa và luật tự nhiên, để thành vợ chồng phải là một người Nam và một người Nữ, không thể là hai người Nam hoặc hai người nữ với nhau.

 

Qua nhiều triều đại từ thuở tạo thiên lập địa, tất cả những gì trái với luật tự nhiên là trái đạo và kỳ quái bất thường không được xã hội chấp nhận. Nó trái cả với sinh lý bình thường tự nhiên của con người.

 

Nhưng ngày nay con người càng văn minh tiến bộ thì người ta lại càng làm nhiều điều trái lẽ tự nhiên lấy cớ tự do, buông chiều theo dục tính hay tâm tư mình, cho rằng Chúa dựng nên như vậy. Vấn đề hôn nhân đồng tính giữa nam với nam hoặc nữ với nữ đã nảy sinh và phát triển mỗi ngày mỗi rộng, đặc biệt ở Âu Châu và Châu Mỹ / Hoa Kỳ.

 

Tại Hoa Kỳ, hôn nhân đồng tính đã trở thành trọng tâm của mọi cuộc tranh luận. Mới đây ngày 10-10 2008 Tối Cao Pháp Viện Connecticut đã đồng ý cho những cặp đồng tính được chính thức lấy nhau thành vợ chồng, đưa Connecticut lên hàng thứ ba sau Massachusetts và California.

 

Chúng ta thử tìm hiểu xem phản ứng của Giáo Hội Công Giáo thế nào đối với quyết định đó. Tòa Thánh thì dĩ nhiên đã lên tiếng tỏ thái độ bất đồng từ lâu. Tại Connecticut, Hội Đồng Giám Mục Connecticut (HĐGM) đã lên tiếng phản đối và trong một tuyên cáo cùng ngày 10-10-2008 đã đưa ra lời bình luận: “Tối Cao Pháp Viện đã quên rằng bổn phận của Tòa Án là cắt nghĩa luật và cơ quan lập pháp mới có quyền làm ra luật”.[1] Nhưng ở đây Tòa Án lại làm ra luật. Phải chăng có cái gì bất ổn, không được chỉnh và trái nguyên tắc. Các ngài cho rằng quyết định đó của TCPV chứng tỏ đã coi thường nguyên tắc Tự Do Tôn Giáo nếu không muốn nói là đã vi phạm Tự Do Tôn Giáo. Những ưu tư đó chính là đầu đề của một cuốn sách mới xuất bản nói về hôn nhân đồng tính:

 

“HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ TỰ DO TÔN GIÁO: Những xung đột”. [2]

 

Đây là một cuốn sách gồm một số bài viết của những học giả chuyên viên về luật đã được trình bày trong một hội nghị dưới sự bảo trợ của quỹ Tự Do Tôn Giáo Becket mà Douglas Laycock, Anthony R. Picarello Jr. và Robin Fretwell Wilson đã thu nhặt lại rồi in thành sách. Hai cộng tác viên Rowman và Litlefield đã đưa ra vấn đề để thảo luận là khi mà quyền hôn nhân đồng tính được chính thức công nhận thì sẽ có những xung đột nào xẩy ra.

 

Marc D. Stern, phụ tá giám đốc hội nghị những người Mỹ gốc Do Thái đã nêu vấn đề là: Các cơ quan / tổ chức tôn giáo có bổn phận “rao truyền niềm tin của họ” cho cả những tín hữu của họ lẫn những người ngoài tôn giáo họ. Như vậy thì quyền tự do phát biểu, tự do ngôn luận chống lại hôn nhân đồng tính có tiếp tục được nhà nước lắng nghe hay  không? Điều thắc mắc đòi hỏi đó xem ra có vẻ không vừa lòng phía nhà nước. Ông đã nêu trường hợp ở Canada, những than phiền phản đối được đưa lên Ủy Ban Nhân Quyền cấp Tỉnh và Liên Bang đã đưa đến hậu quả là nhà nước đã ra luật chống lại những mục sư và những ai đã công khai phê phán chỉ trích đồng tính luyến ái. Tuy nhiên ông lại cho biết là quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ được tôn trọng hơn ở Âu Châu và những quốc gia khác thì luật về sách nhiễu phái tính rất dễ dàng đưa tới tình trạng chống đối hôn nhân đồng tính.

 

NHỮNG CƠ QUAN CÔNG GIÁO

 

Stern cũng nêu vấn đề nhân viên của các cơ sở hoặc cơ quan Công Giáo. Mới đây tòa ra lệnh cho các cơ quan Công Giáo phải cung cấp bảo hiểm sức khỏe có ngừa thai cho nhân viên. Như vậy các nhà xứ, nhà thờ sẽ gặp trở ngại lôi thôi khi nhân viên của họ là những cặp vợ chồng đồng tính. Stern cũng báo động là các cơ quan tư vấn hôn nhân,  các phòng tâm lý và những cơ sở tương tự của một số nhà xứ, nhà thờ, cơ quan tôn giáo rất có thể sẽ gặp khó khăn khi xin chính quyền giấy phép hành nghề nếu mà họ có khuynh hướng chống đối hôn nhân đồng tính. Ngoài ra một số cơ quan của nhà thờ nhận tài trợ của nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn. Stern kết luận bài viết của ông là chắc chắn những ai chống đối hôn nhân đồng tính sẽ bị ảnh hưởng một khi hôn nhân đồng tính được công nhận và hợp pháp hóa, và dựa vào luật hiện hành thì những ai bất đồng ý kiến hoặc chống đối hôn nhân đồng tính  chắc chắn sẽ khó có thể thoát khỏi hậu quả của pháp luật.

 

Jonathan Turley, giáo sư đại học George Washington đã lý luận rằng nguyên tắc luật lệ của Tối Cao Pháp Viện về vấn đề kỳ thị dựa trên tôn giáo có “những cái mâu thuẫn chõi ngược làm người ta phân vân không biết khi nào nó đúng khi nào sai”. Chẳng hạn Tòa cho phép chính quyền phạt những tổ chức tôn giáo bằng cách từ chối không cho họ được miễn thuế với tư cách là hội vô vị lợi, trong khi đó lại tuyên bố mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu và tự do lập hội. Ông cho rằng hôn nhân đồng tính lại một lần nữa tạo ra những xung đột trầm trọng giữa việc thi hành luật tu chính số Một [3] và luật  cấm không đựoc kỳ thị và phạt những ai phạm luật kỳ thị.

  

NHỮNG MÂU THUẪN

 

Turley đã chứng minh cái mâu thuẫn chõi ngược đó là một đàng thì nói là các tổ chức tôn giáo có quyền phản đối đồng tính luyến ái trong các giáo huấn của mình, một đàng lại buộc họ phải nhận những người đồng tính luyến ái vào làm việc trong những cơ sở tổ chức của họ.

 

Ngoài chuyện từ chối không cho họ được quyền miễn thuế, Tòa Án còn có thể phạt những tổ chức, cơ quan nào có tính kỳ thị. Tối Cao Pháp Viện California đã đồng ý từ chối không cấp loại giường đặc biệt của hải quân ở Berkeley cho hội Hướng Đạo Nam vì tổ chức này chống đối đồng tính luyến ái.

 

Charles J.Reid, Jr., giáo sư luật Đại Học Thánh Thomas đã so sánh sự tương quan giữa Tôn Giáo, Luật Pháp và Nhà Nước. Luật pháp chứng tỏ giá trị của nó qua cung cách xử phạt cũng như cách thức cấm đoán. Kitô giáo đã giữ một vai trò chính yếu trong việc định đoạt luật lệ về hôn nhân, không phải chỉ ở Âu Châu từ thời Trung Cổ mà còn ở ngay Hoa Kỳ này. Từ thế kỷ XII cho đến cách đây mấy thập niên về trước, điều đó đã được  đương nhiên công nhận như là luật về hôn nhân của con người đã được Thiên Chúa  hướng dẫn. Trong nhiều thế kỷ, hôn nhân đã giữ một vai trò tối quan trọng trong trật tự xã hội và được coi là nền tảng căn bản của xã hội loài người. Hôn nhân đã được coi như không phải chỉ là yếu tố tạo thành quốc gia, mà còn là một tổ chức định đoạt tương lai của quốc gia.

 

Theo Reid, hôn nhân ngày nay đang bị tục hóa, làm mất đi tính cách thanh sạch thánh đức của nó để rồi đi đến chỗ ly dị ngày càng gia tăng và những đứa con ngoại hôn ngày càng nhiều.

 

NHỮNG BÀI HỌC

 

Một hệ quả khác nữa là cách cắt nghĩa luật trong những quyết định của TCPV Massachusetts khi luật hôn nhân đồng tính được hợp thức hóa. Nói về tương quan giữa hôn nhân và nhà nước, Tòa phán rằng: “Nói một cách đơn giản là nhà nước tạo nên hôn nhân dân sự”.

 

Vậy thì làm sao mà xã hội có thể tạo ra luật lệ để điều khiển hôn nhân và những thề hứa của họ được. Làm sao một đứa trẻ nít miệng còn hoi sữa lại có thể giảng giải về những giá trị của đời sống ở những khía cạnh thực tế sống động khác nhau. Reid đã kết luận là cuộc tranh luận hiện nay về hôn nhân là một cuộc tranh đấu một phần nào cho những bài học chính đáng đã được luật pháp chỉ bảo.

 

Trong phần kết thúc của cuốn sách, Douglas Laycok, giáo sư luật Đại Học Michigan đã đưa ra nhận xét:

-         Các tác giả đã có những cái nhìn khác nhau về hôn nhân đồng tính và tôn giáo, nhưng tất cả đều đồng ý rằng hôn nhân đồng tính là một đe dọa cho tự do tôn giáo.

 

Ngoài ra Laycok còn thêm:

-         Những người đồng ý ủng hộ hôn nhân đồng tính đòi hỏi không phải chỉ được luật pháp công nhận, các tổ chức tư nhân dễ dãi mà còn đòi hỏi cả hai phía nhà nước và tổ chức tư nhân công nhận và tích cực yểm trợ. Một số người còn đang tìm cách loại bỏ những ý kiến chống đối và phủ nhận hôn nhân đồng tính.

 

Laycok nhận xét:

-         Kinh nghiệm về những xung đột văn hóa ở quá khứ cho thấy là một khi có điều gì mới mẻ và quan trọng được công nhận và bảo đảm thì đồng thời tiếp theo đó lại  có những đòi hỏi khác được đưa ra….

 

Vì vậy ông đề nghị là cứ để cho tôn giáo định đoạt về hôn nhân, nhà nước chỉ nên làm công việc của mình là phần dân sự mà thôi. Tuy nhiên –ông cho biết- cho dù có chấp nhận giải pháp đó đi nữa thì vấn đề vẫn không thể giải quyết được tất cả những khúc mắc phức tạp của nó.

 

PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT.

 

Trong khi Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nhất định không nhân nhượng những quan niệm của mình về hôn nhân thì ngày 15 tháng 10 vừa qua Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đưa ra báo chí một tuyên cáo là đã phối hợp với Hội Hiệp Sĩ Columbus “thành lập một kế hoạch hành động trên toàn nước để bảo vệ hôn nhân”.

 

Một phần của sáng kiến đó là Đức Hồng Y Francis George, chủ tich HĐGM đã cho thành lập một Ủy Ban đặc trách hôn nhân và chỉ định Đức TGM Joseph Kurtz của Louisville thuộc tiểu bang  Kentucky làm chủ tịch.

 

Đức TGM Kurtz đã tuyên bố khi ra mắt Ủy Ban:

-         “Chúng ta phải hết sức cố gắng làm sao cho mọi người hiểu biết được vẻ đẹp  độc  nhất của ơn gọi hôn nhân” [4]

 

Một trong những hành động đầu tiên của các Giám Mục là phát động bản tuyên cáo 2003 của các Giám Mục Hoa Kỳ, xác định rằng hôn nhân là sợi dây liên kết tương giao duy nhất giữa một người nam và một người nữ, và như vậy nó là một yếu tố nòng cốt và chính yếu của những xã hội lành mạnh.  Quan niệm như vậy về hôn nhân có được thực hiện hay không thì còn cần phải quan sát.

 

 

Fleming Island, Florida- Nov.10, 2008

NTC


[1]  It appears our State Supreme Court has forgotten that courts should intrepet laws and legislatures should make laws.

