Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 177, Chúa Nhật 12.08.2012


MỤC LỤC 

Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem)                                     Vatican 2

CỦA ĂN ĐƯỜNG                                                                            Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

LỜI VÀ SẤM NGÔN                     Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết & Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

NGÀY CỦA CHÚA TRONG TIẾNG CHUÔNG MỜI GỌI                                Lm. Vĩnh Sang, DCCT

GIÁO DỤC NHÂN BẢN: THỰC TẬP NẾP SỐNG YÊU THƯƠNG CỤ THỂ                  Lm. Đan Vinh

Các giá trị tinh thần trước những thách đố của Kỷ Nguyên mới             Gs. Nguyễn Đăng Trúc

Nhân đọc bài: Giải quyết vấn đề tranh luận«ĐỒNG BẢN THỂ» hay «ĐỒNG BẢN TÍNH» của Đức Cha Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin                                Gs. Trần Văn Toàn

BẢO VỆ NHÂN QUYỀN TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI        Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Bà bếp                                                                                                Lm. Minh Anh chuyển ngữ

Linh mục giáo phận sống Hy tế Thập Giá                      Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

ĐAU LƯNG                                                                                                  Bác sĩ Nguyển Ý Đức

BÀI HỌC CỦA NƯỚC                                                                                          Br. Huynhquảng


Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem)

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân

Apostolicam Actuositatem 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Lời Giới Thiệu 

Ðôi dòng lịch sử

Năm 1960, Ðức Gioan XXIII thiết lập Ủy Ban Giáo Hoàng về hoạt động tông đồ giáo dân. Và sau 200 lần hội, Ủy Ban đã hoàn tất việc soạn thảo một lược đồ gồm 200 trang.

Ủy Ban gồm tất cả 39 thành phần, trong số có 11 Giám Mục. Bên cạnh Ủy Ban còn có 29 vị cố vấn, mà 14 vị cũng là Giám Mục. Ngoài ra, các đại diện của 26 quốc gia và của nhiều tổ chức quốc tế cũng đến tham dự.

Ngay từ ban đầu, Hồng Y Cento, chủ tịch Ủy Ban, đã đề nghị mời giáo dân tham dự, ít nhất với tư cách cố vấn. Trong kỳ họp đầu tiên, Ðức Gioan XXIII đã chính thức mời Jean Guitton tham dự Công Ðồng với tư cách là dự thính viên giáo dân.

Rồi trong những phiên họp khoáng đại về sau, Ðức Phaolô VI cũng đã đề cử nhiều dự thính viên giáo dân khác, nam giới vào năm 1963 và cả nữ giới vào năm 1964 tham dự. Như vậy Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân đã được thành phần giáo dân cộng tác hoàn thành.

Trong suốt thời gian tranh luận, bản văn được sửa đổi và soạn thảo lại nhiều lần. Ban đầu lược đồ đề cập hết sức bao quát về vai trò của người giáo dân trên thế giới và trong Giáo Hội. Về sau các Nghị Phụ đã cố gắng thu hẹp lại vào một khía cạnh tiêu biểu nhất: tông đồ giáo dân.

Thực ra lược đồ đã được đem bàn cãi từ những phiên họp ở năm 1963, và Ủy Ban liên hệ đã phải rút ngắn lại còn 48 trang, rồi 15 trang ở năm 1964. Vì các Nghị Phụ nhận thấy rằng lược đồ chưa thỏa mãn đủ cho sự đòi hỏi cần thiết, nên nhiều lần cuộc tranh luận đã gặp những khó khăn đáng kể. Và như vậy, để được chấp thuận lược đồ đã phải trải qua những "cơn sốt" trầm trọng.

Ở đây chúng ta cố gắng đưa ra một vài lý do của những trở ngại đó. Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng "Tông Ðồ Giáo Dân" là một đề mục hoàn toàn mới lạ, chưa có một sắc lệnh hay một văn kiện nào trước Công Ðồng Vaticanô II đã đề cập tới. Ðàng khác vấn đề tự bản tính đã là khó khăn, phức tạp; thật vậy, chưa có một quan điểm thần học căn bản Công Giáo nào nói về những thực tại trần thế cũng như về hành động của Kitô hữu trong thế giới.

Sau nữa, muốn tìm một định nghĩa đứng đắn cho "tông đồ giáo dân" thì tự nó không thể cung cấp đủ nhưng người ta còn phải đi tìm những minh chứng và cảm hứng bên ngoài và phải đặt nền tảng ở Giáo Hội cũng như nương tựa vào nhân chủng học (x. René Rémond, Introduction du Décret, Ed. du Centurion).

Tính cách độc đáo

Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Công Ðồng Chung đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề tông đồ của giáo dân, cũng như đã dành nhiều nỗ lực cho sự xác định lại sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới.

Nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chưa bao giờ ý thức sự hiện diện mật thiết của giáo dân trong Giáo Hội. Bởi Giáo Hội được thiết lập vì các tín hữu là con cái mình, và ngay từ ban đầu thời Giáo Hội sơ khai, giáo dân không những là đối tượng cho hoạt động của các Tông Ðồ, mà còn là những cộng tác viên đắc lực của các ngài. Như phần mở đầu của Sắc Lệnh có nhắc đến, những hoạt động tông đồ giáo dân xuất hiện tự nhiên từ giai đoạn đầu của Giáo Hội và đã đem lại những kết quả phong phú. Rồi qua dòng lịch sử, chúng ta thấy rằng có nhiều tu hội và hiệp hội tông đồ phát sinh do cảm hứng của giáo dân hay do họ điều khiển.

Tuy nhiên, phải công nhận rằng cho tới Vaticanô II địa vị của người giáo dân vẫn chỉ được xem như một ngoại lệ do ơn sủng đặc biệt hay riêng tư nào đó; và như vậy sự có mặt của họ chưa bao giờ được nhìn nhận như một hàng riêng biệt. Hơn nữa, với ý niệm hầu như hoàn toàn tiêu cực, hình như Giáo Luật đã không quan tâm tới việc đề cao và công nhận giá trị của người giáo dân.

Ðàng khác, tình trạng của giáo dân lại luôn lệ thuộc vào hàng Giáo Phẩm và Giáo Sĩ. Chúng ta có thể nói rằng quan niệm thế quyền từ nhiều thế kỷ về đây liên lạc giữa chính quyền với công dân được đưa ra áp dụng vào trong Giáo Hội khi qui định mối tương quan giữa Giáo Sĩ và Giáo Dân. Lại nữa trong số các hình ảnh dùng diễn tả bản tính Giáo Hội, hình như người ta vẫn còn giữ lại hình ảnh có chiều hướng Trung Cổ: mục tử và đoàn chiên. Quyền bính và trách nhiệm hướng dẫn là việc của các mục tử; đoàn chiên giáo dân chỉ việc vâng theo những chỉ dẫn của chủ chăn.

Công Ðồng Vaticanô II đã nỗ lực xét lại hoàn toàn quan niệm tổng quát về sự liên lạc giữa Giáo Hội và các tín hữu. Công Ðồng xác nhận rằng người giáo dân phải được đánh giá như cộng tác viên đích thực trong sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội là cứu độ mọi người. Ðây là một thành quả tốt đẹp của Công Ðồng trong việc quan niệm địa vị người giáo dân trong Giáo Hội.

Sau đó, Công Ðồng giải quyết một vấn nạn đươc đặt ra từ đầu: đó là việc phân chia hoạt động tông đồ ra "tông đồ trực tiếp và gián tiếp", hoặc, theo nhiều người, phân biệt ra "tông đồ chuyên biệt và không chuyên biệt".

Lúc ấy người ta quan niệm rằng hoạt động tông đồ trực tiếp là tất cả những phương cách truyền bá Phúc Âm và thánh hóa các Kitô hữu hay những người ngoài Kitô hữu bằng sự loan báo Chúa Kitô, loan báo Phúc Âm hay bằng chính đời sống.

Hoạt động tông đồ gián tiếp, trái lại, được cho rằng đó là những hoạt động hệ tại sự bảo đảm và làm hoàn hảo trần thế, cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm và nhờ vậy tạo nên bầu khí thích hợp cho việc rao giảng Phúc Âm và thánh hóa con người.

Như vậy, theo các quan niệm nầy, tất cả những hoạt động tông đồ có tính cách xã hội chỉ được coi như là tông đồ gián tiếp. Rất nhiều Nghị Phụ không đồng ý quan niệm nầy.

Về sau, Ủy Ban liên hệ bàn cãi lại và quyết định không dùng những từ ngữ phân biệt đó ở trong Sắc Lệnh.

Những nét chính

Nhìn vào Sắc Lệnh, chúng ta nhận thấy điều được Sắc Lệnh nhấn mạnh trước hết là xác định lại giáo lý về tông đồ giáo dân đã trình bày trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hôi: theo đó, Giáo Hội được thành lập với mục đích đem đến cho mọi người ơn cứu chuộc và cứu rỗi.

Sau đó, Sắc Lệnh đề cập tới vấn đề chính là tông đồ giáo dân trong khi vẫn dựa vào những gì đã trình bày ở Hiến Chế về Giáo Hội. Nhưng điều quan trọng là Sắc Lệnh phân biệt "chức linh mục thừa tác" và "chức linh mục cộng đồng". Với "chức linh mục thừa tác", các giám mục và từ đó các linh mục có quyền thi hành những chức vụ tông đồ "nhân danh Chúa Kitô Thủ Lãnh Hiện Thân" (x. Sắc Lệnh về Linh Mục) và do đó các ngài trở nên như Mục Tử chăn dắt. Còn các tín hữu, nhờ "chức linh mục cộng đồng", thi hành những việc tông đồ riêng biệt của họ trong Giáo Hội. Sắc Lệnh đã nhắc lại nhiều lần rằng vì giáo dân tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thế của họ, cũng phải nắm giữ vai trò riêng do phép Rửa Tội, Thêm Sức và nhất là do các đặc sủng riêng biệt của họ.

Thứ đến, Sắc Lệnh nói đến một vấn đề đã gây nên nhiều khó khăn cho việc tông đồ giáo dân: sứ mệnh của Giáo Hội. Sắc Lệnh xác định rằng sứ mệnh của Giáo Hội vẫn là duy nhất, nhưng có thể được diễn tả bằng những hình thức tông đồ khác nhau với những thành quả khác nhau. Như vậy người giáo dân sẽ thi hành việc tông đồ trong các cộng đồng của Giáo Hội mà họ sống trong gia đình, ở môi trường xã hội, môi trường giới trẻ, hay trong lãnh vực quốc gia hoặc quốc tế. Bởi đó, việc tông đồ của người giáo dân cũng có thể đem lại những thành quả phong phú. Nhờ hoạt động tông đồ, họ sẽ loan báo Phúc Âm cho người khác, hoặc thánh hóa họ. Họ cũng có thể nhờ hoạt động mà đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần lãnh vực trần thế.

Ðề cập tới việc thực hiện tông đồ giáo dân, Sắc Lệnh nhắc tới hai phương pháp hoạt động trong Giáo Hội: tông đồ tập thể và tông đồ cá nhân. Cả hai đều là những cách thế hoạt động của giáo dân; tuy nhiên, theo Sắc Lệnh, hoạt động tông đồ có tổ chức qui củ sẽ đáp ứng hữu hiệu hơn cho nhu cầu của con người và của tín hữu. Bởi thế, phương pháp hoạt động tập thể này cần được phát động và khích lệ nhiều hơn trong các lãnh vực hoạt động của giáo dân.

Sắc Lệnh đã đặc biệt lưu ý tới những hội đoàn mới xuất hiện vào quãng mươi năm nay, dưới danh hiệu Công Giáo Tiến Hành.

Sau hết, Sắc Lệnh nhấn mạnh tới việc cần thiết huấn luyện cho những hoạt động tông đồ này cũng như những phương tiện sử dụng.

Chiều hướng nền tảng

Ðể thấu triệt hơn ý nghĩa Sắc Lệnh, ở đây chúng ta cố gắng đưa ra một vài tư tưởng chủ điểm và độc đáo, dựa vào những nét chính vừa nêu trên.

Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng ý tưởng "tham dự vào" trước đã có tiếng vang đáng kể trong Thông Ðiệp "Pacem in terris", giờ đây được Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân nhắc lại và nhấn mạnh trong tầm mức ý nghĩa của nó, từ đầu cho đến cuối bản văn. Thật vậy, trước hết và trên hết, Giáo Hội có sứ mệnh giúp mọi người tham dự vào ơn cứu độ và giáo dân là thành phần được tham dự vào chức vị tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô. Họ được mời tham dự vào sinh hoạt của Giáo Hội, trong sứ mệnh rao giảng Phúc Âm; cho nên đối tượng của Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân là xác định những hình thái và điều kiện cho việc tham dự nầy. Thời gian mà các tín hữu chỉ đóng vai trò thụ động đã qua rồi. Ngày nay Giáo Hội đặt niềm tin ở sự can thiệp, ở sáng kiến cũng như nơi sự tuân phục của con cái mình.

Nguồn gốc sự tham dự đó phát sinh từ địa vị, hoàn cảnh khác nhau của mỗi người trong thế giới. Người giáo dân sống trong thế giới và giữa những thực tại trần gian; cho nên ơn gọi của họ là thánh hóa những gì trần tục. Chính ơn gọi này với hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người sẽ định hướng cho đời sống tôn giáo của họ.

Bởi thế, đời sống đạo đức cá nhân của người giáo dân sẽ nhận được cảm hứng từ đời sống hoạt động của họ giữa người khác và giữa cuộc đời; như vậy, với những yếu tố của các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, của đời vợ chồng, gia đình, nghề nghiệp và xã hội, họ sẽ tạo cho mình khoa tu đức hữu hiệu cho bậc sống. Như vậy sự chạm trán với những vấn đề không ngừng đặt ra do cuộc sống hiện tại và theo sự phán đoán trong tầm mức Kitô hữu, là cơ hội quí báu cho người giáo dân để kiểm điểm lại cuộc sống.

Ðịnh nghĩa và quan niệm về ơn gọi của người giáo dân như thế, hàm chứa một cách nào đó, quan niệm thần học về những thực tại trần thế; quan niệm nầy hòa hợp với quan điểm được trình bày ở Hiến Chế nầy, trật tự trần thế có giá trị riêng của nó và người giáo dân sử dụng trật tự đó với trách nhiệm của mình. Thế giới chưa hoàn tất và khuôn mặt của nó tùy thuộc vào hoạt động tự do và ý thức của con người. Như vậy, đứng trước thế giới, người giáo dân có sứ mệnh phải kiến tạo, hoàn hảo hóa sao cho nó trở nên hấp dẫn đối với mọi người và thích hợp với ý định của Thiên Chúa.

Một chiều hướng quan trọng khác của Sắc Lệnh là đặc biệt chú tâm tới thực tại cụ thể của thế giới hiện đại. Bản văn của Sắc Lệnh đã dùng lại ý niệm "dấu chỉ thời đại" mà Thông Ðiệp "Pacem in Terris" đã sử dụng và xem như là một ý niệm quan trọng của Thông Ðiệp. Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân đã đề cập nhiều lần tới tình trạng biến chuyển của thế giới, những điều kiện sống mới mẻ, những đổi thay bất ngờ, tình trạng tăng gia dân số, sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật.

Những phân tích nầy không khác mấy với những điều đã trình bày ở "Hiến Chế Mục Vụ về giáo Hội trong thế giới ngày nay"; nhưng nét đặc biệt của Sắc Lệnh là niềm khát vọng khám phá ra ngôn ngữ của các dấu chỉ thời đại, là sự coi trọng những thực tại trần thế, là nỗi băn khoăn tìm cách thích ứng việc tông đồ giáo dân với hoàn cảnh, nhu cầu và khả năng của thế giới hiện đại.

Trong những đặc điểm chính của thế giới văn minh có lẽ sự liên đới ngày càng gia tăng giữa các dân tộc là một đặc điểm quan trọng nhất. Thật vậy, Thánh Công Ðồng đã đặc biệt chú tâm tới chiều hướng quốc tế đó, và Sắc Lệnh nầy là một trong những bằng chứng của sự chú tâm trên. Hoạt động tông đồ giáo dân phải nhằm tới viễn ảnh quốc tế và thực hiện thế nào để giúp cho các dân tộc gần gũi nhau hơn.

Có lẽ sự quan tâm tới hoạt động tông đồ phổ quát của Sắc Lệnh là một đặc điểm hấp dẫn nhất. theo đó, mọi giáo dân trên thế giới đều được kêu mời tới công việc ấy, và hoạt động tông đồ nầy nhằm đến hết mọi người, làm thế nào để người giáo dân có thể đối thoại với tất cả dù có đức tin hay không.

Như thế, hoạt động tông đồ giáo dân sẽ lan rộng tới mọi khía cạnh của cuộc đời thực tế, tới bất cứ bậc sống nào cũng như nhu cầu nào của nhân loại. Ðứng trên phương diện nầy, Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân đã trở nên một trong những thành quả cũng như một trong những khát vọng chính yếu của Thánh Công Ðồng Vaticanô II.

 

Lời Mở Ðầu 1* 

1. Thánh Công Ðồng muốn phát động mạnh mẽ hơn việc tông đồ của dân Thiên Chúa 1, nên chú tâm hướng về các Kitô hữu giáo dân, những người có phần riêng biệt và cần thiết trong sứ mệnh của Giáo Hội, như đã được nhắc đến trong những văn kiện khác 2. Bởi vì, vốn phát sinh từ ơn gọi làm kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo Hội. Trong những buổi đầu Giáo Hội, việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao! Chính Thánh Kinh chứng minh cách phong phú điều đó (x. CvTđ 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Ph 4,3).

Thời đại chúng ta đòi hỏi người giáo dân phải nhiệt thành không kém, nhất là những hoàn cảnh hiện tại càng đòi hỏi việc tông đồ của họ phải hoàn toàn mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Quả vậy, càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến vô hạn, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ, mà còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi. Việc tông đồ này lại càng trở nên khẩn trương hơn, vì sự biệt lập trên nhiều phương diện của cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng, đôi khi gây nên một sự tách biệt với trật tự luân lý và tôn giáo, cũng như tạo ra một sự nguy hiểm trầm trọng cho đời sống Kitô giáo. Hơn nữa, trong những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác.

Dấu hiệu cho thấy nhu cầu muôn mặt và khẩn trương ấy chính là hoạt động tỏ tường của Chúa Thánh Thần đang làm cho giáo dân hôm nay mỗi ngày một ý thức hơn phần trách nhiệm riêng của mình và thúc bách giáo dân mọi nơi phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội 3.

Trong Sắc Lệnh này, Công Ðồng nhằm làm sáng tỏ bản chất, đặc tính và những cách thế của việc tông đồ giáo dân, nêu lên những nguyên tắc căn bản và ban bố những giáo huấn mục vụ để thi hành việc tông đồ ấy cho hiệu quả hơn. Mọi điều trong Sắc Lệnh này phải được coi như những tiêu chuẩn cho việc xét lại những khoản giáo luật có liên quan đến việc tông đồ giáo dân.

(còn tiếp nhiều kỳ)


Chú Thích:

1* Công Ðồng trình bày tổng quát những lý do thuộc bình diện lý thuyết và những hoàn cảnh khiến cho hoạt động tông đồ giáo dân cần thiết và cấp bách:

- Sự đòi hỏi của ơn gọi Kitô hữu, như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã minh chứng điều đó.

- Sự phát triển dân số, tiến bộ khoa học và sự biệt lập của những thực tại trần thế có thể tạo nguy hiểm cho đời sống Kitô hữu.

- Tình trạng thiếu thợ tông đồ làm cho việc tông đồ giáo dân trở nên khẩn thiết hơn.

1 Xem Gioan XXIII, Tông Hiến Humanae Salutis, 25-12-1961: AAS 54 (1962), trg 7-10.

2 Xem CÐ Vat. II, Hiến Chế tín lý về Giáo Hội, số 33tt: AAS 57 (1965), trg 39tt. - Xem thêm Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, số 26-40: AAS 56 (1964), trg 107-111. - Xem Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội: ASS 56 (1964), trg 145-153. - Xem Sắc Lệnh về  Hiệp Nhất: AAS 57 (1965), trg 90-107. - Xem Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội, số 16, 17, 18. - Xem Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo, số 3, 5, 7.