[2]  Same-Sex Marriage and Religious Liberty: Emerging Conflicts

[3] Luật Tu Chính số Một:  bảo vệ 5 quyền lợi của người dân là: Tự do Tôn Giáo (Religion). Tự do ngôn luận (Speech). Tự do Báo chí (Press) . Tự do Hội họp (Assembly). Tự do Khiếu kiện (Petition).

[4]  We must increase our effort to make known the unique beauty of the vocation to marriage.

 
VỀ MỤC LỤC
NỖI NIỀM CỦA MỘT NỮ TU SAU KHI DU HỌC

 

Chẳng biết đổ lỗi cho ai : cho chiến tranh ? cho thời cuộc ? cho hoàn cảnh ? để rồi sau mấy chục năm trời xa cách tôi mới nhận ra một gia đình ở Huế là bà con gần của mình. Thoạt đầu, khi nói chuyện với bà cố thì tưởng chừng bà có 1 người con tận hiến cho Chúa hiện đang giúp một giáo xứ ở Mỹ thôi thế nhưng sau khi hỏi kỹ mới biết bà còn 1 người con đang giúp 1 xứ nghèo ngoại ô Thành phố Huế và 1 nữ tu đang đi học bên Tây. Gia đình có 1 người con tận hiến người ta thường bảo là có phúc rồi vậy mà bà có đến 3 người con tận hiến và 1 cô gái cưng đi học bên Tây những đến 6 năm !

Vừa rồi, nhân dịp ra Huế dự lễ kỷ niệm 10 năm linh mục của các linh mục lớp cha anh, tôi tranh thủ ghé thăm bà cố. Lần này, thật ngạc nhiên khi thấy bà sơ con của bà cố cùng dùng cơm tối chung. Sơ cho biết là đã hoàn tất chương trình và giờ đây về lại Việt nam chờ bài sai của Nhà Dòng.

Vì thời gian có hạn nên giờ cơm cũng là giờ chị em tâm sự với nhau về đời tu, về việc học và nhất là việc mà chị được Nhà Dòng gửi sang trời Tây để bổ sung kiến thức.

Chị chẳng ngại gì để nói rằng khi đi qua bên đó và khi được học mình mới càng nhận ra là mình ngu ?! Chị nói rằng chỉ khi nào qua đó mới thấy được biển học là bao la. Người Việt của chúng ta vẫn quen lối học từ chương nên khi qua đó phải cố gắng lắm mới có thể chống chõi được với cách học nặng phần tự lập và nghiên cứu.

Xa quê hương, xa Hội Dòng, xa gia đình nên chuyện nhớ nhà là một chuyện luôn ám ảnh của các sinh viên khi đi học. Có những lúc nhớ nhà chỉ còn biết khóc mà thôi. Với những ai còn mẹ như chị thì nỗi niềm thương nhớ ấy còn da diết gấp bội khi nghĩ về tuổi già của mẹ phải đối diện với đau yếu bệnh tật. Chị cũng đã tâm sự rằng có những lúc đã viết thư gửi về cho Bề Trên ở Việt Nam để xin đi về chứ không thể nào chịu nỗi với những khó khăn đang gặp phải. Chẳng hiểu sao mỗi lần viết xong tính gửi về thì lại xé vì sợ các chị ở nhà tưởng chừng như “được gửi đi học rồi làm nư !”.

Sau những năm tháng cố gắng, giờ đây chị hoàn thành chương trình học của mình, chị tạ ơn Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã ban cho chị trong những năm “du học”.

Về thăm mẹ già, thăm gia đình, chị vào chào Cha nguyên chánh xứ. Sau khi chào xong chị bị “sốc” vì câu nói của Cha già mến yêu : “Đi du học về phải làm lớn cho xứng với học vị tiến sĩ chứ !”. Thật ra chị không buồn Cha già nhưng chị thấy quan điểm của Cha già vẫn còn cổ hũ làm sao ấy ! Chị nói với tôi rằng tiến sĩ không phải làm lớn nhưng làm cái gì cũng được. Thậm chí những việc nho nhỏ trong nhà dòng như quét rác, làm cỏ cũng được vì thật sự học vị tiến sĩ chẳng là gì cả vì càng học mình càng thấy ngu.

Chị nói là ngày nay việc du học quá dễ dàng để rồi được đi thì chẳng là gì cả. Thế nhưng có một dòng nọ người ta đang đua nhau để lấy học vị tiến sĩ. Tưởng chị nói đùa nhưng chị minh chứng cho tôi đó là một sự thật đang diễn ra trong một dòng tu nọ.

Tôi tin là chị không nói dối vì lẽ chị được may mắn ra nước ngoài học thì chị có cái nhìn rộng rãi hơn, thông thoáng hơn.

Người chị họ vừa du học về mà tôi được gặp gỡ, tiếp xúc không phải là một tu sĩ du học đầu tiên mà tôi được gặp. Chị đi học, chị đi Tây về nhưng mà lối sống, lối suy nghĩ của chị đơn sơ và khiêm hạ.

Thật ra thì quan niệm sau khi đi học bên Tây về của chị cũng là quan niệm của phần đông tu sĩ, linh mục được gửi đi học về. Thế nhưng, đáng tiếc thay trong phần đông đấy lại có lợn cợn vài “người tu” mà chẳng tu gì cả. Phải đau đớn khi mà nói như vậy khi nhìn lại hành trình đời tu của những người ấy. Họ không biết tận dụng trí thông minh, tài hiểu biết của Chúa ban cho họ để họ đầu tư kiến thức về Thiên Chúa, về lòng tin, về mạc khải của Thiên Chúa. Họ đã quá kiêu ngạo để tỏ mình cho mọi người biết ta đây là người “ăn trên ngồi chốc”, là người được đi Tây đi U.

Nói chuyện với chị, tôi nhớ đến Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên. Trong một lần nói chuyện với các tu sĩ nam nữ nhân ngày khai giảng năm học mới, Ngài chia sẻ về việc học của Ngài bên trời Tây. Sau khi cố gắng lấy cho được tấm bằng, Ngài trở về Việt Nam. Tấm bằng Ngài lấy được Ngài treo ngay đầu giường. Treo để làm gì ? Xin thưa, treo để nhắc nhớ rằng Ngài nợ biết bao nhiêu người đã cưu mang, lo lắng cho Ngài ăn học và Ngài nguyện ước sẽ cố gắng hết sức để phục vụ lại Giáo Hội trong khả năng cho phép của Ngài.

Thế đấy ! Một tâm tình đơn sơ, nhỏ bé của một Gíam mục một địa phận. Chắc ít nhiều gì ai ai cũng biết Ngài là một giám mục bình dân, đơn giản. Từ Cần Thơ về Sài Gòn có việc hay đi đâu đó ngoài tỉnh, ít khi Ngài dùng xe của Toà Giám Mục dẫu rằng đó là phương tiện cần cho Ngài. Ngài đi Sài Gòn hay đi đâu đó với một cái giỏ xách con con và nhảy phốc lên xe đò là xong chuyện. Trên những chuyến xe Cần Thơ về Sài Gòn, đâu ai biết ngồi chung xe của họ có một vị giám mục một địa phận, một người đã từng đi tu học bên trời Tây ? Không phải ca tụng, tung hô Ngài nhưng hình ảnh của một vị giám mục hiền lành, đơn sơ và khiêm hạ ấy phải chăng là bài học quá lớn cho mỗi người chúng ta ?    

Có một vị linh mục nọ dám tuyên bố rằng một cách khinh tướng với bạn bè rằng : “Tao sang đó 2 năm tao lấy tiến sĩ”. Không biết khả năng, trình độ của vị ấy ra sao mà chỉ mới 1 năm sang Mỹ, linh mục ấy đã phải quay lại Việt Nam với chứng nhận “Cái đầu có vấn đề !”. Thế đấy ! Quá cao ngạo để cuối cùng phải đón nhận hậu quả của lòng kiêu căng của mình.

Cạnh trường hợp đó thì có trường hợp quá cay đắng là được Hội Dòng dốc cho không biết bao nhiêu tiền của để đi học. Chẳng hiểu sao qua đó học không xong rồi lại về. Tưởng chừng vị ấy phải xin lỗi Hội Dòng vì mình không hoàn thành trách nhiệm, bổn phận nhà Dòng trao phó mà còn cao ngạo nịnh trên đạp dưới để rồi biết bao nhiêu người đau khổ với người đó. Học thì lo đi học đàng hoàng, học xong lấy bằng cấp về hẳn hoi đi chứ còn học dở dở ương ương xong về rồi lại bi ba bi bô. Bao nhiêu năm đi học rồi trở về với hai bàn tay trắng. Biết bao nhiêu tiền của, hy sinh, đóng góp của Hội Dòng cho đi học vậy mà giờ đây trở về tay không. Bi đát ở chỗ là về tay không mà không biết mình về tay không mà đi đâu cũng huyên hoang tự cao tự đắc. Chỉ có những người kém hiểu biết mới tung hô những kiểu mẫu cao ngạo như thế thôi. Còn nữa, người ấy không biết xấu hổ mà còn lu loa nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Trường hợp ấy tôi chẳng hiểu là tu kiểu nào ? Tu cách nào đây ? Chuyện này xin gửi lại trong tâm tư sâu lắng của người tu ấy với Chúa, còn tôi, tôi xin phép miễn bàn.

Còn một trường hợp quá bi đát là Hội Dòng dốc hết hầu bao cho sang Tây học mấy năm trời. Vừa đáp máy bay về Việt nam thì cộng đoàn thấy có cái gì khác khác nơi vị này. Và cái khác khác đó đã thành hiện thực khi vài tuần về thăm gia đình thì tu sĩ ấy đã đệ đơn lên Bề Trên để xin ra khỏi Dòng. Thế là bao nhiêu tiền của, bao nhiêu đầu tư, bao nhiêu hy vọng của Hội Dòng dành cho vị ấy bây giờ tan tành mây khói !

Thông minh, được Hội Dòng tín nhiệm quả là hồng ân bao la mà Thiên Chúa ban cho những người đi du học. Họ được gửi đi học thì họ quá đủ thông minh để nhận ra điều ấy nhưng cách cư xử đời thường thì ngược lại. Họ quá cao ngạo, họ quá quấy nhiễu để rồi họ trở thành gánh nặng cho người khác. Ai ai cũng biết cả nhưng vì lòng bác ái, vì tình người người ta không nói ra thôi chứ ở đó mà vênh vang !

Có vênh vang chăng ? Có tự hào chăng ? Thì hãy tự hào, hãy vênh vang trong Chúa chứ ai đâu mà vênh vang với mảnh bằng tiến sĩ cỏn con.

Tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của Thiên Chúa vậy mà cứ mãi vênh vang trước ân huệ của Ngài chăng ? 

Tiến sĩ hay không tiến sĩ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, chức cao hay quyền thấp không quan trọng. Chuyện quan trọng, chuyện cần nhất của đời người đó là lòng khiêm hạ, sự khiêm cung trước tình yêu bao la và sự quan phòng của Thiên Chúa mà thôi.     

Lm. Anmai, C.Ss.R.

VỀ MỤC LỤC
ĐỪNG XEN VÀO CHUYỆN NGƯỜI KHÁC (2)  
 

Mỹ Thanh là một đứa cháu nội 7 tuổi. Bà nội rất thích cô bé và mang nhiều quà đến cho cô bé mỗi lần bà đến thăm. Bố mẹ nó thì chỉ muốn cho những quà mà họ cho là thích hợp. Cô bé nhận 6 món quà từ bà nội vào ngày phục sinh, 5 vào ngày sinh nhật của cô bé, và 10 vào ngày Chúa Giáng Sinh. Cô mở quà của bố mẹ cho, và cảm ơn bố mẹ. Cô nhìn những món quà rất thích thú trong dáng điệu thật tự nhiên. Nhưng, sau khi cô bé mở món quà cuối cùng của bà nội cho, cô bé lại phàn nàn: “Chỉ vậy sao?” Một ít ngày sau đó, bà mẹ mới khám phá ra cô bé đã đánh dấu tất cả những ngày có quà trên tờ lịch của cô bé bằøng bút chì đỏ. Rất khó chịu với thái độ như thế, bà mẹ nói với ông bố và xin ông nói với bà nội phải giới hạn quà cho cô bé. Ông bố từ chối. Ông nghĩ rằng yêu sách đó quá vô lý, và một sự cãi vả xảy ra. Bà mẹ cảm thấy rằng bà nội làm hư cô bé ngoài điều mong ước. 

Bà mẹ ít hiểu biết, không tự tin vào ảnh hưởng của mình trên đứa con nên luôn thấy nhiều nguy hiểm từ chỗ thiếu cân bằng trong thực tại. Vì bà mẹ và ông bố giữ được thế quân bình trong việc cho quà, cô bé không tỏ ra thái độ tham lam với họ, nhưng lại có thái độ đó đối với bà nội. Bà mẹ không thể kiểm soát điều mà bà nội muốn làm. Đó không phải là công việc của bà. Sự liên hệ mà bà nội muốn phát triển với cô bé thì thuộc về họ. Trong trường hợp nầy bà mẹ nghĩ rằng việc trao đổi quà cáp trong gia đình cần thiết lập một mẫu mực để tránh việc cho quá nhiều quà cáp của bà nội, và như vậy sẽ làm hư đứa trẻ. Tuy nhiên, điều quan trọng và cần thiết là làm sao cho đứa trẻ biết học không chỉ nhận mà cũng phải cho nữa  -  dạy cho cô bé nhớ ngày sinh nhãt của bà nội, phải cho và còn cho nhiều hơn nữa vào những ngày lễ đặc biệt dành cho bà nội. Bà mẹ nên chuẩn bị quà cáp và để cho cô bé trao quà cho bà nội để thiết lập một quan hệ tốt đẹp với bà nội. 

Mỗi đứa trẻ sống trong một môi trường gồm có bố mẹ và nhiều người lớn khác. Sau bố mẹ là ông bà và bà con là những giao tiếp gần nhất, sau đó đến những người láng giềng, bạn bè của bố mẹ, các cô thầy giáo, và sau cùng là một vòng quây rộng lớn của những người trong cộng đồng. Việc kiểm soát những ảnh hưởng mà những người nầy gây trên đứa trẻ thì hoàn toàn không thể đối với bố mẹ. Tuy nhiên, khi đứa trẻ phải đối đầu với ảnh hưởng bất lợi, chúng ta dễ có phản ứng chống lại những người lớn liên quan, hy vọng loại bỏ được sự ảnh hưởng của họ trên đứa trẻ. Đây là sự vô ích. Đứa trẻ không cần được bảo vệ khỏi môi trường của nó, cũng không cần phải xếp đặt lại mọi sự cho nó. Điều nó cần là hướng dẫn để đáp lại. Cái nguyên nhân kích thích được phơi bày trước mặt đứa trẻ không quan trọng cho bằng sự đáp trả của nó đối với vấn đề đó. 

Đứa trẻ là một cá nhân, và như thế phát triển những tương quan cá nhân riêng của nó với những người mà nó tiếp xúc trong sự gần gũi thân thiện. Con trẻ chúng ta cần có kinh nghiệm với nhiều người để chúng có thể hiểu biết và đánh giá người ta. Bổn phận chúng ta là trông coi để nâng đỡ chúng có sự đánh giá đúng đắn. 

Liên hệ với ông bà là nguồn gốc của nhiều sự xung khắc trong gia đình ngày hôm nay. Sự kiện đó là dấu chỉ của những thay đổi đang xảy ra trong văn hóa chúng ta và trong sự tách rời khỏi truyền thống chúng ta. Con gái và con trai có những ý nghĩ hoàn toàn khác nhau về cách thế con cái nên dược dạy dỗ và cách thế phản ứng sự can thiệp của bố mẹ họ. Nếu họ cố gắng ép buộc bố mẹ họ chấp nhận cách thế của họ, họ chỉ làm cho sự liên hệ của họ không được tốt đẹp thôi. Họ có thể tránh khỏi sự xung khắc với bố mẹ họ bằng cách nói với người vợ hoặc ông chồng rằng “Anh (hay em) có thể đúng. Anh (hoặc em) sẽ nghĩ lại chín chắn về vấn đề đó.” Và bấy giờ hãy làm điều mà họ cảm thấy là đúng. Hãy nhớ rằng ông bà lúc nào cũng thương mến con cháu. Họ ở trong vị thế có những đặc quyền mà không có bổn phận nuôi nấng con cháu. Nếu người mẹ hoặc người cha cảm thấy khó chịu về sự làm hư hỏng của ông bà, điều đó cho thấy sự bi quan và sự thiếu tự tin vào khả năng riêng của họ trong việc hướng dẫn đứa trẻ. Bất cứ cố gắng nào để sửa sai ông bà đều là một sự sai lầm, vô ích, và chỉ tạo nên sự căng thẳng và xung khắc mà thôi. Sự liên hệ giữa đứa trẻ và ông bà là công việc của họ. Tuy nhiên chúng ta phải giúp đứa trẻ trong việc đáp trả đối với ông bà. Một ông bà quá cưng chìu con trẻ có thể cho đứa trẻ một ấn tượng rằng nó có quyền có cái nó muốn, và rằng ai chống lại ước muốn của nó là kẻ thù địch. Trong trường hợp như thế, chúng ta phải giúp đứa trẻ thay đổi đầu óc của nó. Qua việc giúp đỡ cho sự đáp trả của đứa trẻ, bà mẹ có thể khiến ông bà ngưng tạo cho đứa trẻ một ấn tượng sai lầm về cuộc đời và quyền riêng của nó. 

Quang Minh 6 tuổi đang đi thăm ba nó, người đã ly dị với mẹ nó và đã tái hôn. Khi trở về nhà, mũi nó đỏ lên. Bà mẹ quan tâm, hỏi nó cái gì đã xảy ra. “Bà nội đánh con và làm mũi con đỏ lên” “Sao vậy? Con đã làm gì? “ “Đọc sách cho bà nội.” “Tại sao bà nội đánh con?” “Vì con không thể đọc được tiếng khó.” Bà mẹ nổi giận. Chiều hôm đó, bà gọi cho bố đứa trẻ trong sự giận dữ, và ngày hôm sau bà gọi luật sư. Một chuyện lớn xảy ra nhưng không có gì là cụ thể từ chuyện đó. 

Trong sự phức tạp của những tương quan ngày hôm nay, những biến cố như thế không phải là bất thường. Ly dị và tái hôn tạo nên những tình cảnh phức tạp cho những đứa trẻ cũng như cho người lớn. Những hận thù ngày xưa đã gây nên sự ly dị lại được củng cố, và trẻ con rất nhiều lần cũng chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến. Chúng lẫn lộn không biết đứng về phía nào để chống lại phía kia. Người ta có thể tưởng tượng: một đứa trẻ có thể tạo nên những xáo trộn để chiếm được cảm tình và sự an ủi đặc biệt. Cần thiết là bà mẹ không nên rơi vào những biến cố như vậy và bà không nên làm lớn chuyện. Nếu cậu bé không tạo nên một xáo trộn nào trong một hoàn cảnh phức tạp như thế, cậu bé có thể phát triển một tương quan tốt với người vợ kế của ông bố. Bà mẹ có thể giúp cậu bé bằng cách gợi ý cho nó một cách thế hành động để khỏi bi ăn đòn, chẳng hạn như: “Cưng ơi, đó là sự chọn lựa của con. Mẹ nghĩ rằng con sẽ tìm thấy cách thế để khỏi có vấn đề với bà nội con.” 

Một người láng giềng gọi ông bố để phàn nàn rằng cậu bé Quốc Bảo đã chạy xe đạp tông vào xe đạp của con ông là Văn Minh khiến con ông té và bị đau. Cả 2 đứa đều 9 tuổi. Ông láng giềng rất giận dữ và muốn người bố phạt cậu bé Quốc Bảo và bảo nó không được gây chiến nữa. “Tôi xin lỗi. Ông quá làm lớn chuyện. Nhưng ông không nghĩ rằng trận chiến giữa hai đứa trẻ là vấn đề của chúng sao?” Ông láng giềng nhìn một lúc, đoạn nói: “Ông có ý muốn nói gì?” “Tôi có ý nói rằng tôi không biến điều đó thành việc của tôi để kiểm soát những liên hệ của bé Quốc Bảo với bạn nó. Tôi bảo đảm rằng hai đứa trẻ sẽ tạo ra nhiều chuyện nếu để chúng cô đơn.” “Nhưng con tôi, Văn Minh luôn luôn bị đau đớn. Cậu bé Quốc bảo luôn làm một cái gì để làm đau đớn nó. Và tôi thì cảm thấy mệt mỏi rồi.” Ông nầy nghe nói cảm thấy buồn cười vì cậu bé Văn Minh cao và nặng hơn Quốc Bảo. “Quốc Bảo về nhà nhiều lần cũng đau đớn vậy! Tôi chỉ cảm thấy rằng nếu ông và tôi để ý công việc riêng của chúng ta thì hai đứa nhóc cũng sẽ cảm thấy mệt mỏi về việc bị thương tích đó, và chúng sẽ làm một cái gì về việc đó.” “Tôi nghĩ đã đến lúc ông nên kiểm soát đứa con ông.” “Tôi không có ý tưởng nào để làm cho cậu bé ngưng cả, ngoại trừ giới hạn nó và ở với nó mọi giây phút. Tôi không nghĩ hành động như thế sẽ giúp nó chơi phù hợp với những đứa trẻ khác và giải quyết được vấn đề xảy ra giữa chúng với nhau. Dĩ nhiên, tôi sẽ nói chuyện với con tôi và thử xem tôi có thể giúp nó hiểu được tình cảnh hay không? Nhưng đó là tất cả những gì mà tôi có thể làm.” 

Sau khi ông láng giềng rời bỏ đi, cậu bé Quốc Bảo đi vào nhà, sau khi nghe rõ toàn thể cuộc đối thoại, trong cách thế nửa do dự nửa tự mãn. Ông bố vẫn yên lặng. “Bố ơi, Văn Minh chạy xe ở phía bên cấm.” “Con ơi, bố không muốn nghe chi tiết. Bố lấy làm lạ: Chớ không phải con và Văn Minh không thích gây chiến với nhau sao? Xem ra con làm cho gia đình của nó nổi giận.” Cậu bé chỉ biết cắn răng ngậm miệng và cười gượng cho xong chuyện. “Có lẽ con và Văn Minh nên tìm ra cách thế khác để chơi. Đó là sự lựa chọn của con. Bố xem thử con sẽ làm thế nào về điều đó?” 

Giao tiếp với những người khác là một phần của cuộc đời. Công việc của chúng ta là giúp trẻ con phát triển những thái độ thích hợp và cách thức hữu hiệu cho thực tại. Bố của Văn Minh cố gắng kiểm soát hoặc thay đổi thực tại. Ông không đang giúp cho cậu bé Văn Minh nhưng đang cho nó một quan niệm sai lầm rằng bố sẽ luôn luôn ở đó để xếp đặt mọi sự. Câu bé không cần làm một chút cố gắng nào về phần nó để phát triển nghệ thuật tham gia về vấn đề xã hội. Trái với Văn Minh, cậu bé Quốc Bảo đã được trao trách nhiệm cho những vấn đề riêng của nó. Không cần dạy dỗ, ông bố đã gợi ý cho nó rằng nó phải tái thẩm định cách thế của nó và rồi đã gợi ý cho sự thích thú của nó bằng câu cuối cùng. 

Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC
ĐỨc Tin - Thánh ThẦn - HIẾn TẾ  

Tác Phẩm CHÚA VẪN THƯƠNG

Lm. MICAE-PHAOLÔ TRẦN MINH HUY pss

Phần hai

BẠn cỘng tác vào Chương trình CỨu ĐỘ cỦa Thiên Chúa

2. ĐỨc Tin - Thánh ThẦn - HIẾn TẾ  

Bạn hãy xin Chúa một Đức Tin sống động

Đức Tin là một ân huệ không bao giờ Chúa từ chối với người kiên nhẫn cầu xin. Đó là phương thế duy nhất cho bạn có được tiếp sóng với cõi bên kia. Bao lâu còn tại thế, bạn sống trong bầu khí Đức Tin, pha trộn ánh sáng và bóng tối, kết hợp với Chúa mà không lãnh hội được Chúa. Tuy nhiên, càng sống Đức Tin trong đức Mến, bạn càng nhận thức được sự hiện diện thần linh của Chúa trong bóng tối. 

Người công chính sống nhờ Đức Tin, sự phong phú của họ là nhận thức được những thực tại vô hình. Lương thực của họ là sự hiện diện của Chúa, cái nhìn của Chúa, sự trợ giúp của Chúa, đòi hỏi tình yêu của Chúa. Tham vọng của họ là muốn làm cho Chúa sinh ra và lớn lên trong các linh hồn. Xã hội của họ là nhiệm thể của Chúa. Gia đình họ là gia đình Chúa Ba Ngôi, mọi sự đều từ đó mà ra và mọi sự đều quy về đó nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa. Chúa mời gọi bạn hãy sống chương trình đó một ngày một hơn. 