3 Xem Piô XII, Huấn từ ad Cardinales, 18-2-1946: AAS 38 (1946), trg 101-102. - N.t. bài giảng ad Juvenes Operatos Catholicos, 25-8-1957: AAS 49 (1957), trg 834.

 
VỀ MỤC LỤC
CỦA ĂN ĐƯỜNG
  

Chúa Nhật XIX Thường Niên Năm B

 

Khi nói đến “Của Ăn Đường”, ta thường nghĩ đó là việc trao Mình Thánh Chúa cho người chuẩn bị từ giả cuộc đời. Mình Thánh Chúa hay Của Ăn Đường mà những anh chị em nhận lãnh lúc sắp ra đi, sẽ giúp họ thêm lòng yêu mến, thêm sức mạnh của đức tin, thêm nghị lực thiêng liêng để bước vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Có lẽ suốt cả hành trình cuộc sống, không có lúc nào làm người ta lo âu và sợ hãi cho bằng giờ phút cuối cùng ấy. Chết là thử thách cuối cùng, nhưng lại là thử thách lớn của đời người. Chính vì là thử thách lớn, Của Ăn Đường càng trở nên cần thiết và quan trọng để người ra đi được tiếp sức, đủ nghị lực mà trở về nhà Cha.

Bởi thế, nói đến Của Ăn Đường, ta nghĩ đến giờ phút cuối của từng cuộc đời con người là đúng lắm. Giáo Hội vẫn hiểu như thế. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đấy thì thật là thiếu sót. Vì cả cuộc đời ta được ví như một người lữ hành, thì Của Ăn Đường đâu chỉ có ở giây phút cuối cùng, đâu phải chỉ là lúc gần đến đích. Đúng hơn, ý nghĩa của cụm từ Của Ăn Đường mà ta cần nhấn mạnh đó là: lương thực nuôi sống trên suốt chặng đường dài mà người lữ hành phải đi. Bởi thế, chỉ duy nhất có Mình Máu Thánh Chúa Kitô mới là Của Ăn trên mọi của ăn, cần thiết trên mọi điều cần thiết cho hành trình thiêng liêng của mỗi cuộc đời, của chính bạn và của chính tôi.

 

Ý niệm về Của Ăn Đường, đâu chỉ có trong thời Tân Ước. Từ ngàn xưa, khi mà dân riêng của Chúa lang thang bốn mươi năm trường trong sa mạc, làm bạn một cách bất đắc dĩ với không biết bao nhiêu khó khăn: gió, cát, sức nóng của ban ngày, cái lạnh cắt da của đêm thâu, đói, khát, rắn độc… thì của ăn đường đã xuất hiện: Manna và nước chảy từ đá giữa sa mạc khô đã nuôi sống dân trên hành trình chông gai của họ. Họ đã sống để tiến vào Đất Hứa, nơi mà họ có thể đặt nguồn hy vọng chan chứa nhưng cũng là niềm hy vọng duy nhất đưa họ vượt qua bao nhiêu gập gềnh, chông chênh, nhiều phen tưởng như quỵ ngã.

 

Chưa dừng lại ở đó. Ý niệm về Của Ăn Đường lặp lại trong sách Các Vua quyển thứ I. Bài đọc 1 hôm nay là đoạn trích cho thấy ý niệm về Của Ăn Đường ấy. Đó là câu chuyện liên quan đến tiên tri Êlia. Trong nỗi khốn cùng của cái đói, cái khát giữa cảnh cháy khô da người của sa mạc, cũng chính lúc ấy, là nỗi khổ của một kẻ chạy trốn vì hoàng hậu Giêgiaben đang tìm giết, dẫu là người rất can đảm, Êlia cũng đã phải thốt lên: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Nhưng Thiên Chúa đã nhìn thấy ông. Người nhận ra tất cả những hoàn cảnh mà ông cam chịu. Người cứu ông. Ông đã nhận từ tay thiên thần của Thiên Chúa chiếc bánh lùi và bình nước uống. Bánh và nước - của ăn đường mà ông lãnh nhận đã tiếp sức cho ông, giúp ông đi hết chặng đường dài đến bốn mươi ngày, bốn mươi đêm. Bánh từ trời đã nuôi sống con người, đó cũng là sự biểu lộ của tình trời cao đối với người trần thế: Thiên Chúa đã yêu thương, mãi mãi vẫn một lòng yêu thương như thế.

 

Nếu ngày xưa dân Chúa lữ hành tiến về đất hứa, và cuộc lữ hành của tiên tri Êlia đều đã được nuôi dưỡng bởi của ăn đường đến từ trời cao, để tất cả cùng đi về đích bình an, thì trên đường lữ hành trần gian của người Kitô hữu hôm nay có phần giông giống những gì thuộc về ngày xưa ấy. Chỉ khác là hôm nay, những người Kitô hữu hy vọng trời cao, hướng về đất hứa, không phải chỉ là “đất chảy sữa và mật” mà thôi, nhưng là vùng đất vĩnh cửu. Vì lữ hành tiến về vĩnh cửu, người Kitô hữu cũng có Của Ăn Đường, không phải là manna và nước chảy từ đá, hay chiếc bánh lùi và bình nước của thiên thần, nhưng là lương thực vĩnh cửu, thần lương quý giá vô cùng: chính là Thịt Máu Chúa Kitô.

 

Chính Chúa Kitô đã mạc khải Mình Máu của Người là của ăn vĩnh cửu cho ta: “Ta là bánh bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đường về vĩnh cửu phải có Của Ăn Đường vĩnh cửu. Người trần thế tiến về vĩnh cửu phải có Đấng từ vĩnh cửu đến trần thế ban Thịt Máu mình làm Của Ăn Đường vĩnh cửu. Và như thế, Chúa Kitô: Của Ăn Đường quý giá, Nguồng Sống vĩnh cửu của chúng ta.

 

Là Của Ăn Đường quý giá, cần thiết cho mỗi Kitô hữu trên đường tiến về vĩnh cửu, vì thế Mình Thánh Chúa Kitô là nguồn sức mạnh, là tất cả sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vậy, mỗi lần tham dự thánh lễ, bạn và tôi hãy chuẩn bị tâm hồn cẩn thận, hãy mở rộng lòng sẵn sàng đón Chính Chúa Kitô ngự đến trong hồn ta. Linh mục Phêrô Trần Thanh Sơn, trong bài “Thiên Chúa rất gần” (Chúa nhật 17 thường niên) đã từng mời gọi hãy siêng năng hiệp lễ bằng lời nhắc nhỡ khéo léo và tha thiết: “Thế nhưng, chúng ta vẫn thấy còn rất nhiều người ở giữa chúng ta, nhất là các bạn trẻ đi tham dự Thánh Lễ, nhưng lại chẳng cần Hiệp Lễ. Như vậy, chúng ta có khác gì một người đi tham dự một bữa tiệc, nhưng đến nơi, chúng ta chẳng chịu ăn, cứ ngồi nhìn người khác ăn, thì điều chắc chắn là sau đó, chúng ta phải mang bụng đói trở về nhà. Và nhiều lần “nhịn đói” như thế, chúng ta sẽ trở thành “suy dinh dưỡng”, và hậu quả tất yếu đối với những người “suy dinh dưỡng” là họ sẽ không đủ sức để làm bất cứ việc lành nào, và rất dễ mắc bệnh, tức là phạm tội khi bị các “vi trùng” tức là các cơn cám dỗ của ma quỷ tấn công”.

 

Và tôi chợt nghĩ, một người đói và suy dinh dưỡng, thiếu ơn Chúa, thiếu nguồn sức mạnh từ nơi Thiên Chúa, chắc chắn sẽ không đi hết con đường của mình, nếu không muốn nói là sẽ đổ quỵ và đổ quỵ một cách bi đát.

 

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

 

VỀ MỤC LỤC
LỜI VÀ SẤM NGÔN

 

Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!

Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?

Chuyển ngữ:

Thérèse Trần Thiết

Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

 

Nguyên tác: 

Michel HUBAUT

UN DIEU QUI PARLE!

Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?  

 

Chương 3: LỜI VÀ SẤM NGÔN 

Như ta đã thấy, nếu linh hứng được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, thì nó rất thường được thể hiện nơi các ngôn sứ, những người giữ vai trò đặc biệt trong Mạc Khải. Những người này thường có một kinh nghiệm nhạy bén về sự Hiện Diện của Thiên Chúa trong đời tư của họ. Một tiếng gọi nội tâm khai mào nơi họ một cuộc đàm đạo thân mật   với Thiên Chúa. Thần Khí cho họ một cái nhìn đức tin, để thấu suốt cách hết sức tinh tế rằng Thiên Chúa thực sự can thiệp vào lịch sử dân Người. Vì vậy, Ngôn sứ là một nhân chứng say sưa và chính yếu cho kế họach yêu thương của Thiên Chúa:

 “Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. Khi vào trước nhan Đức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34, 33-35).

Được linh hứng, các ngôn sứ có khả năng giải thích mọi biến cố vui buồn của dân tộc mình, để từ đó rút ra một “Lời của Chúa”. Nếu Chúa “nói” tận đáy lòng ngôn sứ, thì cũng không phải cho riêng ông, mà cho toàn dân. Vì mạc khải không phải là lời tâm sự riêng tư, mà là một cuộc đối thọai giữa Thiên Chúa với dân Người.

Sứ điệp của ngôn sứ luôn ứng dụng cho một tình huống nhất định, chứ không là vô hạn định, ngay cả khi sứ điệp ấy chuẩn bị cho một mạc khải sau này, như những sấm ngôn về Người Tôi Tớ đau khổ, tiên báo một cách lạ lùng cho cuộc thương khó của Đức Ki-tô.

Ngôn sứ không hành động nhân danh mình. Nhưng ông ý thức rằng ông phải nói nhân danh Thiên Chúa, vì đã bị “nắm giữ” và thúc đẩy bởi một sức mạnh vượt quá sức riêng mình: Sức mạnh của Thần Khí Chúa. Ngôn sứ thường không phải là người của chính quyền, không phải là nhà cách mạng hay một chính trị gia. Có khi là một thầy cả, một tư tế (như I-sai-a hay Ê-dê-ki-en), nhưng không phải luôn luôn là như vậy. Mối bận tâm duy nhất của ngôn sứ là trung thành với Giao Ước và sự cứu độ của dân tộc mình.

Giê-rê-mi-a là một thí dụ điển hình nhất về người ngôn sứ “trung gian”, giữa Thiên Chúa và dân Người:

“Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." Nhưng tôi thưa: "Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói! "Đức Chúa phán với tôi: "Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói" (Gr 1, 4-12).

“Có lời Đức Chúa phán với tôi: Hãy đi mà thét vào tai Giê-ru-sa-lem như sau: Đức Chúa phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc (...). Hỡi nhà Gia-cóp(...). sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 2, 1-13).

Cuối cùng thì chính trọn cuộc đời của người ngôn     sứ, thái độ sống của ông luôn là một dấu chỉ, một “Lời      của Chúa”.

“Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: "Ngươi đừng cưới vợ; đừng có con trai, con gái ở nơi này! Vì Đức Chúa phán như sau về con trai, con gái được sinh ra ở nơi đây, về các bà mẹ sinh ra chúng, về các người cha sinh ra chúng trong xứ này: Chúng sẽ chết vì các chứng bệnh nan y, không được ai khóc thương, không được ai chôn cất. Người ta sẽ dùng chúng làm phân trên mặt đất; chúng sẽ bị tiêu diệt vì gươm, vì đói. Xác của chúng sẽ làm mồi cho chim trên trời và thú vật dưới đất” (Gr 16, 1-4).

Một lần nữa, ta nhận thấy không thể tách biệt Lời Chúa, linh hứng của Thần Khí và lịch sử. Bên ngoài thực tại sinh tồn hàng ngày của dân tộc được chọn, thì lời ngôn sứ hay của các bậc khôn ngoan, hiền triết đều không có một giá trị gì. Ngược lại, nếu không có lời giải thích của ngôn sứ được Thần Khí Chúa linh hứng, thì dân chúng không thể nắm bắt hết được ý nghĩa những gì họ đang sống, đang xảy ra trong cuộc sống của họ.

Ta cũng nên nhớ rằng không phải hết mọi biến cố đều tất yếu là một “lời Chúa”, vì nó có thể được giải thích bằng trăm ngàn cách khác nhau. Sự kiện vài trăm nô lệ Do-thái trốn ra khỏi Ai-cập, dưới sự chỉ đạo của một lãnh tụ tài ba xuất chúng, mang tên Mô-sê, đối với lịch sử Ai-cập, nó chỉ là một sự kiện nhỏ, không đáng kể trong sách sử thời đó của họ. Và còn nhiều dân tộc khác cũng trải qua những cuộc “giải phóng” tương tự, mà họ đã không sống các biến cố ấy như một “Lời của Chúa”!

Đúng là linh hứng đã đem đến cho lịch sử dân tộc này một ý nghĩa đặc biệt. Và nếu Ít-ra-en trở thành một dân tôn thờ độc thần, chẳng phải chỉ vì sự khôn ngoan của loài người, nhưng, như chính dân tộc này đã công nhận, là vì Đức Chúa “đã nói với cha ông chúng tôi nhiều lần và bằng nhiều cách(Hr 1, 1).

Nếu không có các ngôn sứ, niềm tin của Ít-ra-en đã mau chóng xuống cấp, để trở thành một việc sùng bái hình thức không hơn không kém. Xuyên suốt lịch sử, nếu không có những chứng từ của các vị ngôn sứ vĩ đại kia, niềm tin vào một Thiên Chúa của Giao Ước nơi dân Ít-ra-en đã không thể dần dần đi xuống chiều sâu, đi vào nội tâm được. Sự thiếu vắng ngôn sứ luôn được xem như một dấu chỉ bất trung và điềm không may cho dân:

“Khi không còn thị kiến, dân sẽ sống buông thả" (Cn 29, 18).

“Dấu lạ xưa, chúng con đâu thấy nữa, ngôn sứ cũng chẳng còn. Mãi đến khi nao, ai nào có biết” (Tv 74, 9).

Các ngôn sứ có một ảnh hưởng đáng kể. Người ta nhận thấy cao trào của những họat động văn hoá trong dân Ít-ra-en, chính là ở thời kỳ của các ngôn sứ, mặc dù không phải tất cả ngôn sứ đều là văn nhân. Đàng khác, khi muốn nhắc đến Sách Thánh, người ta thường nói: “Lề Luật và các Ngôn sứ”.

Ngay cả khái niệm về “Lời Chúa” thường liên quan mật thiết với sấm ngôn. Nó nói lên một sứ điệp, công bố một sấm ngôn. Người ta thấy hai từ “Lời Chúa” được dùng 6 lần trong Torah; 19 lần trong những sách khác; nhưng có đến 64 lần trong các sách Ngôn sứ “Tiền” (Gio-suê, Thủ lãnh, Các vua) và 152 lần trong các sách Ngôn sứ “Hậu” (A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, Ê-dê-ki-en, Giê-rê-mi-a…).

Đặc điểm của các ngôn sứ trong Kinh Thánh

A-mốt, vị ngôn sứ vĩ đại này của Kinh Thánh đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 8 trước công nguyên. Ông là ngôn sứ tiêu biểu cho những người được “linh hứng”, mà qua đó cho phép ta thẩm định được những đặc điểm chính yếu nơi các Ngôn sứ.

Vận mệnh của anh nông dân miền Nam Giê-ru-sa-lem này thật lạ lùng. Thiên Chúa đã “chộp” lấy anh đang lúc thư thả chăn giắt bầy súc vật và vun tưới mấy cây sung trong vườn nhà. Chẳng có gì tiên đoán được sứ mạng ngôn sứ với một người như thế! Thiên Chúa bất ngờ đột nhập vào đời anh, đảo lộn mọi thói quen, lôi anh ra khỏi khung cảnh gia đình, nghề nghiệp, rồi “sai anh” đến miền đất Bắc mà anh chưa từng biết tới. Ở đó A-mốt được Thần Khí tác động, cho anh can đảm và anh đã tố giác cách táo bạo những bất công xã hội, những sa đoạ thuần phong mỹ tục, những giả hình nhân đức của một thứ tôn giáo hình thức.

Không sợ nguy đến tính mạng, anh nhắc nhở rằng: “cảnh người giầu khai thác, cưỡng đoạt dân nghèo, luôn là dấu chỉ sự phản bội, cắt đứt Giao Ước giữa Thiên Chúa với con người; vì thế việc tế lễ chỉ còn là một trò hề xảo trá”. Rốt cuộc là A-mốt đã bị các thầy Thượng Phẩm đuổi ra khỏi đền thờ Bê-then, như một kẻ xách động xã hội nguy hiểm. Ơn gọi của A-mốt cho chúng ta thấy: Ngôn sứ đồng thời là chứng nhân của dĩ vãng, hiện tại và tương lai.

Ngôn sứ là chứng nhân của dĩ vãng

Là chứng nhân cho quá khứ, không có nghĩa là một người tiếc nuối một “thời xưa huy hoàng”. Mà là người của niềm tin, biết cắm rễ sâu mọi xác tín và sứ vụ của mình trong việc chuyên chăm suy niệm lời nói và hành động của Thiên Chúa dành cho dân riêng Người. Biết đối chiếu với dĩ vãng, không phải để tự khép mình vào đấy, nhưng là để kín múc từ đó niềm xác quyết vào sự trung tín của Đấng đã gọi và sai mình. Được nắn đúc và chiếm ngự bởi Truyền Thống sống động, được chín mùi bởi lịch sử của nhiều thế kỷ Giao Ước, ngôn sứ thường được xem là ký ức thức tỉnh của dân tộc mình, một dân tộc đang tiến bước về miền đất của Chúa.

Ngôn sứ là chứng nhân của hiện tại

Là chứng nhân cho hiện tại, không thuộc thành phần những kẻ mơ mộng, hay tự nhận là “thiên khải” sống trong thế giới mộng tưởng, xa thực tế thường ngày của thời đại. Lại càng không phải là “người của phòng thánh”, nơi mà một số người thường mong cho vị ngôn sứ cứ tự giam mình mãi mãi trong đó, để “tôn giáo” khỏi làm xáo trộn mọi dự án “trần thế” của họ.

Nhưng trái lại, ngôn sứ là người có một giác quan rất nhạy bén về những vấn đề thời sự. Là người luôn tự ràng buộc rất mật thiết với dân mình, trong mọi thử thách, khó khăn, cũng như những cám dỗ thường xuyên của họ. Được Thần Khí Chúa nắm giữ và thức tỉnh, ngôn sứ luôn nhìn cách sắc bén và mới mẻ, tất cả những gì gây trở ngại cho việc thực hiện ý định của Thiên Chúa trong cuộc sống của dân tộc mình.

Vị chiến sĩ này của Thiên Chúa luôn phải khước từ thuyết “định mệnh” dưới mọi hình thức, với những hoàn cảnh kinh tế xã hội, những lối “giữ đạo” hình thức, cốt ý làm cho sự vinh thắng của Tình Yêu và Sự Sống phải thua cuộc. Nhưng, mãi mãi là “hôm nay của con người”, như tiếng vọng thường hằng của Thánh Ý Chúa mà vị ngôn sứ luôn phải biết diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ thích hợp. Nhờ đó, Ngôn sứ không ngừng hiện-thực-hoá lời mời gọi của Thiên Chúa Giao Ước, Đấng nhìn xa thấy rộng cho con người.

Hơn nữa, ngôn sứ còn phải đi ngược gió, lội ngược dòng, bất chấp mọi hậu quả cho đời tư của mình, để làm chứng cho Giao Ước không biết mỏi mệt, trước dân chúng, trước những kẻ quyền thế, và ngay cả trước mọi thành phần giáo sĩ đã “mọc rễ” trong những thói quen tiêu cực. Vị ngôn sứ có khi còn phải dám thách thức cả chính quyền đương thời, dù biết chắc sẽ phải gặp chống đối, bắt bớ. Đây chính là một trong những mâu thuẫn lớn lao nhất của đời người ngôn sứ: Vừa phải liên đới chặt chẽ với dân, nhưng cũng thường bị đoạn giao một cách đau thương với dân mình, chính vì những đòi hỏi trong kế họach yêu thương của Thiên Chúa.