Bạn hãy trung thành xin Chúa một Đức Tin sâu xa, vững chắc và tỏa sáng. Đức Tin không chỉ là kết hợp trí khôn và ý chí với những Chân lý trừu tượng, mà là nhận thức sự sống động của Chúa, tiếng nói nội tâm của Chúa, sự dịu dàng yêu thương của Chúa, những ước muốn của Chúa. Bạn hãy nhận biết rằng Chúa muốn nhận lời bạn, nhưng bạn hãy tha thiết cầu xin hơn nữa. Lòng tín nhiệm của bạn chứng tỏ tình yêu của bạn đối với Chúa. 

Bạn không kêu xin đủ vì bạn chưa có đủ Đức Tin. Bạn chưa có đủ Đức Tin để tin rằng Chúa có thể nhậm lời bạn, rằng Chúa có đó chờ đón những ước muốn của bạn. Bạn chưa có đủ Đức Tin để bền lòng kêu xin. Chúa xem ra giữ im lặng là để thử thách Đức Tin ấy và gia tăng phần thưởng của bạn. Bạn chưa có đủ Đức Tin để chú tâm đến tầm quan trọng của những ân huệ bạn phải đạt được cho bạn và cho người khác, cho Giáo hội và cho thế giới. 

Bạn chưa có đủ Đức Tin để mãnh liệt ước ao những gì cần thiết cho bao nhiêu linh hồn ngày nay. Bạn chưa có đủ Đức Tin để thỉnh thoảng đến bên Chúa một giờ. Bạn chưa có đủ Đức Tin để không cảm thấy sỉ nhục khi bị gạt ra bên lề, trong khi bạn lại quá hay bỏ rơi Chúa, để Chúa hoàn toàn đứng bên lề cuộc đời bạn. Bạn chưa có đủ Đức Tin để nhịn đôi món thèm khát vô ích, trong khi nhờ những hy sinh đó bạn có thể lôi kéo được bao nhiêu ơn cho các linh hồn. 

Chúa thích bạn biết khám phá Chúa, nhận ra Chúa qua anh chị em bạn, qua thiên nhiên, qua các biến cố lớn nhỏ. Tất cả là hồng ân và Chúa luôn có mặt. 

Bao lâu bạn còn ở trần gian, mắt bạn như bị băng lại. Chỉ bằng Đức Tin dưới tác động của Thánh Linh mà bạn nhận thức được sự hiện diện của Chúa, tiếng nói của Chúa, tình yêu của Chúa. Bạn hãy hành động như bạn nhìn thấy Chúa. 

Chúa tôn trọng con người biết bao! Chúa không muốn hối hả. Chúa hết sức nhẫn nại, đến đỗi cảm nhận từng dấu hiệu nhỏ nhặt biểu lộ tình yêu, ngay cả một sự chú ý. Hãy mở rộng con tim ra với thế giới bao la. Bạn tưởng Chúa không có chi để đổ đầy nó sao? 

Bạn hãy kêu xin Thánh Thần

Bạn hãy năng kêu đến Thánh Thần. Chỉ có Ngài mới có thể thanh tẩy bạn, gợi hứng cho bạn, soi sáng bạn, sưởi ấm bạn, tăng sức cho bạn, làm cho bạn nên phong phú. Chính Ngài giải thoát bạn khỏi mọi tinh thần thế tục, óc vụ hình thức bề ngoài hay hẹp hòi thu vào mình. Chính Ngài giúp bạn đánh giá đúng những sỉ nhục, đau khổ, cố gắng, phần thưởng, trong tổng thể của Nhiệm Cục Cứu Độ.  

Chính Ngài sẽ dọi chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa vào mọi trạng thái tâm hồn, vui mừng hay đau khổ của bạn trong chương trình Quan Phòng của Chúa. Chính Ngài bảo đảm cho bạn hiệu năng phục vụ Giáo Hội. Chính Ngài sẽ gợi lên cho bạn những gì phải làm, những gì phải xin, để Chúa có thể hành động qua hoạt động của bạn và cầu nguyện qua lời cầu nguyện của bạn.

Chính ngài sẽ thanh tẩy bạn khỏi lý trí, phán đoán, tình cảm, ý chí cá nhân bạn, trong khi bạn hoạt động. Chính Ngài gìn giữ cuộc sống bạn trong trọng tâm tình yêu và ngăn cản bạn chiếm lấy cho mình thiện ích Ngài dạy bạn làm. Chính Ngài đặt lửa vào trong trái tim bạn và làm cho nó linh hoạt trong hiệp thông với Thánh Tâm Chúa.  

Chính Ngài dọi vào trí khôn bạn những ý tưởng mà bạn không hề nghĩ tới. Chính Ngài soi sáng cho bạn những quyết định nào thích hợp, cách sống nào đạt tới ơn cứu độ và lúc nào phải trở lại sa mạc. Chính Ngài sẽ ban cho bạn sức mạnh để hoạch định công việc và can đảm để tiếp tục, mặc dầu những trở ngại, những mâu thuẫn và chống đối. Và chính Ngài sẽ gìn giữ bạn trong bình an, trong thanh tĩnh, trong ánh sáng, trong bền vững, trong an toàn. 

Bạn cần đến Thánh Thần để Ngài nuôi lớn lên trong bạn tinh thần nghĩa tử đối với Chúa Cha và tinh thần huynh đệ đối với tha nhân. Bạn cần Thánh Thần để lời cầu nguyện của bạn được tựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và đạt được mọi hiệu quả. Bạn cần Thánh Thần để lòng muốn của bạn được cương quyết, bền bỉ và mạnh mẽ, vì không có Ngài, bạn chỉ là yếu đuối và khiếm khuyết. Bạn cần Thánh Thần để được sinh hoa kết trái như Chúa mong muốn, vì không có Ngài, bạn chỉ là tro bụi và khô khẳng. Bạn cần Thánh Thần để thấy mọi sự như Chúa thấy và nhận ra được các biến cố trong tổng thể của Lịch sử đích thực. Bạn cần Thánh Thần để dọn mình bước vào cuộc sống đích thực, để cầu nguyện, yêu mến và hành động dường như bạn đã đi đến Thiên Đàng. 

Bạn hãy tin vào sự hiện diện của Thánh Thần trong bạn. Nhưng Ngài chỉ có thể hành động và cho bạn cảm nhận thực tại thiêng liêng của Ngài khi bạn hiệp thông với Mẹ Maria mà kêu đến Ngài. Bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho bạn và cho tha nhân, vì Ngài ở trong lòng nhiều người như bị bịt miệng, như bị trói chặt, như bị bất toại, và chính vì vậy mà thế giới thường đi sai lạc.  

Bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho những người bạn gặp gỡ. Ngài sẽ đến trong mỗi người tùy theo mức độ cảm thụ của họ. Bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho tất cả các linh hồn bạn chưa biết mà Chúa ủy thác cho bạn và sự trung thành của bạn có thể lôi kéo được nhiều ơn huệ quí báu cho họ.  

Nhất là bạn hãy kêu xin Thánh Thần cho các linh mục và những linh hồn dâng hiến để ngày càng thêm số những người chiêm niệm đích thực trong thế giới hôm nay. Giai đoạn hậu Công Đồng luôn cho Giáo Hội là một giai đoạn tế nhị mà kẻ thù con người đang đêm gieo cỏ lùng lẫn vào với lúa tốt. Ai khao khát Thánh Thần Chúa sẽ được hít thở tình thương của Thánh Tâm Chúa. 

Thế giới sẽ bước đi tốt đẹp hơn, Giáo Hội sẽ sống động hơn và hiệp nhất hơn biết bao, nếu Thánh Thần được ước ao tha thiết hơn và trung thành vâng phục hơn. Bạn hãy xin Mẹ Maria đem bạn vào trong nhà tiệc ly của các tâm hồn nghèo khó và bé nhỏ. Dưới sự hướng dẫn từ mẫu của Mẹ, họ đang kéo xuống cho thế giới Thánh Thần tình yêu của Chúa một cách phong phú và hiệu quả. 

Hỡi bạn, hãy tín thác. Chúa muốn càng ngày người ta càng cảm thấy sự sống của Chúa linh hoạt trong bạn. Tất cả những gì bạn dâng, tất cả những gì bạn làm, tất cả những gì bạn cho Chúa, Chúa đều đón nhận với tư cách là Đấng Cứu Thế. Và đến phiên Chúa Giêsu, trong hiệp nhất với Thánh Thần, Ngài lại dâng lên Chúa Cha, được thanh tẩy khỏi những mơ hồ của nhân loại và được phong phú nhờ tình yêu của Ngài vì lợi ích của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại. 

Chớ chi bạn biết được năng lực hiệp nhất của Thánh Thần! Ngài hoạt động dịu dàng nhưng mạnh mẽ trong thâm sâu của các tâm hồn ngay thẳng đặt mình dưới tác động của Ngài. Nhưng có ít người thực sự kêu đến Ngài, vì vậy nên biết bao nhiêu quốc gia, biết bao nhiêu cộng đoàn, biết bao nhiêu gia đình chia rẽ. 

Bạn hãy kêu xin Ngài để Ngài làm lớn lên trong bạn niềm vui của Chúa Ba Ngôi. Chúa muốn đưa bạn vào trong niềm vui trọn vẹn hiến dâng, trao đổi và hiệp thông đó. Lửa tình yêu Chúa muốn tràn vào bạn không phải để phá hủy mà để biến đổi bạn. Chúa muốn đem lại lửa, ánh sáng, bình an và hiệp nhất. Nhưng bạn cần mãnh liệt ước mong Chúa đến, tăng trưởng và chiếm ngự, trung thành hy sinh và khiêm tốn, đồng thời để Chúa sử dụng bạn mà bộc lộ lòng nhân từ của Chúa. Chớ gì, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần Chúa, bạn trở lên mồi lửa tình yêu!

Thời giờ đặt mình dưới tác động của Thánh Thần và thời giờ cho Chúa khi Chúa xin không bao giờ mất đi. Thánh Thần không ngừng làm việc trong mỗi người, cũng như trong mỗi thể chế nhân loại. Nhưng cần những tông đồ trung thành với những soi dẫn của Ngài, trong sự vâng phục Phẩm Trật đại diện và tiếp nối Chúa ở giữa trần gian.  

Hãy cộng tác tích cực với Ngài bằng cách tận dụng các tài năng và phương tiện Chúa đã ban cho bạn. Dù chúng bị giới hạn đến đâu. Cộng tác tích cực với Thánh Thần nghĩa là làm việc trong sự liên lạc với Chúa và hiệp thông với anh chị em. Chúa không xin bạn đem vào trong trí não bạn sự khổ đau của thế giới, cả những cơn khủng hoảng của Giáo Hội Chúa, nhưng là đem vào trong trái tim bạn, trong lời cầu nguyện của bạn và trong sự hiến dâng của bạn. 

Thánh Thần của Chúa ở với bạn. Ngài là Ánh Sáng và Sự Sống. Ngài là ánh sáng nội tâm soi dẫn cho bạn tất cả những gì bạn cần biết và lãnh hội. Ngài không mạc khải trước cho bạn những ý định của Chúa Cha, nhưng trong Đức Tin, Ngài cho bạn ánh sáng cần thiết cho đời sống nội tâm và hoạt động tông đồ của bạn.  

Ngài là Sự Sống, nghĩa là ngài khơi dậy những khát vọng, hướng dẫn những chọn lựa, thúc đẩy những cố gắng của bạn, đồng thời gia tăng sự sống của Chúa trong bạn, dùng đời sống nghèo hèn và những phương tiện yếu đuối của bạn mà hoạt động, như dầu thấm vào làm cho những hoạt động của con người được dễ dàng và hiệu quả. 

Thánh Thần đổ xuống trên người nào thì người đó được biến đổi. Chớ gì lòng ước ao Thánh Thần đến trong bạn và trong Giáo Hội ngày một mạnh mẽ hơn! Chính bạn sẽ kinh ngạc về những kết quả nơi bạn và nơi những ai bạn đã kêu xin Thánh Thần cho họ. 

Bạn hãy ở trong trạng thái hiến dâng

Chúa Giêsu là Đấng dâng hiến. Bạn hãy liên kết vào của lễ của Ngài dâng lên chúc tụng Chúa Cha tất cả những niềm vui của con người: niềm vui của tình bằng hữu, niềm vui của nghệ thuật, niềm vui vì được nghỉ ngơi, niềm vui khi công việc hoàn tất, nhất là niềm vui được mật thiết với Chúa, được tận tụy phục vụ Chúa trong tha nhân. 