Ngôn sứ nhìn con người, nhìn mọi biến cố, và lịch sử trong ánh sáng của Giao Ước. Đó chính là sức mạnh và cũng là sự trăn trở của ông. Vì luôn phải tự đặt mình vào bên trong, cho việc phụng sự một lịch sử: Lịch Sử Ơn Cứu Độ. Tuy không dám nói có tham vọng “bảo vệ” Chân Lý, nhưng một cách khiêm tốn hơn, vị ngôn sứ vẫn biết rằng mình đã nhận sứ vụ làm chứng cho Sự Thật.

Ngôn sứ là chứng nhân cho tương lai

Chẳng có gì để so sánh với Nostradamus (Michel de Nostre-Dame, chiêm tinh gia người Pháp, 1503-1566), hay những thầy bói toán, tự cho mình khả năng đọc tương lai trong một khối thuỷ tinh hay trong bã cà phê! Nhưng ngôn sứ là người căn cứ vào quá khứ để sống cách sáng suốt trong hiện tại, và nhìn tương lai không chút sợ sệt.

Ngôn sứ trông đợi ngược với mọi hy vọng một cách vững mạnh những lời hứa của Thiên Chúa Tín Trung. Ông không theo thuyết tiền định, nhiều khi vì sáng suốt, nên cảm nhận trước được mầm mống của những tai họa trong thái độ sống điên cuồng hay sai lạc của dân mình. Cũng vì vậy mà A-mốt, trong khi xứ Sa-ma-ri-a đang hưởng một thời kỳ xem ra rất thịnh vượng, đã nhìn thấy đằng sau cái mặt tiền bóng loáng ấy, núp ẩn một xã hội đang tan rữa bởi căn bệnh bất trung của nó.

Dân chúng đã quên lãng những đòi hỏi của Thiên Chúa Giao Ước, đã tự hủy diệt bằng chính tội lỗi của mình. Tuy nhiên lời cuối cùng của ngôn sứ vẫn luôn là một lời mời gọi Hy Vọng. Đam mê duy nhất của ông là thức tỉnh, khơi gợi, là đỡ nâng dân mình, để họ mãi mãi là một dân tộc đang tiến bước, đang hướng mở đến lời kêu gọi của Thần Khí và của Ơn Thánh Chúa. “Hãy kiếm tìm Thiên Chúa rồi các bạn sẽ được sống” (Am 5, 4), đó là tiếng kêu không ngừng của A-mốt.

(còn tiếp nhiều kỳ)

 
VỀ MỤC LỤC
NGÀY CỦA CHÚA TRONG TIẾNG CHUÔNG MỜI GỌI
  

Mười năm không gặp tưởng chừng đã cũ
Mây bay bao năm tưởng mình đã quên
Như mưa bay đi một trời thương nhớ
Em ơi ! Bên kia có còn mắt buồn ?

 

Tôi gặp lại Trần Quảng Nam, người bạn học cũ xưa thời trung học. Ở hải ngoại, Nam nổi tiếng với nhạc phẩm “Mười năm tình cũ”. Anh chia sẻ với bạn bè về nguồn cảm hứng để viết được bài hát gây được nhiều xúc động trong lòng thính giả này. Trong một lần soạn lại đống đồ đạc cũ, anh tình cờ gặp một lá thư kỷ niệm của mối tình xa xưa, vật kỷ niệm này làm anh nhớ đến người con gái một thời anh thương yêu mà nay đã xa cách, anh cầm bút viết ngay tác phảm “Mười năm tình cũ”. Nam rất nghệ sĩ, sống thoải mái ngay từ thời niên thiếu và bay bổng với những ý thơ. Chỉ cần một thoáng gợi nhớ, một khung cảnh hữu tình, Nam viết ngay được một bài tình ca.

Những tâm tình nằm sâu trong ký ức, chỉ cần một gợi nhớ sẽ dâng trào cảm xúc, sẽ dạt dào yêu thương. Con người ta có kinh nghiệm về sự sống động của các kỷ vật, những vật vô tri vô giác nhưng đã chuyển tải tình cảm mãnh liệt. Có một vị Linh Mục khuyên Giáo Dân: “Hãy nhớ để trong túi áo một cỗ tràng hạt, nó sẽ giúp chúng ta nhớ có sự hiện diện của Chúa, sẽ giúp chúng ta nâng lòng lên mỗi khi chao đảo, giúp ta vững vàng khi gặp thử thách gian nan”. 

Lại có một vị khác nói vui với giới trẻ: “Muốn gặp người mình thương, các bạn cầm điện thoại di động, chỉ cần bấm vài phím sẽ nối mạch được với người mình thương, tràng hạt chính là chiếc điện thoại di động của các bạn, chỉ lần trên đầu ngón tay đôi ba hạt, các bạn đã được gặp Chúa”.

Những năm gần đây ở Nhà Thờ DCCT Sàigòn, cha Bề Trên cho phục hồi lại tiếng chuông nhật một ( 12 giờ trưa, 6 giờ chiều ), ban đầu bất ngờ nghe lại tiếng chuông vang lên vào những thời điểm lâu nay đã bị nín lặng, nhiều người giật mình ngơ ngác không hiểu, nhưng đối với những người tương đối lớn tuổi hơn, một thói quen tốt lành vội vã ùa về trong ký ức tâm linh, họ hiểu và nhớ ngay rằng tiếng chuông nhắc mọi người cùng Mẹ hướng lòng lên Chúa.

Trong một lần thăm viếng một làng quê miền Trung cách nay khoảng 20 năm, Làng Kim Long Tổng Giáo Phận Huế, khi chúng tôi đang trò chuyện với một người nông dân trên đám ruộng của anh, lúc ấy vừa chính Ngọ, tiếng chuông Nhà Thờ rung ngân, anh vội vã chống chiếc cuốc, xoa hai tay vào nhau cho sạch đất và làm dấu Thánh Giá nguyện kinh Truyền Tin. Hình ảnh đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi mãi, vì khi ấy rất nhiều các Nhà Thờ trong Sàigòn đã bỏ mất tiếng chuông này.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc bỏ tiếng chuông thân quen, nhưng có một nguyên nhân chắc chắn nhất, ấy là khi áp đặt quyền thống trị, người ta đã buộc các Nhà Thờ không được đánh chuông làm mất giấc ngủ nhân dân lao động. Đáng tiếc rằng cái lý luận bảo vệ sức khỏe nhân dân ấy lại cứ ra rả đủ mọi chuyện cả ngày từ sáng sớm với mấy cái loa thép của ủy ban tra tấn mọi người, ô nhiễm cả bầu khí sống.

Những ngày tháng này, khách đến Kỳ Đồng khi nghe tiếng chuông nhật một có nhiều tâm tình khác nhau. Có một vị Linh Mục kể, trong một lần ngài vào thăm Nhà Sách Đức Mẹ, mải mê xem các vật dụng ngài quên tiếng chuông nhật một đã cất lên, cô bé phục vụ nhắc ngài: “Thưa bác, xin bác đọc kính”, ngài giật mình đứng nghiêm trang lại và hòa mình vào tiếng kinh Truyền Tin, may quá cô bé không biết ngài là Linh Mục, nhưng cảm giác “quê quá” trở thành câu chuyện vui cho anh em chọc ghẹo nhau !

Một anh bạn kể lại, mỗi khi anh đến Nhà Thờ Chúa Cứu Thế, anh phải “nghiên cứu” lại giờ ra về, nhiều lần vội vã lấy xe ra để kịp giờ đón con, thẻ xe đã được kiểm tra qua máy quét, cây chắn chuẩn bị nâng cao, bỗng dưng có tiếng chuông nhật một cất lên, cây chắn lập tức bỏ xuống, người kiểm tra thẻ xe đứng thẳng lên đọc kính, anh bạn “tiến thoái lưỡng nan” loay hoay một chút rồi cũng phải xuống xe bỏ mũ an toàn đọc kính vậy, phiền hết sức nhưng cũng… vui hết sức !

Người dân ở thị trấn rất nhỏ tên là Mezzema thuộc vùng Liguria, Tây Bắc nước Ý, một hôm đã quyết định kéo nhau xuống đường gõ xô, gõ chậu inh ỏi cả lên để đòi vị Linh Mục duy nhất của thị trấn phải gióng lên những hồi chuông quen thuộc mà họ vẫn thường nghe vào 7 giờ sáng mỗi ngày. Sự tình là, có một ông khách du lịch thuộc loại giàu có nổi tiếng đặt chân đến thị trấn và yêu cầu phải để cho ông ta được ngủ ngon bằng cách không kéo chuông từ 10 giờ tối hôm trước cho đến 8 giờ sáng hôm sau. Đề nghị được chính quyền thị trấn chỉ có 85 dân này chấp thuận, với hy vọng sẽ thu hút được thêm nhiều khách du lịch nữa đến đây làm giàu về kinh tế cho thị trấn, và họ yêu cầu Nhà Thờ đáp ứng, cha xứ đã tuân theo quy định mới này. Tuy nhiên, người dân Mezzema đã quen với việc nghe tiếng chuông Nhà Thờ để thức dậy mỗi sáng thay vì dùng đồng hồ báo thức, đã phản đối quyết định của chính quyền thị trấn. Cuối cùng họ đã thắng. Và tiếng chuông đã lại ngân vang như trước… ( Kể lại phỏng theo Nguyễn Xuân Khoát, Thông Tấn Xã Việt Nam ).

Tiếng chuông cũng ăn sâu vào văn hóa dân tộc người Việt mình, biết bao nhiêu những áng văn thơ gắn chặt tâm tình con người với tiếng chuông hay tháp chuông Nhà Thờ, có ai lại không rung động khi nghe bản nhạc “Làng tôi” của Văn Cao với điệu valse dặt dìu gợi nhớ gợi thương.

“Làng tôi xanh bóng tre từng tiếng chuông ban chiều tiếng Nhà Thờ rung.
Đời đang vui đồng quê yêu dấu bóng cau với con thuyền một dòng sông…”

Khách hành hương đến viếng Nhà Thờ Phát Diệm, chắc không quên quả chuông Nam vĩ đại treo trên Phương Đình. Chuông được đúc năm 1890, dưới triều vua Thành Thái, bốn góc có bốn núm chuông, bên trên mỗi núm là một chữ Hán ghi tên bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Từ đỉnh chuông, những đường chỉ chạy dọc suốt thân chuông chia quả chuông thành bốn mặt. Mỗi mặt chuông đều có văn tự theo chữ Hán. Riêng mặt Tây Bắc có những dòng chữ Latinh: “Laudo Deum verum, voco plebem, congrego clerum, defuntos ploro, pestem fugo, festa decoro”, nghĩa là: “Tôi ca tụng Thiên Chúa thật, tôi kêu gọi dân chúng, tôi triệu tập giáo sĩ, tôi khóc người qua đời, tôi đẩy lui dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ.”

Sứ mạng của Hội Thánh là đem ánh sáng Lời Chúa chiếu soi vào nhân loại, nhắc nhở và đánh thức lương tâm con người, tiếng chuông Nhà Thờ là một kênh chuyển tải sứ điệp này, xin đừng ngại và đừng tiếc chia sẻ tiếng chuông cho mọi người.

Ngày của Chúa trong tiếng chuông mời gọi

Tưởng chừng nghe muôn khúc khải hoàn ca.

( Thánh thi Kinh Sáng Chúa Nhật II ).

Lm. Vĩnh Sang, DCCT, 29.7.2012 (Ephata 520)

 
VỀ MỤC LỤC
GIÁO DỤC NHÂN BẢN: THỰC TẬP NẾP SỐNG YÊU THƯƠNG CỤ THỂ

 

1. LỜI CHÚA:

Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu Cô-lô-xê: ”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.  Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 12-14).

2. CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU MỞ RỘNG

Vào năm 2001, chiến tranh giữa Israel và Palestine lại bùng phát dữ dội. Hầu như ngày nào cũng có nhiều người chết và bị thương. Số nạn nhân Palestine luôn nhiều hơn bên Israel. Tuy nhiên, giữa bầu khí hận thù giữa hai dận tộc này, thỉnh thoảng vẫn loé sáng lên những câu chuyện cảm động như chuyện Tình Yêu không biên giới sau đây:

Ngày 6 tháng 6 năm 2001, các đài phát thanh và truyền hình khắp thế giới đã loan truyền một bản tin đặc biệt: Trong một trận tấn công của quân đội Israel, một số người Palestine đã bị giết chết, trong số này có một thanh niên người Palestine. Sau đó gia đình anh đã tình nguyện hiến tất cả các bộ phận trong cơ thể của anh cho các bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện. Nhờ đó mà 5 người đã được cứu sống, trong số này có một thanh niên người Israel. Anh ta bị suy tim rất nặng đang nằm chờ chết. Nhưng nhờ quả tim của người thanh niên Palestine trên đã bị quân đội Israel bắn chết mà anh thanh niên người Israel này lại được sống. Khi phóng viên hỏi tại sao lại cho đi trái tim của con trai để cứu sống một người dân Israel thù địch, thì ông bố người Palestine đã cho biết: ông chỉ quan tâm cứu mạng bất cứ người nào đang phải đau khổ không cần biết họ là ai. Còn viên bác sĩ làm phẫu thuật ghép tim thì phát biểu: Khi so sánh 2 quả tim của người Palestin và người Israel trên tay. Tôi thấy cả hai đều có cấu trúc giống y như nhau và không thể phân biệt đâu là tim của người Palestin, đâu là tim của người Israel”.

3. SUY NIỆM:

1) Thiên Chúa là Tình Yêu: Thánh Gioan Tông đồ viết: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là TÌNH YÊU” (1 Ga 4,7-8).

2) Tầm quan trọng của giới luật yêu thương: Chúa Giêsu đã yêu thương nhân lọai đến cùng và để lại giới răn yêu thương cho các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).

3) Thực hành yêu thương cụ thể: Yêu thương không phải chỉ bằng lời nói suông, hay bằng thứ tình cảm nhất thời, nhưng bằng việc làm cụ thể noi gương Chúa Giêsu như kinh Thương Người dạy. Trong đó thương xác có bảy mối và thương linh hồn có bảy mối. Thánh Giacôbê đòi tín hữu phải yêu thương cụ thể như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ?” (Gc 2, 15-16). “Nhờ hành động mà con người nên công chính, chứ không phải nhờ đức tin mà thôi” (Gc 2,24).

4) Yêu thương cụ thể là điều kiện để được vào Nước Trời: Đến ngày tận thế khi đến lần thứ hai để xét xử muôn dân, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ xét theo tiêu chuẩn bác ái cụ thể như sau: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”…”Ta bảo thật: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-36.40.45).

5) Thực hành yêu thương cụ thể còn là phương thế hữu hiệu để làm chứng cho Chúa: Tập sống vị tha bác ái, dấn thân hy sinh và quên mình phục vụ tha nhân là lối sống của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đã được thánh Phanxicô tóm lại trong Kinh Hòa Bình mà mỗi tín hữu cần đọc hằng ngày và lấy làm nguyên tắc ứng xử bác ái đối với tha nhân như sau:

Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.

Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng.

Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

Lạy Chúa xin hãy dạy con:

Tìm an ủi người hơn được người ủi an.

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết.

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khí hiến thân là khi được nhận lãnh.

Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn An Bình.

4. THẢO LUẬN:

1) Sau nhiều năm theo đạo, bạn đã thực hành được giới răn yêu thương tha nhân của Chúa Giêsu nơi gia đình, tại khu xóm, giáo xứ và trong môi trường làm việc chưa? Tại sao?

2) Nguyên việc nghe giảng Lời Chúa và cầu nguyện đã đủ để sống tình yêu thương cụ thể hay không? Tại sao?

3) Bạn cần làm gì để sống giới răn yêu thương cách cụ thể như ý Chúa muốn?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Cha giàu lòng từ bi nhân ái. Xin ban Thánh Thần đến giúp chúng con thực hành giới răn yêu thương của Chúa Giêsu theo gương mẫu và lời dạy của Người. Nhờ quyết tâm sống yêu thương bằng việc thực tập sống nhân bản hằng ngày và việc học sống yêu thương noi gương Chúa làm và lời Người dạy, kèm theo cầu xin ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng con mới hy vọng sẽ được Chúa biến đổi để ngày một nên giống Đức Giêsu: Làm con hiếu thảo luôn làm vui lòng Chúa Cha, nên môn đệ đích thực bằng việc thuộc lời Chúa dạy và thực hành bác ái cụ thể, chúng con sẽ ngày một nên hòan thiện hơn, tích cực góp phần loan báo Tin mừng, làm chứng nhân tình thương cùa Chúa trước mặt người đời.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH

www.hiephoithanhmau.com

VỀ MỤC LỤC
CÁC GIÁ TRỊ TINH THẦN TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA KỶ NGUYÊN MỚI

  

Nguyễn Đăng Trúc

I-  Vấn đề canh tân xã hội của chúng ta trong bối cảnh thế giới ngày nay 

Cuối thế kỷ 19 đến tiền bán thế kỷ 20, sau những năm tháng bất đắc dĩ phải tiếp cận với xã hội, văn hóa Tây phương, dân tộc Việt Nam chúng ta, đặc biệt là tầng lớp sĩ phu đã có dịp nêu lên vấn đề canh tân xã hội, thay đổi tâm thức, cập nhật các trào lưu tiến bộ của nhân loại. Từ những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đến những chủ trương Tây phương hóa của Tự Lực Văn Đoàn, từ việc hình thành các đảng phái chính trị đến việc thành lập các chế độ Cộng hòa và chế độ Mác xít…, dần dà trong nhiều sinh hoạt xã hội, chúng ta như đã rời khỏi khung trời hạn hẹp của một vùng Viễn Đông đóng kín để đặt mình vào trào lưu văn hóa của Tây phương đang bành trướng, được hiểu là bước tiến phổ quát trong vận mệnh chung của nhân loại. 

Vào cuối thế kỷ 20, nghĩa là trong thời buổi hiện tại của chúng ta đang sống, thực trạng khó khăn của đất nước lại buộc chúng ta phải nêu lên vấn đề canh tân xã hội, nhưng vấn đề nêu lên phức tạp gấp nhiều lần. Một mặt thực trạng đó đối chiếu với nhịp sống chung của các dân tộc trên thế giới còn quá tiêu cực, khi sinh hoạt xã hội của chúng ta còn dậm chân, tự trói buộc vào một cơ chế mà lịch sử nhân loại đã chứng thực như một thất bại ê chề. Mặt khác trong bối cảnh chung của sinh hoạt nhân loại mà các mối giao lưu văn hóa, kỹ thuật, chính trị đang ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của dân tộc chúng ta, nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội xảy đến dồn dập, tiên đoán cho những giai đoạn khủng hoảng. Có người bi quan còn nghĩ đến một tương lai kinh hoàng, nếu con người ngày hôm nay không kịp thời tìm những giải pháp để điều chỉnh và cải cách. Nói cách khác trong nổ lực nêu lên vấn đề canh tân cuộc sống xã hội đất nước, chúng ta không còn có sẵn hai mẫu mực để chọn lựa và đối chiếu một cách dễ dàng như vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, không chỉ nêu lên các phương cách tổ chức và áp dụng hay hội nhập, nhưng là lúc cần xét lại tận căn những giá trị nền tảng của chính con người và xã hội để can đảm đề xuất những phương cách sinh hoạt thích ứng với các giá trị đó.

 

II-  Những khó khăn và mâu thuẫn của xã hội hôm nay 

a-  Vấn đề đặc loại của xã hội Việt Nam chúng ta 

Tâm thức chung của cách đặt vấn đề canh tân xã hội của chúng ta còn bị giới hạn trong khung cảnh của một cuộc tương tranh thuần chính trị giữa một bên là cơ chế chuyên chính xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác-xít và bên kia là thế giới tự do. Tình trạng này đã làm cho chúng ta nhớ lại tâm thức của xã hội và triều đình nhà Nguyễn vào thế kỷ 19. Vấn đề canh tân của xã hội thời bấy giờ đã vướng mắc vào một sự kiện thực tế do thâm ý thực dân của ngoại bang. Nhân danh bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, triều đình từ khước luôn những đề nghị canh tân của các minh nho thời bấy giờ. Ngày nay thực trạng của một chế độ chuyên chính đi kèm với một lý thuyết Mác xít đầy ảo tưởng đã làm cho bên này và bên kia hụt chân trước những vấn đề canh tân mà thế giới đang đặt ra và sớm muộn lại ảnh hưởng đến trên cuộc sống của chúng ta trong tương lai.  

b- Vấn đề mâu thuẫn của văn minh thế giới

Nói đến tiến bộ văn minh thế giới, một từ ngữ đặc biệt mới xuất hiện là toàn cầu hóa nhằm nói đến các dự kiến phát triển trong tương lai gần, nghĩa là vào đầu thiên niên kỷ thứ III. Toàn cầu hóa ở đây  lại được hiểu là phổ cập hóa nền văn hóa và văn minh đặc loại của Tây phương.  

Nếu dùng lại từ ngữ của triết gia Karl Jaspers, chúng ta chứng kiến rằng nhân loại có hai thời trục có tính cách quyết định cho hướng phát triển văn hóa nhân loại.

Thời trục đầu : Những xuất hiện của các thánh nhân, triết nhân, văn hào từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 4 trước công nguyên đã tạo nên những nền văn hóa đặc loại của các vùng, như Lão, Khổng tại Trung Hoa, Phật tại Ấn Độ, Héraclite, Parménide, Socrate tại Hy Lạp, các tiên tri Do Thái…  

Thời trục thứ hai : Nhưng đến thời Phục Hưng của xã hội Tây Phương và sau đó là các thế kỷ 17, 18, 19, tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiến hóa lịch sử, tính phổ quát của lý trí…cô đọng trong các tiền đề của trào lưu Triết học ánh sáng và với các lý thuyết nhân bản khác nhau.  Thời trục nầy như một làn sóng lan tràn dần ra khắp các vùng trên thế giới. Đây là một thời trục đầy lạc quan về khả năng vô tận của lý trí con người, có lúc đi đến độ như ứng dụng câu của Protagoras, một nhà ngụy luận Hy Lạp thời Socrate: “Con người là thước đo vạn vật”, mà gần đây chúng ta còn nghe lại các bài hát của chế độ Cộng sản Việt Nam “Bàn tay ta làm nên tất cả”. Nỗi lạc quan đó, được nữ Giáo sư Chantal Delsol cô đọng lại như sau trong cuốn “Le Souci contemporain” (Ed. Complexe) như sau :

“Chúng ta đã từng tin rằng chúng ta có thể cải biến tận căn con người và xã hội: khi thì do triết lý tiến bộ từ Condorcet hứa hẹn với chúng ta rằng chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói có thể được khử trừ, có khi do các ý hệ tiên đoán một tương lai rạng rỡ”.

Một cách hầu như chính thức, thế giới của toàn cầu hóa ngày nay được hiểu là cộng đồng nhân loại đang sinh hoạt trong khung cảnh giới hạn của một trào lưu văn hóa, văn minh Tây phương nầy.

Trên bình diện tiến bộ khoa học kỹ thuật, nổ lực thực hiện một số định chế xã hội, chính trị, không ai có thể chối cãi nhiều đóng góp tích cực của trào lưu văn hóa của thời đại được gọi là thời tân kỳ ấy.

Nhưng, nỗi lạc quan để thiết định bản tính con người như chỉ là một sinh vật hiểu biết, khai thác thiên nhiên vật chất, tự sức mình làm nên nhân cách và quyết định vận mệnh của mình, -  (một lối thiết định phẩm giá nhân tính dựa trên cùng một chuẩn mực của bất cứ sinh vật tự nhiên nào trong vũ trụ, nói cách khác là một sinh vật mất hết chiều kích “linh ư vạn vật”,  thì thực tại lịch sử ngày hôm nay đang chứng minh ngược lại. Nền nhân bản của con người lao tác (homo faber) của Mác-xít đã chứng thực những thất bại với sự sụp đổ của bức tường Bá Linh. Các nền nhân bản vô thần khác của các trào lưu triết lý và mốt sống tự do cá nhân tuyệt đối, hư vô chủ nghĩa, tương đối chủ nghĩa, con người kinh tế tiêu thụ, con người chơi (homo ludens) kế tiếp xuất hiện trong thế giới của tự do kinh tế thị trường…cũng không giải đáp được những ước vọng thâm sâu nơi con người. Và điểm thất bại ê chề nhất của văn hóa được gọi là nhân bản Tây phương là có quá nhiều thuyết nhân bản. Những định nghĩa dị dạng và mâu thuẫn nhau về nhân tính đã đưa đến tình trạng tương tranh quyết liệt giữa các khối chính trị, tâm thức hoài nghi về sự hiện hữu của chân lý và về các chuẩn mực đạo đức nền tảng. Hiện trạng xã hội mất hướng ngày nay tố giác giấc mơ võ đoán dựa trên những tiền đề xây dựng nên chính điểm khởi phát của nền văn hóa thời tân kỳ Tây phương.  

Một tiền đề then chốt của văn hóa Tây phương phổ quát trong thời tân kỳ của chúng ta đó là tiền kiến cho rằng những giá trị linh thiêng của nhân tính, những giá trị tinh thần, chẳng qua chỉ là là những khả  năng của lý trí hiểu biết sự vật khách quan. Tiền kiến nầy đang bị thách thức để đối đầu với những hiện tượng xã hội đang xảy ra, những hiện tượng kinh hoàng vốn là hệ quả của chính nền văn hóa nầy. Chúng tôi xin chỉ nêu lên một vài sự kiện đặc trưng : 

-   Người ta đã minh chứng rằng trong việc tiêu diệt những người Do Thái vô tội trong các lò sát sinh, hơi ngạt, là kết quả của một cuộc vận dụng trí năng đến mức tối đa, với những kỹ thuật hết sức tân thời.

-   Khoa học kỹ thuật lý trí đã dồn nổ lực để hình thành ra bom nguyên tử, cũng như các loại vũ khí vi trùng có thể tiêu diệt trọn bộ nhân loại.

-   Có rất nhiều phát minh trong lãnh vực truyền thông tân kỳ nhằm rút ngắn khoảng cách không gian, xóa dần khoảng cách thời gian; nhưng chưa bao giờ con người cảm thấy cô đơn và lạc lõng hơn lúc này, nhất là những vùng dân cư được hưởng những phương tiện văn minh vật chất cao độ nhất.

-   Trình độ hiểu biết được nâng cao đồng nhịp với những sáng kiến của khoa học kỹ thuật, sản xuất lương thực và của cải vật chất, nhưng các mối tương quan xã hội trên bình diện phối trí lao động, phân phối các sản phẩm, phẩm chất của các sinh hoạt văn hóa và cộng đồng ngày càng trở nên khó khăn, và đôi lúc hầu như không còn được lưu ý đến nữa.

-   Và lấy một hiện tượng tiêu biểu về sự mâu thuẫn của nền văn hóa, văn minh ngày nay làm thí dụ có tính cách điển hình: Chúng ta chứng kiến nổ lực của các nhà khoa học, các chương trình quy mô của các chính phủ, các tổ chức đại học và y tế, các hệ thống bảo hiểm đang tích cực để kéo dài tuổi thọ của con người. Nhưng sự gia tăng tuổi thọ lại đi kèm với phẩm chất tiêu cực trong từng giây phút sống của con người. Con người thời đại của chúng ta càng ngày càng cảm thấy cô đơn, chán chường, như ý nghĩ cuộc sống đã trốn thoát đi đâu rồi ! Hiện tượng tự tử trong giới trẻ gia tăng, đặc biệt các thành phố lớn và phát triển về mặt kinh tế, chưa kể đến những cuộc tự sát tập thể trong một số các giáo phái đã từng xảy ra trong các thập niên gần đây…

 

III-   Các phản ứng trước những khó khăn và mâu thuẫn của văn minh ngày nay

Ý thức về những hiện trạng tiêu cực của xã hội mình đang sống, những phản ứng của cá nhân hay từng nhóm, từng lứa tuổi, từng lớp quần chúng nhằm ly khai chống đối nếp suy tư, tập tục, cơ chế, trật tự ưu thắng của xã hội đương thời… luôn hiện hữu trong mỗi giai đoạn của lịch sử loài người. Thông thường hơn nữa, mỗi một thời đại đều quay nhìn lại thực trạng xã hội mình và xem đó là tình trạng nguy kịch hơn cả, kèm theo những giải pháp tưởng chừng có thể giải quyết dứt khoát những sai lầm của quá khứ cũng như hiện tại. 

Những phản ứng có tính cách xã hội trước nền văn minh và nếp sống văn hóa ngày nay cũng mang những đặc tính tương tự.

Thêm vào đó, chúng ta nhận ra rằng thường các giải pháp đưa ra là cái nhìn đối nghịch với những nếp sống và quan điểm đang chi phối cuộc sống xã hội hiện tại.

-   Trước trào lưu toàn cầu hóa về mặt không gian qua mẫu mực của văn minh Tây phương đang thịnh hành, phong trào quốc gia quá khích tôn vinh chủ nghĩa chủng tộc, độc tôn vùng miền, quốc gia đi kèm với việc bài xích sự hiện diện của người dị chủng trong môi trường sống của mình.

-   Một số giáo phái đi tìm những nơi hoang vắng, tạo thành những cộng đồng riêng lẻ sống ngoài lề sinh hoạt chung của xã hội.

-   Người ta hoài nghi về niềm tin liên quan đến thời gian lịch sử được xem như cuộc thăng tiến không ngừng và đồng bộ trong cuộc phát triển kinh tế, xã hội và cuộc sống tinh thần. Từ tôn giáo, triết học, nghệ thuật…nhiều phong trào quay lại với quá khứ thật xa xưa, hoặc truy tìm những giá trị văn hóa, tôn giáo mà khởi thủy của thời tân kỳ xem là lạc hậu, man rợ, thiếu ý thức…

-  Đặc biệt trong một số tôn giáo lớn, nhiều khuynh hướng gọi là nguyên tuyền (intégriste) cơ bản (fondamentaliste) nuối tiếc một thời vàng son của thời tôn giáo toàn trị về mặt trần tục đã dấy lên những vùng ảnh hưởng, những phong trào chống lại nếp sống tân kỳ, tạo ra những xung đột bạo lực, bất tương dung, vượt ra ngoài các sứ điệp yêu thương và giải thoát của các niềm tin tôn giáo.

-   Trong khuynh hướng phản ứng ngược lại với trật tự hiện hữu của xã hội, người ta dần dần dững dưng hoặc chống đối các giá trị và định chế truyền thống; người ta thường nhắc đến tình trạng mất niềm tin vào các tôn giáo lớn, thiếu hứng khởi trong sinh hoạt chính trị, nhưng ngay cả ý thức đạo đức và nổ lực trau dồi văn hóa cũng không còn được quan tâm. Điều đáng ghi nhận hơn nữa, là sự xuất hiện của nhiều nhóm trẻ tôn vinh các giá trị tiêu cực, đôi lúc đi đến những hành vi bạo loạn và tội ác: Những nhóm suy tôn Satan, phá tán các mồ mả, đập phá các nơi thờ tự của các tôn giáo…

-   Về các sinh hoạt định chế hiện hành đang chi phối sinh hoạt chính thức của xã hội, phản ứng rất đa dạng, nhưng khung cảnh chung cho chúng ta thấy một tình trạng bất cập để giải quyết vấn đề : 

o       Những phản ứng còn nằm trên bình diện điều chỉnh hoặc khử trừ có tinh cách kỹ thuật. Nói cách khác, các hiện tượng chống kháng lại các định chế, và đằng sau đó là sự mong chờ những giải đáp trung thực và thích hợp với ước vọng và bản tính con người, chỉ được nhìn như những hiện tượng hoàn toàn tiêu cực về mặt xã hội. Lý do thâm sâu là các định chế hiện hành, kể cả tôn giáo, không vượt ra khỏi tiền kiến về nền tảng được xem là vững chắc, phổ quát của vũ trụ quan, nhân sinh quan xây dựng nên thời đại tân kỳ ngày nay. Tôn giáo và tầng lớp trí thức không còn đóng vai tiên tri hay còn gọi là khai sáng ; nếu còn giữ khoảng cách không trở thành công chức cho các định chế chính trị, xã hội, thì cũng không vượt ra khỏi những tiền đề văn hóa của một thời kỳ lịch sử rất giới hạn tạo nên nền văn minh tân kỳ.

o       Trong dư luận và nơi cảm nhận của quần chúng, các định chế, tầng lớp trí thức và các tôn giáo còn loay hoay trong cuộc tương tranh giữa khuynh hướng tiến bộ nghĩa là tôn vinh nền văn hóa văn minh tân kỳ hiện hành, và khuynh hướng bảo thủ, quay về một quá khứ được xem là vàng son nhằm chống lại nền văn minh được xem là một xã hội quá tục hóa. Hậu quả là các hiện tượng bất thường của xã hội ngày nay hoặc được đánh giá là do hậu quả của xã hội văn minh tân thời, hoặc bị lên án là tác dụng của khuynh hướng phản động, bảo thủ mà phát sinh.

o       Tình trạng bất cập và hụt chân của các định chế trước những khám phá của khoa học kỹ thuật. Cuộc hội thảo của các nhà khoa học và triết gia tại Tokyo, Nhật bản năm 1995 đã đồng thanh lên tiếng báo động : 

“Lần đầu tiên, các nhà khoa học và triết gia đồng thanh quả quyết rằng chúng ta đã đi vào thời đại sống còn của nhân loại và thúc đẩy các giới hữu trách có biện pháp thích ứng cho một hoàn cảnh đang bùng nổ” (trích phúc trình của triết gia Michel Random về cuộc hội thảo tại Tokyo, 1995 đăng trên tạp chí Le Nouvel Observateur – hors-série số 28, tr.52).

Hoàn cảnh xã hội bùng nổ khi khoa học tiếp cận sự sống và bản chất của con người không còn nêu lên phẩm giá đăc loại của nhân tính : người ta khai thác thân xác và tinh thần con người như khai thác các vật thể trong thiên nhiên. Người ta khai thác những khám phá về di truyền học, miễn dịch học bất chấp những nguy cơ trong việc áp dụng và đưa ra thị trường. Gần đây sự kiện con cừu Dolly được “biến chế” từ một tế bào vô tính do viện Roslin đã làm cho dư luận choáng váng…

Mọi người choáng váng vì hai lý do : 

-   Thứ nhất, những tiên liệu bảo chứng cho giá trị của khám phá khoa học nay đã vượt qua. Tương quan giữa tiến bộ khoa học và hạnh phúc con người không còn nền tảng nào chắc chắn nữa khi khoa học đang trên đường tác tạo một giống người như một sinh vật nào khác vượt lên trên mọi dự đoán.

-   Thứ hai, giá trị tối thượng của con người vốn là nhân tính “linh ư vạn vật”, giá trị linh thiêng ấy đã bị thời tân kỳ chuyển thành khả năng lý trí để hiểu biết các sự vật. Nay chân lý và phẩm giá về nhân tính phải chăng chỉ được đo lường qua sự hữu hiệu của việc áp dụng sự hiểu biết này vào việc làm chủ thiên nhiên và hưởng dụng những sản phẩm vật chất do bàn tay và trí năng con người làm ra ? 

   Tiền đề văn hóa nền tảng đó của thời đại tân kỳ, vốn được xem là một giá trị thần thánh mới mặc nhiên cho phép khoa học có thể mạnh dạn khẳng định “Cái gì có thể làm được trong lãnh vựa khoa học đều có thể được phép làm”. Và khi các định chế xã hội, từng lớp trí thức và tôn giáo cũng đang nằm trong khung văn hóa được xem là phổ quát, là một định mệnh không cưỡng lại được của lịch sử nhân loại, thì xã hội khó lòng tìm được một giải pháp thỏa đáng.

-         Mặt khác, ngoài tình trạng bế tắc về việc canh tân nền tảng các định chế, những hiện tượng xã hội tiêu cực như thất nghiệp, phát triển nghịch chiều giữa tiến bộ khoa học-kỹ thuật và phẩm chất đời sống của cá nhân và xã hội… dần dà đưa quần chúng đi vào tình trạng thu mình lại, cá nhân chủ nghĩa, để mặc, hoặc thực hiện một nếp sống dựa trên “chủ nghĩa tương đối về các giá trị. Ý thức về công ích và dấn thân phục vụ đồng loại nhường chỗ cho những ưu tư giải thoát cá nhân. Các giá trị linh thiêng, đạo đức nay chỉ được xem như là một cảm nghiệm riêng tư của lòng mình, đôi lúc bất chừng và tùy hứng, để phản ứng lại những dự phóng ảo tưởng của các ý thức hệ đang chi phối nhân loại.

 

IV – Một đôi điều suy nghĩ 

a - Trước những dự án cải cách của nhà nước Cộng sản Việt Nam hiện nay 

Dự án cải cách của nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) muốn tìm một lối thoát để sống còn, dựa trên một tổng hợp rất kỳ lạ: đó là hạ tầng cơ sở kinh tế theo chế độ thị trường bên cạnh một chế độ chính trị đối nghịch là chế độ CS chuyên chính. Trong khuôn khổ cuộc trao đổi này, chúng tôi không bàn đến vấn đề khả thi hay những hậu quả kinh tế, chính trị của cuộc tổng hợp đó. Nhưng trên bình diện văn hóa, chúng ta nhận thấy rằng việc tổng hợp này ngay từ đầu bị chi phối bởi những tiền đề cố hữu : 

-    Con người và xã hội được định nghĩa là sinh vật được làm nên bởi vật chất, biến đổi vật chất bằng lao tác và hưởng dụng vật chất.

-    Nhũng tiền đề về con người và xã hội như thế dựa trên tính khách quan của lịch sử. 

Thời gian qua đi, niềm tin về một thiên đàng trần thế sẽ được thực hiện nhờ cuộc cách mạng CS đã không thể biện minh được nữa trước những thực tế lịch sử khách quan mà nhân loại đã trải qua.

Và trong ý hướng ứng dụng kinh tế thị trường vào xã hội Việt Nam, nhà nước CS như chỉ biết có quá khứ và không hề biết đến những khủng hoảng, ít nhất về mặt văn hóa, mà các quốc gia đang phát triển nhờ kinh tế thị trường phải đối đầu. 

Cuộc khủng hoảng đó, hàn lâm viện Jacques-Yves Cousteau đã cô đọng trong lần phát biểu tại Tokyo, 1995: 

Một nhà độc tài vô danh và vô hình rất tàn nhẫn, Ông Thị Trường, đang hành xử một loại uy quyền độc đoán. Sự thay đổi quyền uy nguy hiểm nầy biểu lộ một sự suy thoái của nếp sống văn minh, đi đến tình trạng man rợ, từ dân chủ đi đến một nền độc tài không thể xác định” (Tạp chí Nouvel Observateur số 28, tr. 53). 

b – Khủng hoảng các giá trị phát xuất từ đâu?

Một số những hiện tượng xã hội tiêu cực, hoặc đáng lo ngại đang xảy ra cho thời đại chúng ta, không có nghĩa là xã hội hiện nay chúng ta đang sống là một hỏa ngục. Và chúng ta cũng không vội vàng phi bác một cách hồ đồ và đồng loạt những giá trị tích cực mà thời đại tân kỳ đã cống hiến cho lịch sử nhân loại. Nhưng những giới hạn và bế tắc của những tiền đề xây dựng nên nếp văn minh của thời đại tân kỳ đó buộc ta phải đặt lại vấn đề. Những giới hạn và bế tắc có thể được nêu lên, vì khi đối chiếu những thành quả của nền văn minh đó đem lại với những hứa hẹn có thể đáp ứng trọn vẹn tất cả những yêu sách và khát vọng của con người, thì có sự bất tương hợp.