Bạn hãy dâng Chúa “mộc dược” của tất cả những khổ đau con người: đau khổ trong tâm trí, đau khổ trên thân xác, đau khổ trong tâm hồn, đau khổ của những người hấp hối, đau khổ của những người tù đày, đau khổ của những người hoạn nạn, đau khổ của những người phải đơn chiếc… Một cách dịu dàng, trầm lắng, yêu thương, bạn hãy kêu xin Chúa hãy đến cứu giúp tất cả những ai đang phải đau khổ, và bạn hãy liên kết những đau khổ đó với những đau khổ của Chúa để kéo lôi được những ơn an ủi và nâng đỡ cho họ. 

Bạn hãy dâng cho Chúa “vàng”  của tất cả những hành vi bác ái, tốt bụng, niềm nở, dễ thương, tận tụy gieo vãi khắp trên trần gian. Chúa nhìn mọi sự với con mắt yêu thương và cái Chúa kiếm tìm chính là những cố gắng của con người để có được một tình yêu đích thực dựa trên căn bản của sự quên mình. 

Bạn hãy dâng cho Chúa tất cả để Chúa khích lệ và nuôi dưỡng chúng ngõ hầu Chúa được lớn lên trong thế giới. Sự hiến dâng chính là chìa khóa mở tuôn những ngọn sóng ân sủng cho các linh hồn. Xét bề ngoài thì chẳng đáng là bao cái cử chỉ, cái ý tưởng Chúa hiến dâng cho những người đau khổ, những người cô đơn, những người thất vọng, những người chiến đấu, những người vấp ngã, những người than khóc, những người lâm chung, và cả những người không nhận biết Chúa hay bỏ Chúa sau khi đã theo Chúa… 

Bạn hãy dâng cho Chúa toàn thể thế giới: tất cả những linh mục trên thế giới, tất cả các tu sĩ trên thế giới, tất cả các tâm hồn nhiệt thành trên thế giới, tất cả những tâm hồn chiêm niệm, tất cả những người nguội lạnh, tất cả những người tội lỗi, tất cả những người đau khổ… 

Bạn hãy dâng cho Chúa mọi ngày trong suốt năm, tất cả những ngày giờ hạnh phúc vui vẻ, cũng như tất cả những ngày giờ khổ đau buồn bã. Bạn hãy dâng cho Chúa để Chúa làm tràn qua chúng một tia hy vọng, và như vậy Chúa sẽ lớn lên trong nhiều tâm hồn. Chỉ một mình Chúa có thể đổ đầy những khát vọng sâu xa của họ về vĩnh cửu, công lý, hòa bình mà chỉ một mình Chúa có thể ban cho họ. 

Mỗi ngày một hơn, bạn hãy sống cho tha nhân, hiệp thông với tất cả. Bạn hãy quy tụ họ lại nơi bạn vào giờ cầu nguyện, cũng như lúc nghỉ ngơi. Trong bạn và nhờ bạn, Chúa lôi kéo đến cùng Chúa các linh hồn mà bạn đem trình diện trước mặt Chúa. Bạn hãy tha thiết ước ao Chúa là ánh sáng, là cứu độ, là niềm vui cho họ. Chính nhờ những ước muốn tha thiết như thế được nhân thêm mãi trên khắp thế giới mà nhiệm thể của Chúa được kiến tạo và tăng triển. 

Hãy dâng cho Chúa những đau khổ của con người để Chúa nâng đỡ và sử dụng cho lợi ích của họ. Cũng hãy dâng cho Chúa tất cả niềm vui trên mặt đất để Chúa thanh luyện và làm cho chúng lớn thêm lên bằng cách liên kết chúng với niềm vui của Chúa và niềm vui của các thánh ở trên trời.

Hãy dâng cho Chúa tội lỗi của thế gian để Chúa tha thứ và nhận chìm chúng đi trong máu tẩy rửa của Chúa. Cũng hãy dâng cho Chúa những hành vi nhân đức, những chọn lựa đã được chu toàn cho Chúa và cho tha nhân để Chúa ban cho chúng chiều kích vĩnh cửu. 

Hãy dâng cho Chúa những gì không xuôi chảy trên mặt đất, để Chúa đem lại trật tự và bù đắp những thiệt hại. Cũng hãy dâng cho Chúa những gì trôi chảy tốt đẹp, từ sự trong sạch của trẻ thơ, can đảm của thanh niên, khiết trinh của thiếu nữ, tận tụy của bà mẹ, quân bình của người cha, độ lượng của người già, nhẫn nại của bệnh nhân, hiến dâng của người hấp hối, một cách tổng quát là tất cả những hành vi yêu thương phát ra từ trái tim con người. 

Có nhiều cái tốt đẹp mà người ta không ngờ trong tâm hồn của nhiều anh chị em của bạn, có khi còn tuyệt hảo hơn mà người ta chẳng để ý. Nhưng Chúa thấy tận sâu thẳm của mỗi người và xét đoán với bao dung và nhân từ. Chúa thường khám phá ra dưới đống tro những đồng tiền vàng. Bạn hãy dâng cho Chúa để Chúa làm cho chúng thêm giá trị. Như vậy, nhờ cử chỉ hiến dâng mà Tình Yêu lớn lên trong trái tim con người và cuối cùng chiến thắng được hận thù. 

Bạn đừng ngã lòng khi phải sống, hành động và đau khổ cho tha nhân, quen biết hay không quen biết. Ở trần gian này bạn không thấy hết được những gì bạn thực hiện, nhưng Chúa bảo đảm với bạn rằng không có cái gì bạn hiến dâng liên kết với lời cầu nguyện, hiến dâng và tạ ơn của chính Chúa bị mất đi. Như thế, bạn sẽ làm cho nhiều tâm hồn xa lạ được hội tụ với Chúa, nhờ đó khi giờ đến, dù phải trải qua những trở ngại trên đường trần thế, họ sẽ được cứu độ. Chính Chúa sẽ định cho mỗi người cách thế cộng tác mà Chúa chờ đợi. 

Mỗi lúc một hơn, bạn hãy trung thành liên kết trong Chúa tất cả những lời cầu nguyện, tất cả mọi hoạt động, tất cả những cử chỉ của lòng tốt, tất cả những niềm vui cũng như những nhọc nhằn, tất cả những khổ đau và hấp hối của con người để chúng được thanh luyện và giúp vào việc hồi sinh thế gian. 

May mắn thay thế giới hiện nay có nhiều tâm hồn quảng đại giúp kẻ khác gặp Chúa, nhận biết Chúa, nghe Chúa. Lời kêu gọi của Chúa có lẽ sẽ được lắng nghe hơn và nhiều người, khi hướng về Chúa trong thâm cung lòng mình, sẽ tìm được triển nở và cứu độ. 

Chớ gì bạn đừng để mất thời giờ trong những hội họp vô bổ và năng đến với Chúa hơn. Sở dĩ Chúa đã chọn bạn là để bạn nối kết với sự hiến dâng của Chúa, hầu cộng tác vào việc kéo lôi được nhiều anh chị em của bạn trở về. Bạn hãy đến và ở bình an trước mặt Chúa. Hãy đến với Chúa, nhưng đừng đến một mình, bạn hãy nghĩ đến đoàn dân đông đảo mà Chúa chạnh lòng thương và biết rõ từng yếu tố của những nỗi buồn phiền, âu lo và nhu cầu bức thiết của mỗi người. 

Không một người nào trong họ không được Chúa quan tâm đến. Nhưng Chúa không muốn làm chi mà không có sự cộng tác của những người mà Chúa đã đặc biệt dành riêng ra để phục vụ họ. Nhiệm vụ bao la và mùa gặt phong phú, nhưng thợ gặt, những người thợ đích thực trung thành đặt việc tìm kiếm Nước Chúa lên hàng đầu thật quá ít.  

Bạn hãy tha thiết nối kết lời cầu nguyện của bạn vào lời cầu nguyện của Chúa dâng lên Chúa Cha là chủ mùa gặt, bạn sẽ thấy con số các tông đồ chiêm niệm và những nhà đào tạo thiêng liêng lớn lên và nhân nhiều ra. Bất cứ ở đâu Chúa cũng gióng lên một lời yêu cầu đó với các tâm hồn quảng đại trong các cộng đoàn và trong thế giới. Dĩ nhiên, con số chưa đủ để đáp ứng, nhưng "phẩm cũng bù cho lượng", điều chính yếu là họ hãy cầu nguyện trong Chúa và nối kết sâu xa với lời cầu nguyện của chính Chúa ở trong họ.

 

VỀ MỤC LỤC
ĐAU TIM, TỨC NGỰC

Trong suốt cuộc đời, thế nào chúng ta cũng có lúc ôm ngực kêu đau.

Có người thì hơi đau một chút đã hoảng hốt la làng là đang bị cơn-đau-tim và vội vàng kêu xe cấp cứu. Ngược lại thì cũng có người mặt xanh như tầu lá, ngực nhói đau thì lại bảo vì ăn không tiêu, uống vài viên chống acit là ổn.

Cả hai thái độ coi bộ đều cần được xét lại.

Thành ra, thêm một chút hiểu biết về những cơn đau từ ngực tưởng cũng không phải là dư. 

Lồng ngực

Ngực là khoảng trống trước của cơ thể, nằm giữa cổ và hoành cách mô.

Các xương của ngực kết hợp với nhau thành một cái chuồng hình nón.

Mười hai xương sườn là chấn song của lồng ngực. Xuơng sườn nối với xương ức ở phía trước và các đốt sống ở phía sau.

Giữa các xương sườn là khoảng cách liên sườn, trong đó có dây thần kinh, mạch máu và cơ.

Lồng ngực bao bọc và che chở cho hai lá phổi, trái tim, thực quản và các bộ phận phụ thuộc.

Thực quản là ống dẫn thực phẩm từ miệng xuống bao tứ, nằm sau xương ức.

Từ trái tim đi ra là động mạch chủ, chạy dọc xuống dưới, phân phối máu đỏ có nhiều dưỡng khí để nuôi tế bào.

Tĩnh mạch chủ chạy từ phía dưới cơ thể lên tim, chuyển máu có nhiều khí carbon, rồi lên phổi để đổi lấy dưỡng khí.

Dưới lồng ngực là xoang bụng chứa các bộ phận như dạ dày, ruột già ruột non, gan, lá lách, tuyến tụy, thận, bọng đái. Các bộ phận này nằm sát ngay dưới lồng ngực.

Ngực và bụng ngăn cách nhau bằng cơ hoành. Khi áp xuất trong bụng tăng, các bộ phận này cũng ép lên lồng ngực.  

Với sự sắp đặt như vậy, cơn đau ngực có thể là từ nhiều cơ quan khác nhau, chứ không riêng gì từ trái tim. 

1- Đau không từ trái tim

a. Bệnh của túi mật như viêm hoặc sỏi mật đôi khi cũng gây đau tương tự như cơn đau của tim.

b. Chứng ợ chua với chất acit từ bao tử trào ngược lên thực quản, tạo ra cảm giác nóng cháy sau xương ức.

c. Viêm màng bọc hai lá phổi vì sưng phổi gây ra cảm giác đau, nhất là khi ho hoặc hít thở mạnh.

d. Đau khi gẫy nứt xương sườn hoặc viêm lớp sụn nối tiếp xương sườn với xương ức.

e. Đau nhức các cơ liên sườn hoặc khi dây thần kinh bị kẹp.

g. Đau ngực trong các bệnh phổi như phổi tràn khí phế mạc (pneumothorax), hen suyễn, nghẽn động mạch phổi.

h. Trong bệnh zona do virus thủy đậu gây ra, đau nhức từ sau lưng tới lồng ngực kèm theo một dải những mụn nước.

i. Nuốt nhiều không khí khi vội vàng ăn hoặc uống nước có hơi hoặc uống với ống hút. Không khí làm căng bao tử, tạo ra cảm giác đau đau ở phía trái bụng dưới. Người đang tức giận bực mình cũng nuốt nhiều hơi trong khi ồn ào, hổn hển diễn tả lời nói.

k. Nằm ngủ với cánh tay, bả vai ở vị thế bất bình thường cũng đưa tới đau ngực.

l. Trong cơn hoảng sợ, tim đập nhanh, hơi thở dồn dập, đổ mồ hôi, hụt hơi thở cũng thường có cơn đau trước ngực. 