Trong dòng phát triển văn hóa của Phương Tây Hy Lạp, các giá trị sinh hoạt con người được qui chiếu vào nhận thức về nhân tính như là một sinh vật có lý tính. Nhưng thuở bình minh của nền văn hóa đó, con người có lý tính nghĩa là được tham dự vào sự sống vượt lên trên các sinh vật, sự sống đó gọi là “Logos”. Héraclite nêu lên “Logos” này, nhưng đồng thời nhấn mạnh không ai trong cõi người ta có thể sở đắc hay hiểu thấu đáo được “Logos” là gì. Socrate cũng nêu lên câu châm ngôn khác trên đền thờ Delphes “người ơi hãy tự biết mình”, đề cao sự hiểu biết như là giá trị tối thượng của nhân tính, nhưng đi đôi với châm ngôn đó, vị thầy của văn hóa Tây phương cũng cho rằng “điều mà ông biết, đó là ông không biết gì cả”.

Nhưng cái mới trong giòng lịch sử văn hóa Tây phương và hiện nay đang phổ biến tràn lan trên thế giới làm khởi phát thời đại tân kỳ, là “Logos” mà con người thoáng nhận ra và luôn mãi phải lắng nghe và đi tìm của Héraclite và Socrate, nay được hiểu là khả năng hiểu biết của con người về bản chất sự vật và còn hơn nữa là biến đổi sự vật. Đồng thời cũng nhờ có khả năng lý trí nầy, con người có được phẩm giá của mình nơi quyền tự do và tự lập. Vì thế cũng có thể là đã lo âu cho một tương lai đen tối của thời đại tân kỳ đang mở ra, hoặc có thể là để tuyên dương cho những khám phá mới mẻ của nhân loại. F. Nietszche dùng miệng một người mất trí mà hô to giữa công trường “Thượng Đế đã chết, tất cả chúng ta đã là những tên đồ tể sát thần”.

Tiêu chuẩn để đo lường các giá trị từ nay không còn là Chân lý vượt lên trên khả năng của con người mà con người phải biết lắng nghe, đối chiếu và tự kiểm, nhưng nay giá trị được đo lường và thiết định dựa trên sự hữu hiệu của các nổ lực hiểu biết và thể hiện tự do, hạnh phúc, mà khả năng con người lý trí, vốn được xem như vô hạn, có thể triển khai. 

Thực tế cho thấy rằng lý trí phổ quát mà mỗi cá nhân đều sở đắc không phổ quát như nỗi lạc quan của các nhà tư tưởng thời tân kỳ chủ xướng: những ý hệ nhân tăng mâu thuẫn nhau, những nền nhân bản liên tục thay nhau xuất hiện ; việc sở đắc các kiến thức khoa học cũng không đem lại trọn vẹn những ước mong hoàn thành nhân tính con người. Và bế tắc của thời đại tân kỳ như điều mà F. Nietszche đã tiên đoán là con người đang mệt mỏi về thân phận làm người, con người đang phiêu lưu vào sa mạc của hư vô chủ nghĩa, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là  khủng hoảng tận căn các giá trị. 

Trước tình trạng này, nhiều nhà tư tưởng Tây phương đã giật mình tự vấn về “con người suy tư” của truyền thống văn hóa; và một trong những triết gia đã mạnh dạn nói rằng: 

“Điều làm cho chúng ta suy tư hơn cả trong thời đại của chúng ta, một thời đại làm ta phải suy nghĩ, đó là chúng ta chưa từng suy tư” (Heidegger – Qu’appelle-t-on penser? Bản dịch của Aloys Becker và Gérard Granel. PUF. Paris 4è éd, 1983. tr.24)   

Tại sao chúng ta chưa từng suy tư? 

Các giá trị tinh thần nằm trong khuôn khổ của bản tính con người “linh ư vạn vật”. Nhưng nếu đặc tính thiêng liêng là suy tư lại được xây dựng trên sự hiểu biết về sự vật và từ sự hiểu biết này xây dựng lại bản tính con người và thần thánh; phải chăng đây là sự hiểu lầm và sử dụng lầm tận căn hay không?  Các nền thần học, đạo đức, nhân bản ngày nay đã không đặt vấn đề con người, Thượng đế là “cái gì” hay sao? Làm sao một nền văn hóa có thể đi xa những kinh nghiệm thông thường của con người dưới phố khi đặt câu hỏi “con người là gì?”, “cha tôi là gì?”, “mẹ tôi là gì?” Và nếu phải đề cập đến các giá trị thiêng liêng, đạo đức về nhân tính, thì nền văn hóa dựa trên tiền đề về sự hiểu biết sự vật (về những cái gì) làm nền tảng khởi phát liệu sẽ cống hiến được những nội dung nào cho khát vọng tự nhiên của tâm hồn con người  ? 

Từ “cái gì” đến “ai” như trọng tâm của suy tư, phải chăng là một thách đố của văn hóa nhân loại cho Thiên niên kỷ sắp đến ?

c - Câu chuyện của chúng ta

Ôn cố tri tân”. Chúng ta tự hào về nền nền văn hiến dân tộc, chúng ta muốn đóng góp phần mình vào sinh hoạt chung của nhân loại. Trong muôn vàn điều đáng tự hào và những giá trị tích cực có thể cống hiến, có một câu chuyện được lưu truyền phản ảnh những thao thức về giá trị gọi là  Cương thường  hay Đạo làm người. Đó là câu chuyện Họ Hồng Bàng. 

Đế Lai đem theo vợ mình là nàng Âu Cơ nhằm chiếm đất nước của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Đế Lai chỉ nghĩ đến quyền lực của mình và tìm cách vơ vét các tài vật thiên nhiên trong xứ (nhũng cái gì), bỏ mặc nàng Âu Cơ và tùy tùng (những ai) trong trại.

Âu Cơ trong nỗi cô đơn khắc khoải, được Lạc Long Quân, con người bất tử, cứu thoát và được nâng lên làm người bạn đồng sàng với chàng. Trong cuộc gặp gỡ Đất – Trời – Người nầy, nàng sinh hạ trăm con và gây dựng nên dân tộc mới.

Nhưng Lạc Long Quân vốn là Thần Thánh, nên sau một năm gần gũi với Âu cơ thì ẩn mặt.

Trong nỗi nhớ nhung về người bạn Thần Thánh Lạc Long Quân, Âu Cơ và các con chỉ còn có duyên gặp gỡ chồng và cha tại Tương Dạ. 

Ngày nay con người chỉ muốn sống “sống bởi bánh”, nghĩ tới việc sở đắc tài vật và quyền uy cho cá nhân và thực thi bạo lực, con người “chấp ngã” đó của Đế Lai phải chăng đã đến lúc nên nhường đất trời cho một thế hệ con người mới. Con người mới ấy sẽ  biết ân cần, ưu lo nghĩ đến một Lạc Long Quân rất gần, nhưng luôn ẩn mặt và gặp gỡ mỗi người, muôn người nơi Tương Dạ hay còn gọi là Tâm Linh ./.

 

Nguyễn Đăng Trúc 

Bài thuyết trình tháng 08 năm 1998 tại Luân đôn.

 

VỀ MỤC LỤC
NHÂN ĐỌC BÀI : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRANH LUẬN « ĐỒNG BẢN THỂ » HAY « ĐỒNG BẢN TÍNH » CỦA ĐC BÙI VĂN ĐỌC, CHỦ TỊCH ỦY BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, HĐGMVN

 

Đọc bài giải thích của Đức Cha Chủ tịch Uûy ban Giáo lý Đức tin, mới được truyền thông trên mạng lưới, tôi rất hứng thú. Đây là vấn đề phiên dịch một từ ngữ thần học, đã được gây dựng trên căn bản từ ngữ triết học cổ điển Aâu châu.

 Đức Cha đã so sánh và phê phán rất xác đáng một số bản dịch sang nhiều ngôn ngữ Á Aâu. Sau đó xác định rõ ràng ýÙ nghĩa các từ ngữ chuyên môn lấy ra từ triết học Aâu châu, như ousia / essentia (yếu tính),  physis / natura (bản tính)..

Cho nên lập luận và bằng chứng thật chắc chắn như đinh đóng cột. Thiết tưởng ai cũng phải công nhận là phải dùng từ ngữ đồng bản thể.

Vấn đề phiên dịch ở đây như thế là đã giải quyết xong. Dĩ nhiên là còn khá nhiều từ ngữ chuyên môn khác cũng cần được phiên dịch ra cho đích xác.

Nhưng phiên dịch cho đúng, chưa chắc đã làm cho người Việt không chuyên môn hiểu được lẽ đạo. Vì thế, sau đây tôi xin trộm phép góp một vài ý kiến có liên quan đến nền Thiên Chúa học Viêt Nam.

Ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào cũng không tránh được tính cách tương đối và bất cập, vì lẽ ngôn từ và cú pháp không phải là bản chép lại (abbilden) thực tại, nhưng là cái khung định hình (bilden) hay là lên khuôn cho  tri thức và cho thực tại mà ta lĩnh hội.

Khi nói về Thiên Chúa, ta không thể đóng khung Người trong một công thức của một ngôn ngữ nào cả : công thức không làm cho ta nắm chắc được thực tại vô biên của Người, nhưng nó có thể giúp cho ta biết phải nhắm về phương hướng nào .

Vì ngôn từ thường là hàm hồ.

Vì thế tuy ĐC đã căn cứ vào lịch sử Thiên-Chúa-học mà giải thích và giảng dạy thật là rành mạch, nhưng nếu ai không có ý ranh mãnh, nhưng tinh ý một chút, cũng nhận định ngay được tính cách hàm hồ, và tương đối như thế.

Chính ĐC cũng đã cho biết là từ ngữ ousia  vừa có nghĩa trừu tượng là yếu tính hay bản tính, lại vừa có nghĩa cụ thể là bản thể.  Cũng như trong tiếng Đức, Wesen  vừa có nghĩa là yếu tính hay bản tính (Wesenheit), vừa có nghĩa là bản thể (ein Wesen = một vật) . Cho nên homo-ousios  vừa có nghĩa là đồng bản tính, lại vừa có nghĩa là đồng bản thể,  nhưng đặc biệt là khi nói về Thiên Chúa thì cả hai nghĩa đều dùng được cả

Công thức « nhất thể tam vị = mia ousia treis hypostaseis = una substantia tres personae »  cũng không thiếu tính cách hàm hồ : Ousia  ở đây phải hiểu là bản thể  tuy  nó còn có nghĩa là bản tính.  Hypostasis  ở đây phải hiểu là « ngôi » (Hán : « vị ») ; còn gọi là prosôpon  nữa. Nhưng xét theo từ nguyên thì hypo-stasis  lại là tương đương với sub-stantia bản thể , cho nên trong khi đối thoạiï với người Hi-lạp thì người La-tinh rất dám hiểu treis hypostaseis ba bản thể ! Vì thế để tránh hiểu lầm thì người La-tinh đã phải dịch ousiasubstantiahypostasis  là persona.

Về sau, khi Boethius định nghĩa personanaturae rationalis individua substantia thì cũng không chỉnh lắm, vì đã là bản thể (substantia) thì tất nhiên là cá biệt (individua), không cần phải chua thêm vào như thế. Đã thế lại chưa đủ ý nốt, vì ông chỉ dùng phạm trù substantia (bản thể) để định nghĩa persona (ngôi), chứ không dùng đến phạm trù relatio (liên quan) .

Trong sách bổn của Đức Cha Bá Đa Lộc, tuy có « nói chữ », và dùng công thức chữ Hán là Thiên Chủ nhất thể tam vị, dịch thật sát nghĩa công thức Hi-lạp và La-tinh, nhưng giáo dân Việt Nam vẫn nói đơn sơ dễ hiểu là « (tôi tin thật) có một Đức Chúa Trời (là đấng thưởng phạt vô cùng, tôi lại tin thật) Đùức Chúa Trời có ba Ngôi », và như thế là tránh không dùng đến những ý niệm có liên quan đến một hệ thống triết học không thuộc về truyền thống văn hóa của mình.

Đến đây tôi sực nhớ đến những người gọi là thuộc bè rối, không chịu nhận công thức trên đây. Biết đâu không phải là vì trong ngôn ngữ của họ không có những từ ngữ như trong công thức của tín điều, và vì thế khi dịch công thức ấy ra ngôn ngữ của họ, thì họ hiểu là công thức đó làm sai niềm tin Đức Giê-su là người và là Thiên Chúa. Nhận ra được lý do như thế mới thấy rằng có lẽ họ không đến nỗi sai lạc và bất trung với đức tin như  người trong văn hóa Hi-lạp và La-tinh thường  nghĩ.

Thế mới biết là tuy ta không có lý do gì để phế bỏ công thức trên đây cũng như các tín điều được nói lên trong hai văn hóa ấy, nhưng các công thức ấy vẫn có giá trị tương đối. Vì thế khi đứng trong văn hóa khác – như văn hóa châu Á, hay là văn hóa châu Aâu ngày nay – ta có thể nói lên đức tin của giáo hội một cách dễ hiểu, bàèng những từ ngữ tuy không dịch sát ý những công thức ngày xưa, nhưng có giá trị tương đương. Nhưng đây là vấn đề hội nhập văn hóa, có phạm vi rộng hơn là vấn đề phiên dịch một vài từ ngữ sao cho sát nghĩa.

 Gs. Trần Văn Toàn

VỀ MỤC LỤC
BẢO VỆ NHÂN QUYỀN TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI.

 

NGUYỄN HỌC TẬP

Trong nhãn quan của Giáo Hội, các quyền con người là những gì thể hiện, nói lên phẩm giá của mỗi con người:

   - " Hỡi con người, anh hãy tạo cho mình có tâm hồn và nhận biết bản thể của mình ", Thánh Leo Cả viết lên như vậy ở thế kỷ thứ V ( Omelia, XXVII, 6).

Phẩm giá của con người được đặt trên nền tảng là:

   - " con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa " ( Gn 1, 26-27).

Như vậy phương thức chắc chắn nhứt để tôn trọng các quyền của con người là chính là kính trọng  Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, trong chuyến công du ở Thánh Địa, đã đặt lên câu hỏi làm thế nào mà thảm trạng hàng triệu người Do Thái bị giết chết có thể xảy ra ( dưới thời Hitler) và ngài đã trả lời như sau: 

   - "Làm sao con người có thể có được một thái độ khinh thường như vậy đối với con người? Đó là bởi vì con người đã đi đến điểm coi Thiên Chúa không ra gì. Chỉ có một ý thức hệ không Thiên Chúa mới có thể thiết định chường trình và thực hiện đến cùng việc tàn sát cả một dân tộc " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Visita al mausoleo Yah Vashem a Gerusalemme, 2).  

Đó là chía khoá để mở ra và phát huy một phương thức bảo vệ chính đáng và thiết thực các quyền của con người, ngược lại với những ai cho rằng tôn giáo là kẻ thù của nhân quyền. 

Giáo Hội dấn thân bảo vệ phẩm giá con người như là hoa trái công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Công Đồng Vatican II xác định một cách rõ ràng: 

- "Giáo Hội, do sức mạnh của Phúc Âm được giao phó cho mình, tuyên bố các quyền của con người, nhận biết và trị giá cao cả tiến trình mà qua đó trong thời đại chúng ta nhân quyền được thăng tiến khắp nơi " ( GS, 41). 

Lời xác định vừa kể của Hiến Chế Gaudium et spes cho thấy động tác của Giáo Hội quan tâm đến các tiến trình có lợi cho việc tôn trọng nhân quyền, nhứt là  từ sau Công Đồng Vatican II trở đi.

Nói như vậy không có nghĩa là trước đó Giáo Hội không quan tâm đến nhân quyền, nhưng là vì chính Công Đồng đã thúc giục thái độ quan tâm lo lắng của Giáo Hội cho vấn đề càng phải được đẩy mạnh hơn nữa, để tạo thêm tầm quan trọng cho việc tôn trọng nhân quyền, nhứt là trong thời điểm nầy, tâm thức nhân loại được tăng trưởng thêm xác tín rằng các quyền của con người là nền tảng của mọi tổ chức xã hội - chính trị, trong tầm mức Quốc Gia cũng như trên bình diện Quốc Tế.

Việc cộng tác của Giáo Hội để bảo vệ nhân quyền, chúng ta có thể suy tư dưới ba phương diện:

   - tín lý, thần học,

   - ngoại giao, luật pháp

   - và mục vu.

 

   1 - Phương diện tín lý, thần học.

Quyền huấn dạy của Giáo Hội, dọc theo tiến trình của Công Đồng Vatican II, đã hiến tặng cho chúng ta một lời giáo huấn thật sung mãn, một tập hợp cô đọng các nguyên lý, để hướng dẫn động tác của  Ki Tô hữu.

     a) Phẩm giá con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, là nền tảng các quyền con người.

Phẩm giá của mỗi tạo vật con người, nhận thức được trên bình diện lý trí, được soi sáng bởi ánh sáng đức tin và như vậy nhận được sự nâng đỡ vững vàng hơn (ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris, 5-25).

Nhưng rất tiếc trong thế giới hiện đại, chúng ta chưa có được sự đồng thuận về nền tảng đó, từ đó đưa đến kết quả là khó xác nhận được căn tính (identité ) của nhân quyền và từ đó không thiết định được sự bảo vệ chính đáng phải có.

Đó cũng là những gì Công Đồng Vatican II đã cảnh báo:

- " Chúng ta đang có khuynh hướng suy luận rằng các quyền của chúng ta có thể được hoàn toàn bảo vệ chỉ khi nào chúng ta được giải thoát khỏi mọi lề luật Thiên Chúa. Nhưng đi theo con đường đó, phẩm giá con người không những không được bảo vệ, mà còn đúng hơn sẽ bị thiệt hại mất mát " (GS, 41).

     b) Bảo vệ và thăng tiến các quyền của con người là phần nguyên vẹn (pars integralis ) sứ mạng của Giáo Hội.

Chăm lo bảo vệ nhân quyền là những gì thể hiện thực tiển động tác  Giáo Hội phục vụ thế giới.

Công Đồng Vatican II nhận thấy ước vọng con người càng ngày càng gia tăng thấy được phẩm giá của mình được tôn trọng.

Giáo Hội biết rằng thái độ ước vọng tìm kiếm đó không thể được kết thúc trong chân trời vật chất đơn thuần. Bởi vì thái độ đó là phản ảnh lại ý nghĩa cuộc sống con người, mà chúng ta chỉ có thể tìm được câu trả lời thoả đáng trong Phúc Âm, trong " Tin Mừng ".

Mối liên hệ giữa sứ mạng loan báo Phúc Âm và thăng tiến con người đã được ĐTC Phaolồ VI làm nổi bât lên, nhứt là trong Huấn Dụ  Evangelii enunciandi, và cũng đã được ĐTC Gioan Phaolồ II nói lên ngay từ Thông Điệp đầu tiên của ngài, Redemptor hominis. 

     c) Con người có giá trị thượng đẳng trong mọi chế độ và chương trình chính trị.

Đây là một lời giảng dạy của Phúc Âm:

   - " Ngày sabat được lập nên cho con người, chớ không phải con người cho ngày sabat " ( Mc 2, 27). 

Lời giảng dạy đó được Công Đồng Vatican II lấy lại và lớn tiếng tuyên bố:

   - " Con người, tự bản thể mình, tuyệt đối cần có một đời sống xã hội và phải là nguyên lý, con người là chủ thể và cùng đích của moi cơ chế xã hôi " ( GS, 25). 

Nhờ vào thái độ đó, các quyền của con người được rút ra khỏi mọi khuynh hướng mang dấu vết cá nhân chủ nghĩa và tìm thấy được sự thể hiện triển nở hoàn hảo của mình trong mối liên hệ cá nhân con người với cộng đồng xã hội, trong đó mình được hội nhập vào. Mối liên hệ đó được định nghĩa như là một mối liên hệ " tùy thuộc hổ tương " ( interdipendenza), đòi buộc cần phải có thăng tiến công ích. 

     d) Tôn trọng nhân quyền là định chuẩn tính cách chính danh của mọi quyền lực. 