2- Đau từ trái tim

 Đau từ trái tim cũng có nhiều loại: 

a- Cơn-đau-thắt-ngực, tiếng Anh gọi là angina pectoris. Angina có nghĩa đau như co thắt, xiết chặt trái tim lại (constricting pain).  Pectoris là lồng ngực.

Năm 1768, bác sĩ người Anh William Heberden là người đầu tiên tả cảm giác này một cách ngắn gọn, linh động như sau: “Người bị cơn đau thắt ngực hành hạ khi đang đi lên một con đường dốc hoặc sau khi ăn no. Đau rất khó chịu tưởng như có thể chết đi được nếu cơn đau cứ tiếp tục. Nhưng may mắn là khi người đó nghỉ thì cơn đau hết tức thì”.

Đau của angina cho cảm giác như co thắt toàn thể hoặc phần ngực nằm sau xương ức, lan lên cổ, hàm, má, bả vai, cánh tay và xuống cả vùng giữa bụng hoặc giữa hai xương bả vai.

Đau thắt ngực thường xảy ra khi ta leo lên một ngọn đồi hoặc bước những bậc cầu thang lên lầu, khi đi trong gió lạnh, mang vật nặng, cào lá, làm vườn, xúc tuyết, vươn mình chạy đỡ đường banh quần vợt, đang coi một truyện phim nhiều kích động, đôi khi cả trong lúc hấp dẫn giao hợp hoặc những cơn thịnh nộ, lo âu. Cũng có trường hợp đang ngủ, cơn đau xuất hiện đánh thức nạn nhân bừng dậy ôm ngực nhăn nhó.

Mỗi cơn đau như vậy kéo dài không quá 10 hoặc 20 phút và hầu như chầm dứt khi ta ngưng hoạt động đã gây ra cơn đau. Hoặc đặt dưới lưỡi một viên nitroglycerin. Và khi được hỏi đau ở đâu thì hầu như mọi người đều chỉ vào ngực với cả bàn tay chứ không với một ngón tay.

Tại sao có cơn đau thắt ngực như vậy?

Thưa đau là tiếng kêu cứu, phản kháng của trái tim bị bỏ đói, thiếu dưỡng khí mà còn bị lạm dụng bóc lột sức lao động quá mức.

Với kích thước bằng nắm tay, trái tim co bóp liên tục ngày đêm 70 lần trong một phút để bơm ra, hút vào một lượng máu khổng lồ là 6 tấn máu vào cả ngàn cây số mạch máu mỗi ngày.

Để hoàn tất nhiệm vụ của một cái bơm, các cơ của tim cần được nuôi dưỡng với oxy. Động mạch vành lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng này.  

Động mạch vành có hai nhánh chính trước và sau tim và các nhánh phụ bao phủ toàn bộ trái tim như một cái vương miện. Bình thường, tim và động mạch có khả năng thích nghi, làm việc nhiều hơn một chút để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng khi cơ thể hoạt động mạnh mẽ hơn.

Động mạch vành có đường kính khoảng từ 2-3 mm, vừa đủ rộng để chứa một chiếc que diêm.

Nhưng khi động mạch vành bị thu hẹp, sự nuôi dưỡng cơ tim giảm đi. Cơ tim gào thét bằng những cơn đau, để báo động cho con người là họ đang trong tình trạng hiểm nghèo.

Thu hẹp thông thường của động mạch là do những mảng chất béo cholesterol bám vào thành động mạch vành. Cholesterol cần cho cơ thể, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Nếu cao quá thì chúng phải kiếm chỗ để dung thân. Mà gần nhất là ở ngay các động mạch mà chúng đang lưu hành. Đó là sự Vữa Xơ Động Mạch (Atherosclerosis).

Khởi thủy là lớp màng lót của một chỗ nào đó trong động mạch trở nên mềm rồi một thời gian sau cứng lại. Cholesterol bắt đầu bám vào đó, mỗi ngày mỗi cao hơn. Khoáng chất calci trong máu cũng nhân cơ hội táp vô, làm mảng cứng, khó tan.

Diễn tiến của sự vữa xơ rất chậm, có khi cả năm và không có triệu chứng báo hiệu. Con người vẫn “vô tư” ăn uống, với nhiều chất béo cholesterol rất ngon miệng trong món ăn. Lòng động mạch thu hep dần dần và khi đường kính động mạch giảm tới 75% thì chuyện chẳng lành xảy ra. Đó là cơn đau-thắt-ngực, angina.

Mỗi cơn đau tại một vùng cơ thể là một lời cảnh cáo, một báo hiệu có hiểm nguy, khó khăn đâu đó. Để con người biết mà đề phòng, đối phó, chữa trị.

Trái tim thiếu nuôi dưỡng, làm việc quá sức và kêu đau. Nếu ngưng nguyên nhân gây đau, tim dịu xuống, hết nhăn nhó.

Cũng có một số trường hợp, vữa xơ không đưa tới cơn đau thắt ngực. Đó là ở những người mà động mạch vành thu hẹp đã tạo ra được vài mạch máu bên lề (collateral), vòng qua đường hẹp tắc, dẫn máu nuôi tim.

Hiện tượng vữa xơ cũng thấy ở các động mạch nuôi thận, nuôi não, nuôi ruột, nuôi tứ chi.

Ở não, vữa xơ gây ra tai biến não (stroke). Ở thận đưa tới suy thận, phải lọc máu, thay thận. Ở chân đưa tới khập khiễng cách hồi (clauditation intermittant) với đau bắp vế khi đi, khi chạy, hết đau khi ngồi khi nghỉ…

Những rủi ro đưa tới vữa xơ là cao huyết áp, béo phì, cao cholesterol trong máu, phì phèo thuốc lá luôn miệng, tiểu đường, không vận động cơ thể, căng thẳng tâm thần…

Để xác định cơn-đau-thắt-ngực, bác sĩ cần tìm hiểu y sử người bệnh, hoàn cảnh nào angina xảy ra, cơn đau như thế nào, thường thường nạn nhân làm gì để giảm cơn đau.

 Rồi khám tổng quát, nghe nhịp tim, đo điện tâm đồ khi bệnh nhân nghỉ và sau khi bệnh nhân bước lên chục bực thang hoặc đi trên máy đi bộ (treadmill).

Angina thường thường giảm hết sau khi ngưng động tác gây ra nó hoặc sau khi dùng nitroglycerin.

Nitroglycerin là dược phẩm có tác dụng trị liệu rất lớn và thường được dùng để loại bỏ cấp kỳ cũng như giảm tần số và phòng tránh các cơn angina.

Thuốc làm giãn mở động mạch vành, khiến cho máu lưu thông tới tim nhiều hơn để giải tỏa cơn đau kêu gào thiếu dưỡng khí của cơ tim. Thuốc cũng làm giãn mở mạch máu toàn thân, nhờ đó tim cũng bớt phải co bóp mạnh hơn để bơm máu ra.

Thuốc được đặt dưới lưỡi để tự tan ngấm váo máu và tác động tức thì. Nhớ đừng nhai đừng nuốt nitroglycerin.

Cũng có loại nitroglycerin dạng mỡ thoa trên ngực với tác dụng kéo dài vài giờ.

Dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu viên đầu không thấy công hiệu, có thể dùng thêm một viên nữa.  Và nếu cơn đau không giảm sau khi dùng thuốc 15 phút, nên cho bác sĩ hay ngay.

Cơn đau liên tục xẩy ra cần được điều trị tại nhà thương, vì rất có thể là ta bị cái đau của cơn-đau-tim, Heart attack. 

Để được an toàn, nên nghĩ tới heart attack khi angina không thuyên giảm với nghỉ hoặc với hai ba viên nitroglycerin.

Cũng nghĩ tới heart attack nếu chưa bao giờ bị angina mà bây giờ chợt bị đau nơi ngực, không bớt khi ngưng công việc đang làm.              

b- Cơn-đau-tim

Trên đây là đau-nghỉ-hết đau.

Bây giờ là đau, nghỉ cũng chẳng hết mà lại có nhiều nguy cơ nghỉ luôn trong lòng đất. Đó là cơn-đau-tim, heart attack.

Heart attack cũng báo hiệu bằng cơn đau trước ngực, đau như trái tim bị kẹp giữa hai ngàm của chiếc máy ép nước mía, kéo dài nhiều giờ và không thuyên giảm cho tới khi được cấp cứu (với morphine). Đau cũng xuất hiện ở vùng trên bụng, lan lên cổ, ra hai vai, tới cánh tay và có khi vòng ra sau lưng.

Bệnh nhân ở trong tình trạng lo sợ, toát mồ hôi lạnh, mặt xanh như tàu lá, ợ hơi (belching), ọe khan hoặc ói mửa. Thêm vào đó là cảm giác hụt hơi thở, hổn hển ngáp ngáp không khí, tim đập nhanh.

Ở nữ giới và lão niên, các dấu hiệu nhiều khi không rõ rệt, chỉ cảm thấy mệt mỏi, yếu sức khiến cho họ không nhận ra là đang trong cơn hiểm nghèo.

Nguyên do đưa tới heart attack cũng bắt nguồn từ những mảng cholesterol trong động mạch. Tới một lúc nào đó, một mảnh của mảng này tách ra, tạo thành ra một máu cục, di chuyển tới động mạch tim và hoàn toàn gây tắc nghẽn sự lưu thông máu tới nuôi tế bào tim. Tế bào chết vì thiếu oxy, mà y học gọi là nhồi-máu-cơ-tim (myocardial infarction).

Ngoài ra, heart attack cũng gây do một số nguy cơ khác như gia đình có người bị nan bệnh này, do hút nhiều thuốc lá, do cao huyết áp, tiểu đường, lạm dụng thuốc cấm cocaine…Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, các rủi ro này kết cấu với nhau để gây ra thiệt hại cho trái tim và đưa tới heart attack. 

Xác định heart attack bằng khám tổng quát, đo điện tâm đồ, chụp x-quang tim và thử máu tìm mức độ men tế bào tim. Khi tế bào tim bị hủy hoại, chúng nhả ra những enzyme và tế bào càng chết nhiều thì enzyme trong máu càng cao.

Cơn-đau-tim là một cấp cứu y khoa vì tử vong có thể xảy ra trong vài chục phút. Nhiều người thiệt mạng trước khi tới bệnh viện vì họ coi thường các dấu hiệu báo động.

Bệnh nhân thiệt mạng phần lớn là do rối loạn nhịp tim. Nhịp tim nhanh loạn xạ (tachycardia), rung tim thất (ventricular fibrillation) đưa tới tim rung rinh (quivering), co giật (twitching) thay vì co bóp (beating) và cuối cùng là ngưng tim, nhiệm vụ bơm máu chấm dứt.

Do đó, các cơn đau ngực đều nên coi là khẩn cấp. Nếu bất cứ dấu hiệu nào mà ta nghĩ là có thể xuất phát từ trái tim, thì kêu cấp cứu ngay.  

c- Viêm màng bọc trái tim

Màng bọc trái tim hoặc ngoại-tâm-mạc (pericardium) là một cái màng bao quanh tim để che chở cho cơ quan nhỏ bé nhưng quý giá này. Màng có thể bị viêm vì nhiễm virus, chứng ure huyết, ung thư và có các triệu chứng như đau ngực, nóng sốt… 

d- Rách động mạch chủ

Động mạch chủ (aorta) là động mạch chính của cơ thể, xuất phát từ tâm thất trái, uốn cong phía trên tim rồi chạy xuống ngực và bụng, phía trước xương sống.

Khi bị một cú đập mạnh vào ngực, hoặc khi huyết áp lên quá cao, lớp màng lót của động mạch chủ có thề bị rách (aorta dissection), tạo ra một cơn đau ngực không lường trước, rất dữ dội, có thể chết ngưới. May mắn là chuyện này rất hiếm khi xảy ra. 

e- Co thắt cơ của động mạch vành

Đôi khi cơ của động mạch vành co thắt và cũng đưa tới đau ngực từng cơn. Nguyên do có thể là tự nhiên co hoặc bị các chất như nicotine, caffeine kích thích. Co thắt xảy ra khi nghỉ cũng như đang hoạt động. 

Kết luận

Đó là những cơn đau ngực với các nguyên nhân. Biết chúng để đối phó với chúng là điều cần, vì cẩn tắc vô ưu, cứu bệnh như cứu hỏa.