ĐTC Gioan Phaolồ II đã tuyên bố nguyên lý đó một cách cô đọng và đầy ý nghĩa:

   - " Các uy quyền của quyền lực không thể được hiểu cách nào khác hơn là dựa trên nền tảng của việc tôn trọng các quyền khách thể và bất khả xâm phạm của con người " ( ĐTC Gioan Phaolo II, Redemptor hominis, 17). 

Quyền huấn dạy của Giáo Hội cũng không quên đề cập đến giả thuyết trong đó quyền lực công cộng  vượt quá giới mức thẩm quyền của mình. Trong trường hơp đó, các công dân có thể

   - " bênh vực các quyền của mình và của các người đồng công dân với mình để chống lại trạng thái lạm dụng quyền hành của chính quyền, những vẫn luôn luôn còn tôn trọng các giới mức tiếng nói của luật tự nhiên và của Phúc Âm " ( GS, 74).

     e) Nhận biết các quyền của con người không thể tách rời khỏi sự nhận biết các bổn phận.

Quyền huấn dạy của Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến quan niệm hoàn hảo đối với phẩm giá con người. Nhưng quan niệm nhân phẩm đó không đầy đủ, nếu không quan niệm rằng con người chỉ là chủ thể của đủ các quyền, nhưng không có khả năng cảm thấy mình cũng phải có trách nhiệm, trước tiên là trách nhiệm đối với Đấng Tạo Dựng nên mình.

Một đàng Thông Điệp Pacem in terris nhắc nhớ rằng có một mối liên hệ không thể chia tách được giữa các quyền và bổn phận trong cùng một con người, cũng như quyền và bổn phận giữa những người với nhau.

Đàng khác, Công Đồng Vatican II cũng lưu ý phải coi chừng mối nguy hại của các quyền con người được quan niệm trong nhãn quan sai lạc về quyền tự lập ( GS, 41).

     f) Nhân quyền, phổ quát và cá nhân.

Chính luật tự nhiên đưa đến cho con người những quyền mà ai cũng phải tôn trọng, để bảo vệ phẩm giá của con người.

Như vậy, không ai là con người mà không có các quyền đó.

Bởi đó xã hội được kêu gọi hãy tôn trọng các quyền của con người, chớ không phải "thiết định" cho hay giới hạn hoặc xoá bỏ đi tùy hỷ, tùy theo hoàn cảnh văn hoá, địa phương, giai cấp, phái giống, phe nhóm.

Hiểu như vậy, hể ai là con người, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào đều có các quyền như nhau, thoát xuất từ phẩm giá con người các quyền đó cũng không thể chia thành thứ hạng, thành hạng nhứt hay hạng hai.

Mỗi loại quyền của con người ( thuộc loại liên quan đến bản thể cá nhân hay đến kinh tế xã hội, chính trị, tôn giáo ) đều có giá trị như nhau và phải được bảo đảm và tôn trọng như nhau. Bởi vì tất cả đều thoát xuất từ phẩm giá con người.

ĐTC Gioan Phaolồ II xác nhận là

   - " cần phải vất bỏ đi các lời chỉ trích của những ai lợi dụng tính cách đặc thù của văn hoá để che đậy các vi phạm đến các quyền con người, cũng như của những ai bần cùng hoá quan niệm về phẩm giá con người để khước từ tầm quan trọng luật pháp phải có để bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Dalla giustizia di ciascuno nasce la pace per tutti, 2).  

     g) Hành xử nguyên vẹn các quyền của con người là điều kiện của một nền hoà bình vững chắc và một nền phát triển chính đáng.

ĐTC Gioan Phaolồ II sau khi đã viết lên trong Thông Điệp Redemptor hominis (RH) những tư tưởng chính yếu và có tính cách thuyết phục:

   - " Nói cho cùng hoà bình được thu gọn vào việc tôn trọng các quyền bất khả xâm phạm của con người " (RH, 17), trong Thông Điệp Sollecitudo rei socialis ( SRS), ngài xác nhận:

   - " Cũng không phải thực sự xứng đáng với con người một loại phát triển không tôn trọng và không thăng tiến các quyền của con người, các quyền cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, hàm chứa cả các quyền của Quốc Gia và của các dân tộc " ( SRS, 33). 

     h) Tự do tôn giáo là khuôn thước đo lường mức phát triển mọi phát triển xã hội.

Công Đồng Vatican II đánh dấu một khúc quanh có ý nghĩa trong việc huấn dạy của Giáo Hội về tự do tôn giáo, trình bày quyền tự do đó như là một quyền tự do con người mà định chế pháp luật phải bảo vệ đối với mọi công dân và như vậy Giáo Hội cũng nhận biết tầm quan trọng đặc tính trần thế của tổ chức Quốc Gia.

Nghị Quyết Dignitatis humanae của Công Đồng long trọng xác nhận:

   - " Trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị cưởng bách phải hành động trái với lương tâm mình, cũng như bị ngăn cấm, trong các lằn mức chính đáng, đươc hành động thích hợp với lãnh vực đó "  ( Dignitatis umanae, 2).

Bản tài liệu  nhắc lại con người có đòi buộc luận lý phải tìm chân lý và dựa vào chân lý vào thái độ hành xử của mình, bởi lẽ tự do tôn giáo không được đặt nền tảng trên quyết định chủ quan, mà trên chính bản thể của con người ( ibid.).

ĐTC Gioan Phaolồ II mạnh dạn xác nhận huấn dạy vừa kể, khi ngài xác nhận rằng

   - " vi phạm tự do tôn giáo là một điều bất công tự bản chất đối với những gì sâu đậm cá biệt nơi con người, đối với những gì chính đáng là con người " ( Redemptor hominis, 17).  

     i) Công lý là một nguyên lý của đời sống Giáo Hội.

Thái độ chăm lo ân cần đối với công lý và bảo vệ nhân quyền lan rộng cả đến đời sống nội tại của Giáo Hội.

ĐTC Gioan Phaolồ II đã xác nhận như sau ở một trong những diễn từ đầu tiên của ngài:

   - " Công lý là nguyên tắc đời sống của Giáo Hội, như là Dân Chúa " ( Buổi yết kiến chung ngày 08.11.1978, 3).

Giao Hội, dọc theo dòng các thế kỷ, đã định chế một tổng thể các nghị quyết lề luật: đó là Bộ Giáo Luật, được công bố năm 1983 chứa đựng một danh sách các quyền của người Ki Tô hữu ( cn. 208-223).

ĐTC Gioan Phaolồ II đã mời gọi các vị thẩm phán Giáo Hội hãy coi mình như là "sacerdotes justitiae" (các vị tư tế của đức công bằng ) và hãy hành xử thế nào để Giáo Hội có thể luôn luôn được nhận biết như "speculum justitiae" (tấm gương phản chiếu của sự công chính ) (Alla Sacra Romana Rota, 1).

 

   2 - Phương diện ngoại giao - luật pháp.

Đối với Giáo Hội hoàn vũ, đây là phương diện các động tác của Toà Thánh trên phương diện ngoại giao.

Một đàng, có những mối tương quan song phương, trong đó yếu tố nhân quyền luôn luôn chiếm phần quan trọng hơn.  Ví dụ, thoả ước giữa Toà Thánh và Quốc Gia Israel ( ký kết ở Giêrusalem, ngày 30 tháng 12 năm 1993), hay thoả ước giữa Toà Thánh và Tổ Chức Giải Phóng Palestine ( ký tại Vatican, ngày 15 tháng 2 năm 2000), bắt buốc cả hai phía ký kết đều phải tôn trọng phẩm giá con người nói chung và nói riêng là quyền tự do tôn giáo. 

Các diễn từ của ĐTC nhân dịp tiếp đón các phái đoàn đại sứ mới bên cạnh Toà Thánh gần như luôn luôn đều có nhắc đến các quyền của con người.

Ngoài ra còn có những lần can thiệp, qua các phương thức dành riêng để bênh vực các nạn nhân bị vi phạm các quyền của mình.

Đàng khác, các hoạt động của Toà Thánh trong lãnh vực tổ chức đa quốc gia, trong ba mươi năm cuối cùng, phát triển rất nhiều về các quyền con người. Toà Thánh thường xuyên theo dõi việc làm của LHQ trong lãnh vực vừa kể, cũng như đối với hoạt động của các Tổ Chức Vùng (như Cộng Đồng Âu Châu), Tổ Chức các Quốc Gia Mỹ Châu, Phi Châu, cộng tác dưới nhiều hình thức trong những cuộc thảo luận của các tổ chức vừa kể.

Cũng nên biết, trong thập niên cuối cùng, nhiều lần Toà Thánh đã tham dự các Đại Hội Thế Giới về Nhân Quyền, khởi đầu từ Đại Hội Vienne năm 1993).

Đặc biệt la Toà Thánh không thiếu yểm trợ tiến trình thiết lập định chế hình luật quốc tế , một tiến trình được kết thúc băng việc áp dụng Định Chế của một Toà Án Hình Sự Quốc Tế, cho Đại Hội Ngoại Giao Liên Hiệp Quốc được nhóm họp tại Roma 1998 ( cfr. All'Angelus, 14.06.1998; Al Congreso Mondiale sulla pastorale dei diritti umani, 5; Nel rispetto dei diritti umani il segreto della pace vera, 7). Trong biến cố vừa kể, Toà Thánh đã tỏ ra vững chắc và trợ lực thực tế các cố gắng của Cộng Đồng Quốc Tế nhằm phát huy và bảo vệ  hữu hiệu phẩm giá và các quyền của con người.

Nhưng sự ủng hộ đó, trong một vài trường hợp, Toà Thánh không có thái độ nào khác hơn là ủng hộ với điều kiện, khi dưới áp lực của một vài ý thức hệ có ý định đồng dạng hóa mình với các quyền mới của con người ( như trong trường hợp chủ trương phá thai, chủ trương tình yêu đồng phái tính, chủ trương chết nhẹ nhàng (eutanasie). 

Sau cùng về phương diện liên hệ mật thiết với luật pháp, Toà Thánh:

   - hội nhập ủng hộ các phương thức luật pháp quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các quyền của con người:

   - từ bốn Quy Ước Genèvre (1949) đến hai Nghiệp Thư (Protocolli) năm 1977;

   - từ Quy Ước về tình trạng người tỵ nạn (1951) đến Nghiệp Thư của văn bản năm 1967;

   - từ Quy Ước Aja về việc bảo vệ gia tài văn hoá trong trường hợp xung khắc bằng võ lực (1954) đến Quy Ước Ottawa về việc cấm dùng mìn chống người (1997);

   - từ Quy Ước về việc loại trừ mọi sự phân biệt chủng tộc (1965) đến Quy Ước về các quyền của tuổi thơ (1989).

Toà Thánh đã trở thành thành phần của các phương thức bảo vệ đó, đã muốn mình đảm nhận một phận vụ bắt buộc, để phục vụ để tăng cường sứ mạng của mình phục vụ công đồng quốc tế.

 

   3 - Phương diện mục vụ.

Với phương diện mục vụ, chúng ta đi vào đời sống thường nhật của Giáo Hội, ở mọi tầng lớp.

Nhân quyền tạo thành một chương rộng lớn việc giảng dạy của Giáo Hội. Và cũng từ đó, việc phát huy và bảo vệ các quyền của con người đòi buộc phải có một công cuộc giáo dục thoả đáng cho các giá trị đã gợi ý lên cho các điều huấn dạy đó.

Để thực hiện mục đích giáo dục vừa kể, đóng một vai trò quan trọng các cấu trúc thích ứng của Giáo Hội, tích cực trong những lãnh vực các Giáo Hội đáp ứng thoả đáng với các cơ chế tác động trong lãnh vực Giáo Hội hoàn vũ.

Năm 1998, nhân dịp giáp 50 năm Bản Tuyên ngôn Quốc Tể Nhân Quyền được ban hành, (được Hội Đồng Liên Hiệp Quốc bắt đầu xử dụng từ ngày 10 tháng 12 năm 1948), Thánh Bộ Công Lý và Hoà bình, đưọc ĐTC Phaolồ VI thiết lập năm 1967, đáp ứng lại ao ước của lời nguyện ước của các Nghị Phụ Công Đồng (GS, 90), đã quy tựu vào Vatican một Đại Hội Thế Giới về mục vụ về các quyền của con người, để nhấn mạnh mối tương quan nối kết sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội nhằm thăng tiến và bênh vực phẩm giá con người ở mội giai đoạn trong cuộc sống.

Đại hội đã làm sáng tỏ cho thấy Giáo Hội chuyên cần trong mục đích vừa kể và nhận ra được một kết quả đáng làm cho ai nấy cũng phải nức lòng, mặc dầu là kết quả không được đồng nhứt trong mọi khía cạnh.

Dựa trên những phân tích đó và dưới ánh sáng năm 2000 mới kết thúc và ngàn năm thứ III đang đến, ĐTC Gioan Phaolồ II, trong Thông Điệp Tertio millenio adveniente (TM, 33-36) mong ước Giáo Hội có được một cái nhìn xét minh lại và đầy yêu thương của chính Giáo Hội.

Định hướng mà Giáo Hội phải đi trong ngàn năm thứ ba, là những gì đã được Công Đồng Vatican II xác định trong:

   - " Luôn luôn và bất cứ ở đâu, và với tự do đích thực, Giáo Hội có quyền huấn dạy đức tin và huấn dụ xã hội, hành động không bị cản trở sứ mạng của mình giữa con người và ban cho chuẩn định luân lý của mình, cả đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị, khi các quyền căn bản của con người và phần rổi của con người  đòi hỏi ". 

Nói tổng kết thật ngắn gọn, đó là khai triển và phát huy mục vụ dưới hai phương diện:

   - "loan báo "

   - và "tố cáo, lên án ", đã đưọc Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình phổ biến trong tài liệu năm 1975 (La Chiesa e i diritti dell'umo, nn.70-90).

Giáo Hội nhân được sứ mạng loan báo sứ điệp cứu rổi của mình, tình yêu và hy vọng cho mọi dân nước và trong mọi hoàn cảnh.

Sứ mạng đó cũng được nhằm nhập thể, ngay cả khi bị các thực tại hoàn cảnh đối nghịch, bởi vì là sứ mạng có khả năng định hướng và nâng đỡ con người, dầu sao đi nữa, trên con đường tiến đến Nước Trời được thực hiện, trong tâm thức cánh chung , là chía khoá chuyển hướng động tác chuyên cần dấn thân của người Ki Tô giáo trong việc phục vụ các quyền của con người:

   - trợ giúp các nạn nhân bằng tất cả những gì mình có được,

   - chia xẻ nỗi đau buồn bằng một sự hiện diện liên đới,

   - khước từ mọi tuyệt vọng thúc đẩy con người đến bạo lực.

Đó là bổn phận khó khăn của Giáo Hội trong lãnh vực các quyền của con người, hợp tác với các tổ chức tôn giáo khác, với cả các tôn giáo không Ki Tô giáo, với những con người thành tâm thiện chí, theo lời huấn dạy của Công Đồng

Trên một cao độ khác,

   - Giáo Hội không ngừng nghỉ ước ao một vài hoán cải cấu trúc của mình để có thể hành động nhằm đối lại những nguyên nhân sâu đậm đưa đến các việc vi phạm các quyền của con người,

   - cung cấp cho các Ki Tô hữu có trách nhiệm trong môi trường chính trị, những trợ lực về phương diện huấn dụ xã hội, mà nhờ đó họ có thể nuôi dưỡng động tác chuyên cần của họ. 

Mặc dầu hiện nay đôi khi chúng ta có thể phát hiện được những dấu chỉ mệt mỏi trong động tác nhằm bênh vực và bảo vệ nhân quyền, tuy nhiên chúng ta cũng phải cùng với ĐTC Gioan Phaolồ II nhìn nhận rằng bênh vực con người là phương diện chính yếu của sứ mạng Giáo Hội.

VỀ MỤC LỤC
Bà bếp 
 

Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

Chỉ dẫn: 

Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.

Lưu ý: 

Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng đời nhân loại. 

Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải và những sợi chỉ.  

LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.

 

51. Bà bếp 

Qua những trợ lý, mục sư của một cộng đoàn trù phú gửi lời chào đến giáo dân của mình sau buổi thờ phượng ngày Chúa Nhật. Vợ ông thuyết phục ông hãy tự mình làm công việc đó, “Sẽ không lố bịch sao nếu sau một vài năm, ông không biết bổn đạo của mình?”. 

Vậy là Chúa Nhật sau đó, ông ra đứng ở cửa nhà thờ sau giờ thờ phượng. Người đầu tiên bước ra là một phụ nữ ăn mặc giản dị, hẳn là một người mới đến đây lần đầu. 

Mục sư lịch thiệp bắt tay và nói, “Chào bà, tôi rất hân hạnh khi bà đến đây cầu nguyện với chúng tôi”.

Người phụ nữ rụt rè thoái thác, “Cám ơn ngài”.

“Hy vọng bà sẽ thường xuyên đến với các nghi lễ của chúng tôi. Bà biết, chúng tôi rất sung sướng khi đón tiếp những khuôn mặt mới”.

“Vâng, thưa ngài”.

“Bà ở trong xứ này chứ?”. 

Người phụ nữ không biết phải nói làm sao.

Vị mục sư nói tiếp, “Nếu bà cho tôi địa chỉ, chiều nào đó, vợ chồng tôi sẽ ghé thăm bà”.

“Không thưa ngài, ngài không cần đi đâu cả, tôi là bà bếp của ngài”.

ڰ

52. Cấp độ bác ái 

Một gã lang thang đến gõ cửa xin bố thí tại văn phòng một ông nhà giàu. Ông nhà giàu bấm chuông gọi người thư ký mà bảo, “Anh có thấy kẻ khốn cùng bất hạnh kia không? Coi kìa, giày lão rách lòi cả ngón chân, quần thì thủng, áo thì sờn. Tôi dám chắc là lão chẳng cạo râu, chẳng tắm rửa, cũng chẳng có một bữa ăn tử tế từ nhiều ngày rồi. Thật đau lòng khi nhìn thấy những con người trong cảnh thảm hại như thế – vậy,  tống cổ lão cho khuất mắt tôi, nhanh lên!”. 

Một người cụt hai tay hai chân ăn xin bên lề đường. Lần đầu tiên trông thấy anh, lương tâm tôi đánh động và tôi phải làm phúc cho anh. Lần thứ hai, tôi cho anh ít hơn. Lần thứ ba, tôi lạnh lùng giao anh cho cảnh sát chỉ vì anh xin ăn nơi công cộng và gây phiền toái.

ڰ 

53. Tội vô tri 

Tại một hang núi trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, một ẩn sĩ đang chiêm niệm chợt mở mắt thì thấy một vị khách bất ngờ đang ngồi trước mặt ông, đó là viện phụ của một đan viện nổi tiếng. 

Ẩn sĩ hỏi, “Ngài tìm kiếm điều gì?”.

Cha đan phụ kể cho ẩn sĩ một chuyện đáng buồn. Đã một thời, đan viện của ngài nổi tiếng khắp thế giới phương tây. Các gian phòng của đan viện đầy những người dự tu và nguyện đường vang vọng lời kinh tiếng hát của các đan sĩ. Rồi những ngày khó khăn đã đến. Người ta không còn lũ lượt đến đây để tìm của ăn tinh thần, nhóm người dự tu cũng khan hiếm; nguyện đường trở nên im ắng. Chỉ còn lại một nhóm ít ỏi mấy đan sĩ với những bổn phận xem ra nặng nề đối với họ.  

Giờ đây, điều mà cha đan phụ muốn biết là “do đâu mà đan viện của tôi lại tụt dốc đến thảm trạng này, có phải do một tội lỗi nào đó của chúng tôi chăng?”.

- Đúng vậy, ẩn sĩ trả lời, đó là “tội vô tri”.

- Vô tri là thế nào? 

“Một trong quý vị là Đức Kitô cải trang mà quý vị chẳng hề nhận ra điều này”. Nói xong, ẩn sĩ nhắm mắt và tiếp tục chiêm niệm. 

Suốt con đường gồ ghề trở về đan viện, lòng cha đan phụ bồi hồi với ý tưởng Chúa Kitô - chính Chúa Kitô – đã trở lại trần gian và đang sống trong đan viện. Làm sao mình lại không nhận ra Ngài? Ai mới thực là Ngài? Thầy làm bếp? Thầy coi phòng thánh? Thầy thủ quỹ? Hay thầy phó bề trên? Không, không đâu: thầy ấy nhiều sai sót lắm. Nhưng vị ẩn sĩ đã bảo Ngài cải trang mà? Làm sao Ngài lại cải trang thành một con người đầy sai sót như thế? Thử nghĩ xem, trong đan viện này có ai là không có khuyết điểm; vậy mà một trong những con người này lại là Chúa Kitô! 

Về tới đan viện, ngài liền họp các đan sĩ, kể lại những gì mình khám phá. Mọi người nhìn nhau nghi ngại. Chúa Kitô? Ở đây? Không thể tin được! Nhưng giả thiết Ngài giả trang ở đây, thì cũng có thể. Vậy có thể là người này người nọ, hay vị nào đằng kia? Hoặc là... 

Một điều chắc chắn là nếu Chúa Kitô cải dạng giữa họ thì xem ra không tài nào họ nhận ra Ngài được. Vậy là họ bắt đầu trân trọng và quan tâm đến nhau. Mỗi khi có việc với nhau họ tự nhủ: “Không chừng là Ngài đây”. 

Kết quả là bầu khí đan viện trở nên rộn rã ngập tràn niềm vui. Chẳng bao lâu, hàng tá người dự tu đến xin nhập dòng và một lần nữa, nguyện đường lại ngân vang lời ca tiếng hát với sự thánh thiện và niềm vui của các đan sĩ rạng ngời yêu thương. 

Ích gì cho đôi mắt khi con tim mù loà? 

ڰ 

54. Khám phá 

Một tù nhân trải qua nhiều năm trong một nhà giam cô quạnh. Anh không gặp người nào và cũng chẳng chuyện trò với ai; các phần ăn của anh được chuyển vào qua một cái lỗ. 

Ngày kia, một con kiến bò vào xà lim của anh. Người tù nhìn ngắm say sưa một con kiến bò quanh căn phòng. Anh bắt nó lên lòng bàn tay để quan sát rõ hơn, cho nó một hoặc hai hạt cơm, và đêm đến, anh nhốt nó dưới cái ly nhôm của mình. 

Ngày kia, anh sửng sốt khi biết rằng, phải mất những mười năm trong nhà tù cô quạnh này anh mới khám phá ra vẻ đáng yêu của một con kiến. 

Một chiều mùa xuân thật đẹp, có người bạn ghé thăm El Greco, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, anh thấy hoạ sĩ ngồi trong phòng, rèm buông. 

Anh nói, “Hãy ra ngoài với ánh nắng”.

“Không phải bây giờ, El Greco trả lời, vì sẽ quấy rầy ánh nắng đang dọi trong tôi”. 

ڰ 

55. Thấy những gì cần 

Một kinh sư mù loà, không thể đọc cũng như nhìn thấy những người đến thăm. 

Một thầy thuốc nói với ông, “Ngài hãy phó mặc cho sự chăm sóc của tôi, tôi sẽ chữa ngài khỏi cảnh mù loà”. 

Vị kinh sư đáp, “Không cần phải thế, tôi có thể thấy những gì tôi cần”. 

Không phải mọi người nhắm mắt đều ngủ, và cũng không phải ai mở mắt đều có thể nhìn thấy”.

 

VỀ MỤC LỤC
Linh mục giáo phận sống Hy tế Thập Giá 

 

BẢN THẢO

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI 

2011-2012

 

CHƯƠNG MỘT:

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

C. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN (tiếp theo)

 

C.7. Linh mục giáo phận sống Hy tế Thập Giá 

Mẹ của thánh Gioan Bosco đã nói với ngài khi ngài mới chịu chức linh mục: “Khi con bắt đầu bước lên bàn thánh tế lễ là con bắt đầu con đường thập giá.” Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta vác thập giá mà theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá của mình mà theo…”[243] Linh mục, Thánh Thể và Thánh giá luôn liên kết chặt chẻ với nhau. Linh mục đứng giữa bàn thờ và thánh giá: Thánh lễ tái hiện hy tế thập giá. Cùng với Chúa Giêsu, linh mục vừa là tư tế vừa là của lễ. Cuộc sống và sứ vụ mục vụ của linh mục giáo phận tìm được sức mạnh tình yêu từ Thánh Thể và thập giá Chúa Giêsu, vì chính từ thập giá mà tình yêu lớn nhất đã được bộc lộ: Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người đã chết cho người mình yêu.”[244]  

Là linh mục giáo phận, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt rảo qua con đường thập giá này. Mỗi ngày chúng ta dấn sâu vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của hy tế, dù lắm khi thập giá trong đời sống mục vụ giáo xứ dường như quá nặng và chúng ta muốn qụy ngã. Nhưng mầu nhiệm thập giá không được hoàn tất bởi cái chết, song bởi đời sống mới của sự sống lại. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội hầu như luôn luôn bước đi trên con đường hy tế thập giá này. Nhiều nhà truyền giáo đã tiến bước suốt nhiều năm hướng về Golgotha, vác lấy thập giá hy sinh và bách hại. Nhiều người trong chúng ta cũng đã hay đang trèo lên con đường dốc đứng đó, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, và vẫn tiếp tục vác thập giá mà đi. Con đường thập giá của linh mục giáo phận vẫn kéo dài mãi. Những người bách hại còn đó hay đã qua đi, hoặc đã thay đổi, nhưng thập giá vẫn không thay đổi và vẫn đè nặng trên vai chúng ta. Lắm lần chúng ta dường như bị oằn xuống dưới sức nặng của thập giá. Ngày xưa ông Simon đã giúp Chúa Giêsu vác thập giá, thì ngày nay chính Chúa chịu đóng đinh và sống lại đang đồng hành giúp chúng ta vác thập giá của chúng ta. Đau khổ của chúng ta là đau khổ của Ngài, hy tế của chúng ta là hy tế của Ngài. Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối, những thất bại, những cảm giác ngã lòng, những mệt mỏi, lo sợ và cô đơn của chúng ta, vì chính Ngài cũng đã trải nghiệm những khó khăn này. 

Đường thập giá của Chúa Giêsu đã là con đường đầu tiên, nhưng không phải là con đường cuối cùng, vì còn có chúng ta và bao nhiêu tâm hồn tận hiến đang bước theo Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá. Giáo Hội đã không quên con đường thập giá. Giáo Hội không bao giờ che giấu thập giá. Thập giá vẫn luôn có mặt trong Phụng vụ: Giáo Hội tán dương và suy tôn thập giá. Thập giá không chỉ là gánh nặng, nhưng phải được xem là cây gậy nâng đỡ trọng trách mục vụ, bệnh tật hay tuổi già sức yếu của chúng ta. Cuộc sống linh mục giáo phận càng cắm rễ sâu vào thập giá càng sinh nhiều hoa quả. Vào mọi thời và ở mọi nơi, bao nhiêu người vẫn không ngừng hăm hở đến với thập giá, chiêm ngắm thập giá, yêu mến thập giá. 

Đường thập giá là trường dạy chúng ta sống ơn gọi và sứ vụ mục vụ của chúng ta, theo gương Chúa Giêsu ngã xuống rồi lại chỗi dậy tiếp tục đi. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn, chịu hành hạ và lăng nhục, nhưng Ngài luôn tha thứ. Đường thập giá cũng là trường dạy chúng ta sống thánh: Trên con đường thập giá, Mẹ Maria đã đi theo Con Mẹ cho đến tận đỉnh đồi Can vê. Mẹ bước đi trong thinh lặng. Cái nhìn của hai Mẹ Con bắt gặp nhau; hai Mẹ Con nhìn nhau tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết hiệp với nhau bởi tình yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. Tình yêu này sẽ làm thế giới thay đổi.  

Xin cho chúng ta được thấm nhuần tình yêu của Chúa và tình yêu của Mẹ Chúa, cũng là mẹ của chúng ta. Mẹ đã đứng kề thập giá Chúa Giêsu, Mẹ cũng luôn đứng kề thập giá cuộc đời và sứ vụ linh mục giáo phận của chúng ta. Chúng ta hình dung dường như đang đứng ở trên đỉnh đồi Golgotha, dưới chân thập giá, nơi đã và đang mãi mãi tập trung sức mạnh lớn nhất của thế giới: tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới trong con người của Con Ngài, Chúa Giêsu Kitô.[245] Tình yêu này của Thiên Chúa không bao giờ cạn kiệt, không bao giờ thôi là sức mạnh cứu độ của thế giới. 

Bằng những lời “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha,” Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha đời sống mình làm hy tế, và hy tế của Ngài đã được chấp nhận. Là linh mục giáo phận, chúng ta cũng trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu. Hy tế của Ngài trên thập giá là một sức mạnh bao la cho thế giới. Sức mạnh đó được gìn giữ trong Giáo Hội bởi Bí tích Thánh Thể, trung tâm tình yêu ở dưới thế gian này. Chúng ta cử hành Thánh Lễ như một sức mạnh không thể cạn kiệt của tình yêu. Chúng ta trèo lên con đường thập giá đến tận đỉnh đồi Golgotha, đến tận Chúa Kitô, một Chúa Kitô toàn thể, vừa với thập giá và mão gai trên đồi Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và chiến thắng phục sinh vinh hiển. Sứ mạng linh mục giáo phận của chúng ta là hướng dẫn những con người phải đau khổ vì đối nghịch và hận thù để họ không quay lưng lại với nhau, nhưng nhìn vào mắt nhau trong sự cảm thông tha thứ hỗ tương. 

Với rất nhiều người trong chúng ta, bao nhiêu thời gian đã qua đi từ ngày chúng ta chịu chức linh mục và bao nhiêu sự đã thay đổi: nhiệm sở, tuổi tác, tình trạng sức khỏe, thử thách, đau khổ... nhưng trong thâm sâu chẳng có gì thay đổi, chúng ta vẫn là linh mục của Chúa và của Giáo Hội, được hướng dẫn bởi đức tin và tình yêu, đồng thời sống sứ vụ ấy với cùng một niềm tín thác. Mẹ Maria đã theo Chúa Giêsu trên đường núi Sọ, xin Mẹ luôn đồng hành với chúng ta. Một người mẹ đã nói với con mình rằng: “Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của Mẹ; dù con có đi tới cùng trời cuối đất, thì lòng Mẹ vẫn hằng theo con.” Chớ gì chúng ta luôn cảm nhận sâu sắc Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta, luôn đứng bên thập giá của chúng ta, che chở bảo vệ và dắt dìu chúng ta:

Hỏi rằng sao trả quá đắt,

Đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu?

Dẫu rằng phải trả quá đắt,

Đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.

 

C.8. Linh mục giáo phận yêu mến Mẹ Maria Vô Nhiễm 

Mẹ Maria hướng dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu, Đấng đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, bởi vì Mẹ là người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài với tư cách là người đồng tham dự vào những biến cố tột đỉnh của lịch sử cứu độ. Mẹ được kêu cầu là Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của linh mục theo một đường lối đặc biệt, vì khi trên thập giá, vào lúc tột đỉnh của sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan và ký thác Gioan cho Mẹ[246]: “Chúng ta cũng hãy đón nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội tâm của chức linh mục chúng ta.[247] Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ nâng đỡ và tăng sức mạnh, chúng ta có thể nhìn thấy mọi mối tương quan, nhất là đối với người nữ, các giai đoạn đời sống và sứ vụ linh mục giáo phận của mình, bằng đôi mắt mới, bằng trái tim và trí não mới, và luôn bước đi trên con đường thánh thiện cần thiết. 

Linh mục giáo phận cần tăng cường lòng sùng kính đích thực đối với Mẹ Maria, vì đó là dấu chỉ và bảo chứng cho lòng trung tín với Chúa Giêsu Kitô. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ trên con đường trần thế của Ngài, bây giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, những Kitô khác. Chúng ta học lắng nghe và thực hành những lời Mẹ đã nói với các môn đệ xưa kia và ngày nay vẫn còn nói với chúng ta: “Hãy làm những gì Người bảo.  

Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã trao phó mỗi linh mục cho Mẹ và mong muốn mọi linh mục đều trao phó chính mình cho Mẹ, hướng về Mẹ với một tình yêu và niềm hy vọng đặc biệt. Bằng kinh nghiệm của mình, Ngài đã viết lên điều ấy trong bức thư gửi các Linh mục. Ngài cầu mong: “Nguyện xin Đức Maria, Đấng mà tôi mời gọi anh em hãy luôn nuôi dưỡng lòng sùng kính con thảo, đồng hành với anh em và liên lỉ che chở anh em.” Đức Benedictô XVI mới đây cũng thôi thúc chúng ta: “Tôi khuyên anh em hãy vào trường Đức Maria để học biết yêu thương và bước theo Chúa Kitô trên hết mọi sự.”  

Thật vậy, trong trường của Mẹ Maria, linh mục giáo phận học đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất trong cuộc đời và sứ vụ, cũng như học hướng tư tưởng cùng hành động của mình theo Ngài. Đúng vậy, nơi trường của Mẹ Maria, chúng ta học biết thinh lặng, biết lắng nghe và phục vụ khiêm tốn, đó là những điểm mấu chốt của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào mối tương quan nhân vị và đích thực hơn với Chúa Giêsu, để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến. Qua việc chiêm ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh nâng đỡ và biến đổi của Bí tích Thánh Thể, tìm lại được niềm an ủi và nguồn sức mạnh để bước theo Chúa Kitô và phục vụ Ngài trong anh chị em.

Liên quan đến đời sống độc thân linh mục đang “bị thế giới của thời đại chúng ta nghi ngờ giá trị và cho là không thể giữ được,” Đức Phaolô VI cậy dựa vào lòng sùng kính nồng nhiệt và tỏa sáng đối với Mẹ Maria. Lòng đạo đức này sẽ mang chúng ta “đến nguồn suối của đời sống thiêng liêng đích thực, mà chỉ nó mới là nền tảng vững chắc cho việc giữ luật độc thân.”[248] Chọn lựa độc thân linh mục của chúng ta cần được đặt nơi trái tim Mẹ Maria để khi gặp khó khăn trên con đường đã chọn, chúng ta chạy đến cùng Mẹ. Là trinh nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất rõ trái tim linh mục chúng ta cần gì, và Mẹ biết làm thế nào để giữ cho chúng ta được trung thành với lời cam kết của mình, nhất là đối với các linh mục giáo phận sống giữa lòng đời hôm nay sao cho “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi Mẹ Maria, người Mẹ trên trời của chúng ta. Mẹ sẽ giúp chúng ta thăng hoa trái tim và con mắt, để nhìn thấy Mẹ ở trong và qua những người con gái của Thiên Chúa chung quanh chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ bảo vệ và biến đổi chúng ta và những người nữ thân thiết với chúng ta, như Thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê “coi các phụ nữ lớn tuổi như mẹ và những người trẻ như chị em.[249]Linh mục sẽ không thiếu sự chở che, nâng đỡ của Mẹ Chúa Giêsu.”[250] Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc thân trong trắng của linh mục như Ngài đã làm cho Mẹ Maria và Thánh Giuse. Vì thế, Đức Phaolô VI đã khuyên nhủ: “Anh em hãy hướng con mắt và trái tim, với niềm tín thác được đổi mới và lòng cậy trông con thảo, về Mẹ rất yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ của Hội Thánh, hãy kêu xin sự cầu bầu vạn năng và hiền mẫu của Mẹ cho chức linh mục Công giáo.”[251] 

Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần chuỗi Mân côi, một bản Phúc Âm tóm tắt.[252] Các anh em linh mục trẻ nên giữ sống động thói quen lần chuỗi Mân côi của các cha già và hãy khuyến khích giáo dân của mình lần chuỗi, một mình khi đi đường tới trường học, tới công sở, ra đồng ruộng, chợ búa… hoặc lần chuỗi chung với người khác, theo nhóm hay hội đoàn trong giáo xứ, đặc biệt là lần chuỗi trong gia đình, vì chuỗi Mân côi sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta được mạnh mẽ hơn trong đức tin, bền vững hơn trong đức ái, kiên trì hơn trong niềm vui và hy vọng. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết bắt chước Mẹ: Fiat (Xin Vâng), luôn chấp nhận không dè giữ với ý muốn và kế hoạch của Chúa; Magnificat (linh hồn tôi ca ngợi), luôn ca ngợi và cảm tạ về mọi ơn lành lớn nhỏ Chúa đã ban cho, và Stabat (Đứng thẳng dưới chân thập giá), luôn sống nhẫn nại và bền đỗ trong những thách đố và khó khăn của cuộc sống hằng ngày cho đến hơi thở cuối cùng.

 

C.9. Linh mục giáo phận sống đức nghèo khó Tin  Mừng

Một số người nhận định tiêu cực về linh mục giáo phận rằng linh mục giáo phận là người có “não trạng tiền bạc,” tìm kiếm sự an toàn vật chất, biểu lộ một “tinh thần thế tục,” “thiếu chiêm niệm,” không phải là “những bậc thầy thiêng liêng,” lại hay “chửi” giáo dân trên toà giảng, độc đoán, pháp trị, quan liêu, thô lỗ và ngay cả ích kỷ. Có lẽ có chút sự thật nào đó trong những lời phàn nàn tiêu cực này, nhưng chắc chắn có nhiều hình ảnh tích cực của bao nhiêu linh mục giáo phận thánh thiện, là những mục tử của đoàn chiên và là những gương mẫu thực sự cho giới trẻ cũng như người già, như cha Gioan Maria Vianney chẳng hạn, nhất là khi đã trải qua các thăng trầm của cuộc sống mà kinh nghiệm được Chúa là Tất Cả.

Thật sự ra rất nhiều cha xứ rất ngại nói đến tiền bạc với giáo dân, nhưng cực lòng buộc phải nói thôi. Chẳng hạn mỗi năm cha xứ phải nhắc đi nhắc lại nào tiền truyền giáo (Ngày truyền giáo), tiền bác ái (Thứ sáu tuần Thánh), tiền ơn gọi (Lễ Chúa chiên Lành). Năm vừa rồi còn phải kêu gọi đóng góp theo đầu người xây dựng trụ sở HĐGMVN. Nghe đâu mỗi Ủy ban Giám Mục trực thuộc HĐGMVN cũng muốn lên kế hoạch kêu gọi giáo dân đóng góp... Rồi lại các công trình của giáo xứ, và những giáo xứ nghèo đến xin, cha xứ đều phải lên tiếng... hầu như không lễ Chúa nhật nào mà cha xứ không nói đến tiền, thật tội nghiệp cho cha xứ và cũng tội nghiệp cho giáo dân... phải nghe mãi điệp khúc ấy và cũng phải mở hầu bao! Biết làm sao bây giờ?!