Bác sĩ chuyên bệnh Tim Mạch Harvey Simon, Đại học Y khoa Harvard, thường nói với các sinh viên của ông rằng: “Dấu hiệu thông thường nhất của cơn-đau-tim là cơn đau thắt ngực và dấu hiệu thứ nhì là sự phủ nhận denial, vùi đầu trong cát. - Ôi chỉ một chút căng thẳng, khó tiêu, hết ngay ấy mà!”.  

Và ông đề nghị: với mọi nhói tim, nặng ngực, khó thở, cần tham khảo ý kiến bác sĩ ngay. Kẻo rồi lại quá trễ. 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
TÔI YÊU TIẾNG NƯỚC TÔI  Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Nói theo kiểu “nhà đạo” thì ngôn ngữ và tiếng nói là một quà tặng, Thiên Chúa đã trao ban cho con người, để truyền đạt tư tưởng và ý muốn của mình cho người khác, nhờ đó mà hiểu biết và xích lại gần nhau hơn.

Chính vì thế, gã có thể xác quyết :

- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.

Thế nhưng, ngày nay người ta đang tìm hiểu xem liệu loài vật có ngôn ngữ và tiếng nói hay không ? Chẳng hạn tiếng hót của loài chim. Mấy người chuyên nghề đi bẫy đã thu tiếng chim hót vào băng “cát sét”, rồi sau đó đem ra ngoài cánh đồng và mở vang để dụ khị những con chim khác và thế là chúng bị…sập bẫy.

Tuy nhiên nếu có chăng nữa, thì cũng chỉ là một phương tiện còn rất thô sơ, chứ chưa thể được phát triển thành hệ thống như ngôn ngữ và tiếng nói của loài người.

Theo Thánh Kinh, thì thuở ban đầu con người có chung một ngôn ngữ, một tiếng nói. Thế rồi vì hè nhau xây một ngọn tháp chọc trời, được gọi là ngọn tháp Baben, như một đối chọi với quyền năng Thiên Chúa, nên Ngài đã khiến cho ngôn ngữ và tiếng nói của họ trở nên bất đồng, nên phải phân tán, mỗi người đi một phương.

Không biết câu chuyện trên thực hư như thế nào xét theo phương diện lịch sử, nhưng từ đó gã có thể rút ra hai điểm :

Một là chắc chắn ngày xửa ngày xưa nhân loại đã có chung một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói, bởi vì hiện giờ vẫn còn nhiều tiếng giống nhau nơi ngôn ngữ của các dân tộc. Chẳng hạn như :

- Ba, phụ,  pater, père, father…

- Má, mẫu, mater, mère, mother…

Hai là do môi trường và hoàn cảnh sống, dần dần những khác biệt nảy sinh, và những khác biệt này mỗi ngày một gia tăng và liên tục phát triển theo kiểu “tam sao thất bổn”, để rồi hình thành những ngôn ngữ, những tiếng nói riêng của tùng bộ tộc, của từng sắc dân.

Theo một giả thuyết có phần sát với thực tế và được nhiều người nêu lên, đó là dân Việt chúng ta là dòng giống Bách Việt, ngày xưa sống tại lưu vực sông Dương Tử, thuộc tỉnh Chiết Giang bên Tàu. Trước hiểm họa bị đồng hóa với người Tàu và các sắc dân khác, một số đã tách khỏi nhóm Bách Việt và di cư xuống miền nam, lấy tên là Lạc Việt.

Dù sao chăng nữa thì đây cũng chỉ là một giả thuyết, nhưng ít nhiều cũng ẩn chứa một chút sự thật nào đó. Chẳng hạn ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện : Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, đẻ ra một cái bọc, và trong cái bọc ấy có một trăm trái trứng, nở ra một trăm người con. Rồi sau đó, năm mươi người theo cha lên núi và năm mươi người theo mẹ xuống biển…Chính vì thế, nảy sinh hai chữ “đồng bào” nghĩa là cùng một bọc, để ám chỉ anh chị em cùng cha cùng mẹ, hay những người cùng một dòng giống, cùng một quê hương đất nước.

Huyền thoại này cắt nghĩa được sự hiện diện của dân Việt và dân Mường, một sắc dân thiểu số, sinh sống từ Đà Giang đến Thanh Nghệ. Rất có thể cả hai cùng một dòng Lạc Việt ở phía bắc, rồi sau mới chia thành hai : dân Mường sống trên rừng trên núi, còn dân Việt xuống đồng bằng và ra biển.

Về phương diện ngôn ngữ và tiếng nói, có thể nhóm Lạc Việt ngày xưa đã nói một thứ ngôn ngữ, phần trọng yếu còn trong tiếng Mường, vì Mường và Việt có nhiều tiếng tương tự với nhau. Chúng ta cũng có thể xác quyết : tiếng Mường là hình thức tối cổ của tiếng Việt, hay nói cách khác : tiếng Lạc Việt ngày xưa không xa mấy với tiếng Mường ngày nay, nhờ những vay mượn từ bên ngoài, dần dần đã trở thành tiếng Việt.

Có một nhà ngôn ngữ học người Pháp, mà gã quên tiệt mất tên, đã phán như thế này :

- Tiếng Việt là “mère des langues”, là mẹ của các ngôn ngữ.

Rồi ông ta đưa ra những bằng chứng :

Thứ nhất : tiếng Việt là tiếng đơn âm, mà đơn âm là hình thức cổ xưa nhất của ngôn ngữ. Một đứa trẻ khi bập bẹ tập nói, nó không thể nói nhiều âm nhiều tiếng, mà mỗi tiếng phải là một âm.

Thứ hai, các ngôn ngữ khác trên thế giới đều ít nhiều mang dấu ấn của tiếng Việt, như gã đã đưa ra chữ ba, chữ má làm điển hình.

Thứ ba tiếng Việt có đủ các âm, nên con em của chúng ta học sinh ngữ tương đối không khó khăn. Trong khi đó người Tàu không đọc được âm B. Bất cứ chữ B nào, họ cũng phang thành P hết ráo trọi. Vì thế, phải hỏi lại cho kỹ :

- B bò, hay B phở.

Còn dân “Phăng xe” chính hiệu con gà cồ, thì lại không nói được âm H, thành thử họ đọc “haut” thành “ô” và “les héros” thì cũng giống như “Zéros” mà thôi.

Khi nghe lời phát biểu của ông tây trên kia, gã đã phổng mũi và rất lấy làm hãnh diện. Tuy nhiên, sự thật có đúng như vậy hay không, thì còn phải chờ những “ngâm kíu” nghiêm túc khác nữa.

Tuy nhiên, gã có thể chắc chắn điều này, đó là từ ngàn xưa, dân Việt đã có một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói riêng, không giống với tiếng Tàu. Sách sử Tàu cho biết :

“Vào năm Tân Mão, đời vua Thành Vương nhà Chu (1108), có nước Việt phía nam sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, phải thông ngôn ba lần mới hiểu…”

Tiếng nói ấy, ngôn ngữ ấy còn rất mộc mạc, nhưng rồi cùng với thời gian, đã được tinh luyện để đi vào lòng người với những câu tục ngữ ca dao tuyệt vời :

- Hỡi cô tát nước bên đàng,

  Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Có tiếng nói, có ngôn ngữ thì dân tộc nào cũng có, nhưng để ghi lại tiếng nói ấy, ngôn ngữ ấy bằng chữ viết, thì không phải dân tộc nào cũng có.

Gã nghiệm ra rằng : Dân Việt thuở ban đầu chưa có một thứ chữ viết riêng. Tất cả chỉ là “truyền miệng” với nhau mà thôi, như tục ngữ, ca dao, vè, câu đố, chuyện cổ tích…tất cả làm thành cái kho tàng văn chương bình dân, hay văn chương truyền khẩu.

Sau khi tiếp xúc với người Tàu, đồng thời trước nhu cầu phải ghi lại những ý tưởng của mình, người ta đã học tiếng Tàu và ghi lại bằng chữ Tàu.

Tuy nhiên vì tự ái dân tộc, muốn có được một bản sắc riêng, một cung cách riêng, các nhà nho đã “phệu ra” một cách viết khác, đó là chữ Nôm, để ghi lại những ý nghĩ của mình, mà người Tàu cũng khó lòng biết được.

Chữ Tàu đã khó, chữ nôm lại càng khó hơn, vì thế một số nhà nho chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, đã phải chép miệng phê bình :

- Nôm na là cha mánh khóe.

Khi các nhà truyền giáo đặt chân tới Việt Nam, vì nhu cầu cần phải dọn những bài giảng của mình, các ngài đã dùng mẫu tự La tinh để ghi lại tiếng Việt và tạo thành chữ Quốc ngữ mà chúng ta hiện nay đang sử dụng.

Đây là một công trình của nhiều người qua nhiều thời gian khác nhau, nhưng người có công đầu hẳn phải là cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Cuốn sách đầu tiên cha đã viết bằng Việt ngữ với mẫu tự La tinh, đối chiếu với La ngữ và Pháp ngữ, đó là cuốn :

- Phép giảng tám ngày - Cathechismus in octo dies divisus – Catéchisme divisé en huit jours.

Cuốn sách này được xuất bản tại Rôma năm 1651. Cùng năm ấy cha còn xuất bản cuốn Tự điển Việt La Bồ.

Có một thời người ta đã hô hào :

- Chữ quốc ngữ,

  Tiếng nước ta,

  Con cái nhà,

  Mau học lấy.

Người phương tây rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy giữa vùng Đông Nam Châu Á này lại có một dân tộc với chữ viết bằng mẫu tự La tinh giống như họ, khiến họ phải tâm phục khẩu phục.

Sỡ dĩ gã phải dài dòng văn tự, cà kê dê ngỗng như vậy là để bàn dân thiên hạ thấy được rằng tiếng Việt và Chữ quốc ngữ của mình hiện nay thật là tuyệt vời, để rồi cố gắng gìn giữ và làm cho nó được trong sáng. Gã xin tán hươu tán vượn về hai lãnh vực này.

 

Trước hết là những những cố gắng làm cho tiếng Việt được trong sáng. 

Nói tới lãnh vực này, gã cảm thấy hơi bị…buồn. Thực vậy, thay vì làm cho trong sáng, một số người đã làm cho tiếng Việt của mình trở nên tăm tối mù mịt. Vậy họ là những ai ?

 

Tiên vàn họ là ông nhà nước. 

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, gã đã khấp khởi mừng thầm vì hy vọng một luồng gió mới sẽ thổi vào lãnh vực văn học nghệ thuật. Nhưng rồi gã đã thất vọng ê chề.

Thất vọng vì việc dùng tiếng ta một cách thô thiển : có lần đi bộ trên đường Hồng Thập Tự (cũ), khi ngang qua bệnh viện Từ Dũ, bất chợt ngước lên lầu, gã thấy một tấm bảng với hai chữ được viết bằng màu đỏ : XƯỞNG ĐẺ. Gã đã rụng rời cả tay chân và thở dài đánh thượt một cái.

Thất vọng vì việc dùng tiếng Tàu một cách bừa bãi : có một thời, các ông cán bộ hễ mở miệng ra là phát biểu : Nhất trí, đồng ý, đăng ký, quản lý….khẩn trương!!! Còn những tác phẩm văn học, nhất là những cuốn chuyện bài bác tôn giáo lại ấu trĩ tới mức không thể nào…ngửi nổi.

Thất vọng vì việc dùng tiếng Tây một cách không cần thiết. Cho tới hôm nay vẫn còn đó những chữ như : cái lô-gích, cái mô-típ, binh chủng Tăng-Thiết giáp, căng tin…

Thất vọng vi việc đặt câu đặt cú một cách vô tội vạ : có lần đi qua một quầy hàng bán thịt, gã thấy một bảng hiệu viết như sau : CỬA HÀNG THỊT PHỤ NỮ, thì ra đây là của hàng bán thịt do các chị em phụ nữ đảm trách. Mới đây thôi, khi đi tham quan khu du lịch Tức Dụp, thuộc tỉnh An Giang, gã thấy có một cái hang, muốn vô thì phải chui. Và cái hang ấy được gọi là : CƠ QUAN PHỤ NỮ. Thấy vậy, gã đành phải bó tay.

Thất vọng vì những cải cách về việc giảng dạy bộ môn Việt văn. Nào là cải cách chữ viết, nào là cải cách đánh vần…Cứ mỗi lần cải cách, thì hình như lại thụt lùi một bước. Và chẳng năm nào mà không có một cải cách nào đó. Hay thiên hạ chỉ đưa ra cải cách cốt để sách bán chạy, tha hồ hốt bạc mà thôi.