Ta có thể nói rằng chiều kích nghèo khó Tin Mừng mà Tông huấn Pastores Dabo Vobis coi như là một phần của “tính triệt để Phúc Âm[253] thách thức linh mục giáo phận sống điều ngài rao giảng. Lời khuyên khó nghèo của Phúc âm áp dụng rất nhiều cho linh mục giáo phận, mặc dù ngài không có lời khấn công về vấn đề này. Nếu linh mục giáo phận được kêu gọi trở nên đồng hình đồng dạng mang tính bí tích với Chúa Kitô thì ngài cũng được kêu gọi bước theo dấu chân của Đấng khó nghèo không nơi gối đầu, Đấng “vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.[254]

Trong Pastores Dabo Vobis, Giáo Hội ngỏ lời với các linh mục giáo phận: “Tuy sống giữa thế gian nhưng phải luôn biết rằng mình không thuộc về thế gian,... sử dụng trần gian như không sử dụng, linh mục được tự do, sự tự do giải thoát ngài khỏi mọi lo lắng hỗn loạn và làm cho ngài ngoan ngoãn nghe theo tiếng Chúa trong đời sống hằng ngày. Từ sự tự do và ngoan ngoãn đó sẽ nảy sinh khả năng biện phân thiêng liêng để nhờ đó tìm ra thái độ đúng đắn đối với thế gian và của cải trần thế.”[255] Linh mục giáo phận là người thường xuyên “chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa như là sự thiện hảo tối thượng và duy nhất, như là kho tàng thực sự và cuối cùng,[256] vì thế ngài cũng là người có thể hiểu và thực hành sự khó nghèo, “không phải là khinh chê hay loại bỏ những của cải vật chất, nhưng là sử dụng những của cải này cách có trách nhiệm và yêu thương, đồng thời là khả năng từ bỏ chúng với tự do nội tâm lớn lao, vì Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài.[257]

Tuy nhiên linh mục giáo phận không bị cấm sở hữu tiền bạc và có những sổ tiết kiệm ngân hàng, những tài sản… trong những giới hạn được phép theo Giáo luật vì sự an toàn cần thiết. Một “sự an toàn tài chánh nào đó cần thiết cho các linh mục là những người phục vụ bàn thờ,[258] để họ có thể thi hành tác vụ của họ mà không có sự bận tâm hoặc sao lãng thái quá.”[259] Điều các linh mục giáo phận bị đòi hỏi là tinh thần khó nghèo, sự từ bỏ và lòng bác ái ngay cả trong việc sử dụng tiền bạc cá nhân, như những khách lữ hành không có một nơi ở vĩnh viễn trên trái đất này: “Vì vậy, các linh mục nên có linh đạo của người lữ khách: Sau khi đáp ứng những nhu cầu riêng của mình và trả công xứng đáng cho những người giúp mình, họ nên sử dụng những gì mình có để phục vụ Giáo hội và những công việc bác ái, không có thu góp cho riêng mình, trong niềm xác tín rằng bậc giáo sĩ không phải là một phương thế để cải thiện tình trạng tài chính của riêng mình.[260]

Để trở nên những chứng nhân đáng tin của Phúc âm, các linh mục giáo phận bị đòi hỏi duy trì một đời sống điều độ, đơn giản, “không quyến luyến sự giầu có và bất cứ điều gì có vẻ phù hoa.”[261] Cùng với tinh thần khó nghèo và từ bỏ, các linh mục giáo phận cũng bị đòi hỏi là người quản trị có trách nhiệm những tài sản của giáo xứ, không bao giờ sử dụng chúng cho những mục đích hoàn toàn cá nhân, hay “cho những lợi ích của người thứ ba như thân nhân và bạn bè,[262] nhưng hoàn toàn “để thăng tiến việc thờ phượng và tông đồ, trợ giúp các vị mục tử, và giúp đỡ người thiếu thốn.”[263] Các ngài phải bảo tồn và cập nhật những sổ sách cũng như những tài khoản của giáo xứ, phải minh bạch trong vấn đề tiền bạc và nhờ những giáo dân thông thạo giúp đỡ quản trị tài sản, tài chánh và thiết lập một hội đồng tài chánh trong giáo xứ.

Tuy nhiên, tinh thần khó nghèo không cấm linh mục giáo phận sử dụng những hệ thống bảo hiểm xã hội sẵn có của Xã Hội hoặc của Giáo Hội. Giáo phận nên có những quy định và một khỏan tài chánh cần thiết cho các linh mục giáo phận khi tuổi già (sẽ trình bày trong bài Tương Trợ Linh Mục). Các linh mục giáo phận không nên coi thường sức khoẻ của mình, nhưng nên khám bệnh tổng quát định kỳ và thận trọng tránh những bệnh truyền nhiễm “đặc biệt trong những nơi có những điều kiện vệ sinh kém cỏi.”[264] Các linh mục giáo phận cũng được khuyên viết di chúc, “một nghĩa vụ liên hệ đến đức công bằng và khó nghèo.”[265] Trong di chúc, các ngài được khuyên để lại tài sản của mình cho người nghèo, chứ không phải “cho những người đã giầu có.[266]

Cần nhớ rằng linh mục giáo phận được khuyến khích duy trì những mối liên hệ với gia đình, và thậm chí nâng đỡ gia đình về tài chánh, nếu điều đó đòi hỏi, mà “không đánh mất tự do trong việc thi hành sứ vụ.[267] Các linh mục giáo phận cũng phải lo giáo dục Cộng đoàn tín hữu tinh thần tự lực để họ cung cấp cho các mục tử những nhu cầu cần thiết và cũng sẵn sàng chia sẻ của cải của họ cho người nghèo.

_______

Chú thích

[243] Mt 16,24.         [244] Ga 15,13.               [245] x. Ga 3,16.                  [246] Ga 19, 26-27.

[247] John Paul II, Thư gửi các linh mục Thứ Năm Tuần Thánh 1988, số 6.

[248] Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus, số 1; 75.                                  [249] x. 1 Tm 5,2.

[250] Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus, số 59.                                [251] Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus, số 98a.

[252] x. Paul VI, Marialis Cultus: The Angelus and the Rosary.                   [253] JP II, Pastores Dabo Vobis, số 27.

[254] 2 Cr 8,9.                                [255] JP II, Pastores Dabo Vobis, số 17.

[256] JP II, Pastores Dabo Vobis, số 30.                         [257] Ibidem.                    [258] x. 1 Cr 9,13.

[259] Bộ Truyền Giáo, Hướng Dẫn Mục Vụ, số 28.            [260] Bộ Truyền Giáo, Hướng Dẫn Mục Vụ, số 8.

[261] Ibidem.          [262] Bộ Truyền Giáo, Hướng Dẫn Mục Vụ, số 8.

[263] Ibidem.                          [264] Ibidem.                   [265] Ibidem.                          [266] Ibidem.

[267] Bộ Truyền Giáo, Hướng Dẫn Mục Vụ, số 30.

 

VỀ MỤC LỤC
ĐAU LƯNG

 

Sau  Nhức đầu thì Đau lưng Lower Back Pain là nguyên nhân thứ nhì gây đau cho mọi người, đặc biệt là với người cao tuổi.. Chăm sóc đau lưng cũng là nguồn phí tổn khá cao, có lẽ chỉ sau các bệnh về tim. 

Với nhiều nhà chuyên môn y tế thì Đau Lưng hầu như là một căn bệnh của đời sống gây ra do thói quen bất thường của người bệnh. Vì họ đứng, họ đi, họ nâng nhấc hoặc lôi kéo sự vật nặng không đúng cách, đưa tới nguy cơ tổn thương cho các thành phần của lưng. Khi đã bị một lần thì đau lưng cũng có nguy cơ tái phát.           

Các nhà chuyên môn cũng ước lượng là 80% các trường hợp Đau Lưng có thể phòng ngừa được nếu ta để ý một chút hoặc nếu ta có vài kiến thức căn bản về cột sống. 

Lưng là phần dưới của thân mình gồm có 5 đốt xương sống, các gân, dây chằng, cơ bắp để giữ lưng ngay thẳng. Các đốt xương này chịu đựng sức nặng của phần trên của thân mình, cho nên chúng rất dễ tổn thương.

Từ các đốt sống này xuất phát dây thần kinh não tủy. Giữa các đốt sống là đĩa sụn liên hợp giúp cột sống cử động trơn tru. 

Ðau lưng thường thường gây ra do ba nguyên nhân chính:

- căng cơ bắp-dây chằng trong các hoàn cảnh như mập phì, có thai, người cao tuổi ít vận động, nâng mang vật nặng mà lại dùng sức mạnh của lưng, tư thế không ngay thẳng, nhiều xúc động mạnh…

- thoái hóa đĩa đệm 

- viêm mặt khớp xương.

Ngoài ra, bị chấn thương, u bướu, viêm nhiễm cột sống, nằm ngủ trong vị thế bất thường hoặc nệm quá mềm cũng là nguy cơ gây đau lưng. Nhiều trường hợp phụ nữ với nhũ hoa quá khổ cũng gây ra đau lưng vì lưng chịu một sức nặng ngoài khả năng.

Người cao tuổi thường hay bị đau lưng vì sự thoái hóa cột sống, cơ bắp dây chằng lỏng lẻo, đốt cột sống dễ bị nghiêng vẹo, đè vào dây thần kinh não tủy, gây ra đau. Với các bác, chỉ khom khom di chuyển một chậu cây cảnh hoặc cúi xuống bế đứa cháu nội ngoại cũng dễ dàng ôm lưng nhăn nhó.

Theo các nhà chuyên môn, 80% dân chúng đều bị đau lưng một vài lần nào đó trong cuộc đời. Đau lưng là lý do hàng đầu khiến cho người dưới 45 tuổi phải nghỉ việc.

Đau lưng có thể là cấp tính hoặc kinh niên.

Cấp tính thường kéo dài khoảng 4 tuần lễ còn kinh niên thì liên tục đau, có khi cả dăm ba tháng.

Những cơn đau và cứng khớp thường xảy ra vào buổi sáng sớm và xế chiều. Ban đêm cơn đau khiến người bệnh khó ngủ.

Đau cũng thường thấy ở dưới chân khi đi lại hoặc đứng lâu.

 

Phòng tránh

Phòng ngừa có mục đích tránh các căng dãn không cần thiết cho cơ bắp và cũng để tăng cường sức mạnh cho các bắp thịt hỗ trợ cột sống.

1- Khi mang vật nặng, không nên khom lưng xuống để nhấc vật đó lên, mà ngồi xuống, hai tay ôm cầm vật đó rồi từ từ đứng lên qua sức mạnh của đầu gối, như vậy tránh được sự tổn thương cho lưng.

2- Khi vật nặng nằm ở trên bàn, ta có thể ôm vào bụng hay quay lưng ôm đồ vật vào lưng để mang đi.

3- Đừng đi giầy gót quá cao, làm xương sống xiêu vẹo, yếu.

4- Giữ dáng điệu ngay ngắn.

5- Khi đứng, bụng thót phẳng , hướng xương chậu về phía sau sẽ giúp phần dưới của cột sống vững hơn. Nếu cần đứng lâu thì đặt một chân lên vật cao khoảng hai tấc để ngả xương chậu về phía sau.

6- Ngồi lâu đều gây nhiều khó chịu cho lưng. Vì thế lâu lâu nên đứng dậy, đi qua đi lại, thư dãn xương lưng. Tránh ngồi trên nệm ghế quá mềm.

7- Nệm xe đều gây đau lưng khi ngồi quá lâu. Nên lót lưng với một cái gối nhỏ và để tay trên vật tựa; kéo ghế gần về phía trước để đầu gối cao bằng hông.

8- Nên ngủ trên nệm cứng; nằm nghiêng, đầu gối co thước thợ hoặc khi nằm ngửa thì lót gối dưới khuỷu chân. Gối cao vừa phải để đầu và mình ngang bằng;

9- Khi cần coi tivi hoặc đọc sách lâu, nên nằm để tránh căng cho xương sống.

10- Quần áo không nên quá bó sát vào người để cơ bắp, xương khớp không bị gò bó..

11- Tập thể dục với các cử động làm thư giãn khớp xương và bắp thịt, tăng cường sức mạnh cho bắp thịt, dây chằng ở lưng.

12- Buổi sáng ngủ dậy, trước khi bước ra khỏi giường nên tập các cử động vẹo người qua lại để thư giãn lưng. Lý do là sau bẩy giờ nằm ngủ, xương khớp, bắp thịt cứng lại, nếu đứng dậy ngay có thể té ngã, gây tổn thương cho lưng và các phần khác của cơ thể.

13- Không hút thuốc lá vì nicotine làm giảm máu lưu thông tới lưng khiến cơ khớp yếu.

14- Giảm cân nếu quá mập, vì mập phì làm mô mềm ở lưng căng cương. Hai phần ba người bị đau lưng kinh niên đều bị béo phì.

 

Vài cử động để thư dãn cột sống

1- Ðứng thẳng, hai bàn chân xa ngang thân người, úp hai bàn tay lên ngang lưng. Ðầu gối ngay thẳng, ưỡn lưng về phía sau càng xa càng tốt. Giữ nguyên vị trí trong vài ba giây rồi trở lại dáng điệu bình thường. Làm cùng động tác năm lần.

2- Ðứng ngay thẳng, tựa hai tay lên phía sau của thành ghế. Ðầu gối thẳng, dơ một chân về phía sau càng cao càng tốt. Hạ chân xuống từ từ và làm cùng động tác với chân kia. Làm năm động tác liên tiếp cho mỗi chân.

3- Nằm sấp, hai chân duỗi thẳng, khuỷu tay gấp, hai bàn tay úp xuống sàn. Dùng hai tay đẩy thân mình lên càng cao càng tốt, mông và chân vẫn phẳng dưới sàn. Nhắc lại cùng động tác 10 lần.

4- Nằm ngửa, đầu gối gập lại, hai bàn chân để dưới đất. Từ từ nhấc đầu và vai khỏi sàn, hướng hai bàn tay về phía đầu gối, giữ vị trí trong mười nhip đếm rồi nằm thẳng mình trở lại. Nhắc lại cùng cử đông năm lần.

5- Nằm sấp, chân tay đụng mặt bằng. Nâng cao một chân, đếm từ 1 đến 10 rồi hạ chân xuống. Nhắc lại cùng cử động với chân kia. Làm 5 lần mỗi chân.

Bác sĩ Nguyển Ý Đức

Texas- Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com 

 
VỀ MỤC LỤC
BÀI HỌC CỦA NƯỚC

  

Mục Sống Sao Cho Đẹp xin mượn Bài học của nước được viết bởi một tác giả ẩn danh; qua bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi về đức khiêm tốn trong đời thường.

* * *

“Nước dạy chúng ta phải biết sống làm sao…

Nước chảy đến đâu thì đem sự sống đến đó và phân chia cho hết mọi người, mọi vật cần đến nó. Nước tốt lành và vô vị lợi.

Nước hiểu biết cái gì không bằng phẳng của đất đai, nên nó san bằng tất cả. Nước công bằng.

Khi chảy xuống thấp nước không lưỡng lự dựa vào vách đá cheo leo. Nước khiêm tốn.

Mặt nước thì nhẵn nhụi phẳng phiu nhưng nó cũng có thể tạo thành vực sâu ẩn kín. Nước khôn ngoan.

Nếu nước gặp tảng đá chắn lối, thì nó chảy vòng quanh đá tảng. Nước biết nhịn nhục.

Sức mạnh của nước hoạt động ngày đêm để chiến thắng chướng ngại. Nước kiên trì.

Dù có phải chịu biết bao sóng gió đi nữa, nhưng không bao giờ, không một giây phút nào, nước đánh mất đi hướng đi vĩnh cửu của nó là chảy ra biển khơi: nó ý thức về đích tới của mình. Và cho dù thường khi có vẩn đục đi nữa, nó luôn cố gắng trong sạch trở lại. Nước có sức mạnh luôn canh tân chính mình.

* * *

Nước đã tạo nên một hình ảnh sống động và trung thực đến nổi nó trở thành sức mạnh cho nhiều người, đặc biệt khi họ gặp sóng gió trong cuộc đời. Cụ thể, hình ảnh của nước,“Thuỷ tự hạ” đã giúp linh mục Tađêô Nguyễn văn Lý suy niệm và nó đã trở thành câu châm ngôn sống của ông trong những năm tháng tù đày. Vậy, chúng ta cùng nhau phân tích câu văn của tác giả ẩn danh trong Bài học của nước, “Khi chảy xuống thấp nước không lưỡng lự dựa vào vách đá cheo leo.”

Vâng, có những lúc trong cuộc đời đã thực sự “xuống thấp.” Sự “xuống thấp” ở đây cũng có thể là bị vùi dập vì tình hình chính trị, nước mất nhà tan; sự “xuống thấp” ở đây cũng có thể là bị hiểu lầm trong gia đình, người thân, cộng đoàn; sự “xuống thấp” ở đây cũng có thể do sự yếu đuối của thân phận con người làm ta vấp ngã trong đời sống nội tâm mà không thể tự mình thoát ra khỏi vòng tội lỗi được. Ít hay nhiều, chúng ta phần nào cũng đã trải qua và sẽ tiếp tục cảm nghiệm bị rơi vào tình trạng “xuống thấp.” Nước dạy cho chúng ta rằng, “đừng lưỡng lự dựa vào vách đá cheo leo” khi ta bị xô đẩy xuống thấp. Trong bài này, mục Sống Sao Cho Đẹp xin đưa một ví dụ điển hình để minh hoạ cho tình trạng bị “xuống thấp.”

* * *

Thật khâm phục biết bao khi nhiều bậc cha anh đến Hoa Kỳ vào những thập niên 1980 đến 1990. Phần lớn trong số những người này, họ là thần phần ưu tứu của Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã từng là những vị tướng lãnh, viên chức chính trị cao cấp, giáo sư, kỹ sư có học vị và địa vị. Thế nhưng, đâu có ai ngờ chính họ là người đã bị dồn vào thế phải “xuống thấp.” Không những bị dồn vào thế, mà chính mạng sống của họ cũng bị lâm nguy trong các trại cải tạo và nhà tù của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam. Rất nhiều vị anh hùng đã ra đi trong tình trạng bị “xuống thấp” này. Một số những người còn sống sót, họ được định cư tại Hoa Kỳ theo nhiều diện khác nhau, thế nhưng cuộc đời của học tiếp tục là bị rơi vào thế phải “xuống thấp.” Điều đáng hãnh diện cho cho con cháu của họ nói riêng và người Việt Nam nói chung, chính là khi họ bị đẩy vào xuống chỗ thấp, cũng như dòng nước, họ đã không ngần ngại dựa vào “vách đã cheo leo” để ẩn mình, để bám dữ lý tưởng, để tiếp tục cầm cự cho con cháu, cho thế hệ mai sau. Chính vì thái độ không “lưỡng lự dựa vào vách đá cheo leo này” họ đã dấn thân làm mọi công việc dù tầm thường nhưng chân chính, như rửa chén, bồi bàn, lau chùi nhà vệ sinh,…Có đau xót không khi nhà mất nước tan? Có ưu phiền không khi gia đình chia lìa, vợ chồng xa cách, con cái mất tin? Có uất ức không khi thanh bại danh liệt nơi xứ người? Có, và rất rất nhiều; rất nhiều đau xót, rất nhiều uất ức, rất nhiều ưu phiền. Thực như thế, những nỗi đau ấy tiếp tục quặn xé trong con tim của họ từng ngày từng giờ khi họ phải âm thầm khiêm tốn làm những công việc ở những môi trường ngôn ngữ không hiểu, văn hoá không quen, và với con người không thân.

Ôi những bậc cha anh đã chiến bại trong chiến trường nhưng đã chiến thắng trong đời thường! Họ đã giữ vững niềm tin; họ đã và vẫn nuôi hy vọng cho tự do, cho dân chủ bằng sự dấn thân không phải chỉ đã đổ máu trong chiến trận, mà còn nước mắt và một sự bỏ mình không ngơi nghỉ trong các nhà hàng, chợ búa, công xưởng; họ chấp nhận xuống chỗ thấp nhất để chỉ vì lý tưởng và niềm tin cho Việt Nam. Họ xuống thật thấp để con em của họ - thế hệ Việt Nam hai và ba - ngẫng cao đầu. Khi con thuyền bị giông tố vùi dập, nhiệm vụ chính yếu của thuyền trưởng là giữ vững con thuyền được bằng an, chờ trời quang mây tận, lúc ấy mới định hướng đi. Thật đáng khâm phục và hãnh diện về những thuyền trưởng Việt Nam!

* * *

Bạn thân mến, sức mạnh của nước là chỗ đó. Sức mạnh của sự khiêm tốn là chỗ đó. Như thế, khiêm tốn không phải là thua cuộc, nhưng là biết nhìn nhận tình trạng con người thật của mình, trong hoàn cảnh thật của mình, và sống đúng phẩm chất thật của mình.

Chúng ta cầu chúc nhau sống khiêm tốn và tiếp tục khám phá sức mạnh của khiêm tốn – Đừng ngại “lưỡng lực dựa vào vách đá cheo leo” khi phải “xuống thấp.”

Br. Huynhquảng


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************