Chính vì vậy mà mức độ Việt văn hiện giờ của các em học sinh đã xuống thấp tới mức báo động : chữ viết thì như gà bới, lỗi chính tả thì không đếm xuể, câu không thì ra câu, cú chẳng thì ra cú, còn các chấm và phẩy thì cứ loạn cào cào. Không hiểu với cái đà này, mai ngày tiếng Việt sẽ đi về đâu ?

Cách đây khá lâu, một người bạn đã gửi cho gã những bài luận văn tiêu biểu của một số học sinh. Đọc những mẩu luận văn này, gã chẳng biết nên cười hay nên khóc. Có lẽ cả hai. Cười rồi khóc. Gã xin trích dẫn một ít  bài để bàn dân thiên hạ cùng chiêm ngưỡng.

Bài của cấp tiểu học :

Đề tài : Em hãy tả hình dáng và tính tình một cụ già mà em rất kính yêu”.

Hình dáng của bà nội rất là thấp được hai mét rưỡi, dáng đi rất chậm chạp, mắt thì lừ đừ ít thấy gì nữa. Tính tình cụ già rất là bực bội. Khi bà nội cười liền nhe mầm răng ra còn được ba bốn cái gì mà thôi. Con mắt của bà tròn như hòn bi, mũi có hai cái lỗ, cụ già có hai cái tai, tóc của bà đã bạc phơ. Cổ ngắn gọn, thân của bà 2, 3 thước, bà có hai cái tay, có hai cái chân. Bà cụ ngoài 40 tuổi. Hình dáng bình thường, chiều rộng ba mươi, chiều cao một mét sáu. Khi cười miệng bà em móm mém như miệng cái hố.

Đề tài : Em hãy tả bạn em.

Bạn em ko cao không thấp, trung bình. Bạn em ko gầy, ko béo, trung bình. Bạn em ko đen ko trắng, trung bình. Bạn em ko giỏi ko kém, trung bình…

Đề tài : Em hãy tả đêm giao thừa.

Em bước ra sân để chuẩn bị thắp hương giao thừa. Ánh trăng tròn vằng vặc soi rõ khu tập thể, làm những chiếc lá sáng lên loang loáng…

Bài của cấp trung học :

Đề tài : Em hãy phân tích hai câu thơ trong tập “Nhật ký trong tù” của tác giả Hồ Chí Minh:

Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền.

Khi ngủ thì cơ thể chúng ta nằm im, bất động, mắt nhắm, trông ai cũng giống ai. Nhưng khi tỉnh dậy, do nhu cầu sinh lý, cơ thể con người cần đào thải một số cặn bã trong cơ thể nên câu thơ đã tả thực rất chính xác: “ngủ dậy phân ra…”.

Đề tài : Em hãy phân tích tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ trong chuyện “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Trong cuộc sống sinh hoạt đời thường, hàng ngày chúng ta đã từng được thưởng thức rất nhiều loại lòng như lòng lợn, lòng chó, lòng gà, lòng vịt… Chúng đều rất ngon và có vị riêng biệt khác nhau, nhưng tất cả đều không thể bằng lòng… mẹ.

Đề tài :Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về việc Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta tác phẩm Truyện Kiều.

Nguyễn Du là lão tiền bối của chúng ta. Mặc dù tiền bối đã sớm ra đi vào một chiều gió lạnh nhưng vẫn làm chấn động cả giới hậu bối của chúng ta, qua bí kíp võ công Vương Thuý Liều hay còn gọi là Đoạn trường thất thanh hay biến thể của nó là “Đoạn trường tiết canh”. Bằng chứng là qua các kỳ thi, pho bí kíp này lại xuất hiện và làm thất điên bát đảo cả giới hậu bối của chúng ta!

Bài của cấp đại học :

Đề tài : Tìm hiều câu “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” trong bài “Chiều tối” của tác giả Hồ Chí Minh. (Tuyển sinh đại học năm 2004, Đại học khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM)

Bài thơ “Chiều tối” của Bác Hồ làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du “Chim hôm thoi thóp về rừng” hay câu thơ “Ngàn năm gió cuốn chim bay mỏi” của Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng so sánh ta thấy rõ chim Bác Hồ khác hẳn chim Nguyễn Du và còn khác hơn chim Bà Huyện Thanh Quan. Chim Bà Huyện tự nhiên mỏi còn chim Bác Hồ là con chim phi thường, nó mỏi có mục đích: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”…

 

Tiếp đến, họ là những kẻ thích chơi trội và tỏ ra hơn người. 

Đi trên hè phố, gã thấy nhan nhan những bảng hiệu, cũng như những sản phẩm, từ viên kẹo ngọt đến gói băng vệ sinh…tất tật được ghi bằng tiếng nước ngoài. Thậm chí đến cả phân bón và thuốc sâu, dành cho nông dân chăm bón ruộng đồng, cũng đều có những tên Tây, tên Anh…rất oách.

Có một thời, những nhà trí thức nửa vời trong câu chuyện trao đổi họ thường chêm tiếng Phăng-xe hay tiếng Ăng-le để chứng tỏ mình là người học rộng biết nhiều. Cũng giống như mấy cô cậu Việt kiều khi về nước vốn thường hay nói : Cái này nặng bao nhiêu “pao”, con đường dài bao nhiêu “mai”…khiến cho bà con “Hai Lúa” cứ há hốc miệng, chẳng hiểu cái pao và cái mai là cái chi chi.

Trong lãnh vực này, quí vị trí thức nửa vời đã dùng tiếng Tây bồi  để làm những bài thơ hầu tỏ bày tình cảm của mình :

- Chiều chiều đi dạo chốn la rue,

  Thấy ở đàng kia có một fille,

  Tuổi tác tuy đang còn petite,

  Xem ra đã thấy cái jolie.

  (La rue : đường phố. Fille : cô gái. Petite : nhỏ. Jolie : đẹp).

Hay :

- Đầu phố đàng kia có một fille,

  Nay moi muốn kết mari cùng nàng.

  Lorsque moi gửi thư sang,

  J’écris une lettre cho nàng savoir.

  (Moi : tôi. Mari : vợ chồng. Lorsque : thế là. J’écris une letre :

  tôi viết một lá thư. Savoir : biết).

Nhưng xét về tính các lâm ly bi đát có lẽ còn thua xa những me Tây  :

- Dê-cờ-ri tình thơ uyn lét,

  Để cho mình con-nét mông cơ.

  Từ khi mình kít-tê dơ,

  Bon-nơ cũng lắm, ma-lơ cũng nhiều.

  (J’écris une lettre – connaitre mon coeur – quitter je – bonheur – malheur : Em viết tình thư một bức, để cho mình biết trái tim em. Từ khi mình bỏ em, hạnh phúc cũng lắm, khổ đau cũng nhiều).

- Đờ puy cờ dơ tơ con nét,

  Duýt ki sì sít sép ta- nê.

  (Depuis que je te connais jusqu’ici six sept années : Từ khi em biết anh đến nay đã sáu bảy năm)

Hay dùng tiếng Tây bồi để ru con :

- Cút-xê đồng, mông se pơ-tí,

  Mảnh-tơ-mằng, phi ní pa-pa.

  (Couchez donc, mon cher petit, maintenant fini papa.

  Vậy ngủ đi, bé bỏng yêu dấu của mẹ, giờ thì ba đã hết rồi).

Hay vui đùa, dùng tiếng Tây bồi để làm câu đố :

- Tí ti noa, tí ti dôn. Lúy gầm, lúy gừ. Lúy măng-gê me-xừ. Lúy man-gê cả moi. Đố là con gì? Thưa đó chính là con…hổ.

  (Tí ti  đen, tí ti vàng. Nó gần, nó gừ. Nó ăn ông. Nó ăn cả tôi).

Và đôi khi còn dùng cả tiếng Tây bồi này để mà nói lái : Vợ Việt đi với chồng Pháp vào tiệm mua đồ. Thấy nhà hàng nói thách quá, vợ bèn rỉ tai chồng :

- Très chaud ! Très chaud !

Chồng tưởng vợ kêu nhà hàng nóng bức quá, nên vội mua và lập cập trả tiền để ra ngoài cho mát. Thế nhưng, ra tới ngoài, vợ trách chồng :

- Đã bảo quá đắt mà cứ mua.

- Thì có thấy mình kêu đắt lúc nào đâu ?

- Người ta không tiện nói trước mặt người bán hàng, sợ họ bảo mình là người Việt mà lại dèm pha mất món lời của họ, nên đã phải nói lái là “très chaud”thế mà cũng chẳng hiểu. “Très chaud là trop cher” đó ông kễnh ạ.

(Très chaud là trời rất nóng, còn trop cher là quá mắc).

Chuyện rằng có một học sinh từ miền Nam ra Hà Nội thi tú tài Tây. Anh ta đậu thi viết. Lúc vào thi o-ran (vấn đáp), thầy giáo Tây hỏi anh có biết một công trình kiến trúc lớn nào vừa được xây dựng xong tại Việt Nam hay không ? Anh ta đỏ mặt tía tai và trả lời không biết. Thầy giáo Tây đuổi anh về chỗ và cho không điểm. Bực quá, anh ta buông tiếng chửi thề theo phong cách miền Nam :

- Đu me!

Ai ngờ vừa nghe thấy, thầy giáo Tây bèn gọi anh ta lại và khen lấy khen để :

- Giỏi, giỏi. Tôi cho anh mười điểm

Thì ra công trình kiến trúc ấy chính là cầu Long Biên, bắc qua sông Hồng, được đặt bằng tên của viên quan toàn quyền Đông Dương khi ấy là…Paul Doumer!

Đến thời quân đội Hoa kỳ sang tham chiến tại Việt Nam, các me Mỹ nói tiếng Mẽo giả cầy cũng chẳng thua gì các me Tây. Các nàng nói cứ như gió khiến gã rất lấy làm bái phục. Gã xin ghi lại một vài mẩu đối thoại mà thôi.

- Ây khôn mà anh Mỹ ơi (Em lạnh : I’cold).

- Du đã là mai hớt bân, đến khi tao có bê-bi, thì du lại đi cát mao với con đĩ ấy hả (Mày đã là chồng tao – my husband – đến khi tao có em bé – baby – thì mày lại đi mèo chuột – cat mouse – với con đĩ ấy hả).

Một cặp vợ chồng khác đã dùng tiếng Mẽo giả cầy để cãi nhau. Anh chồng nói :

- Sugar you, you go. Sugar me, me go

  (Đường cô, cô đi. Đường tôi, tôi đi.

Chị vợ đáp :

- You think you tasty ?

  (Anh nghĩ anh ngon hả ?)

Anh chồng bảo :

- I love toilet you go go !

  (Tôi yêu cầu cô đi đi).

Rồi nói tiếp :

- You onion summer me three down seven up. No, enough listen.

  (Cô hành hạ tôi ba chìm bảy nổi. Thôi, đủ rồi nghe.)

Về chuyện tiếng Tây bồi hay tiếng Mẽo giả cầy thì còn dài dài, gã xin tạm ngưng ở đây để bàn sơ qua tới việc thứ hai :

 

Tiếp đến là hãy gìn giữ tiếng Việt. 

Đây phải là một công việc cấp bách của mọi người dân Việt, nhất là đối với những người sống ở nước ngoài. Bởi vì nếu không nỗ lực, nếu không cố gắng, thì sang thế hệ thứ hai, thứ ba và thứ tư…chắc chắn tiếng Việt sẽ bị quên lãng và đi đến chỗ mai một.

Vì thế, gã rất cảm phục những bậc làm cha làm mẹ luôn băn khoăn lo lắng về vấn đề này, bằng cách luôn dạy và bắt con cái nói tiếng Việt mỗi khi chúng ở nhà.

Đồng thời gã cũng rất cảm phục những người đã tốn công mở ra những trung tâm dạy tiếng Việt và tất cả những người thiện chí đã góp sức bằng cách vào những ngày nghỉ cuối tuần đã tới  để dạy cho con em biết viết và nói tiếng Việt.

Nếu gã nhớ không lầm thì hình như Phạm Duy có một bài hát với những lời ca như sau :

- Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời…

Và một học giả nào đó đã phát biểu :

- Tiếng ta còn, dân ta còn. Tiếng ta mất, dân ta mất.

 

Tài liệu tham khảo :

“Chơi Chữ” của Lãng Nhân.

Tạp chí “Kiến Thức Ngày Nay” số 562

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

 
VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************