Ơn Gọi Làm Tông Ðồ Giáo
Dân |
Thánh Công Ðồng Chung
Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương I:
Ơn Gọi Làm Tông Ðồ Giáo
Dân
2. Giáo dân
tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh là để
làm cho nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa
Cha: tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc tội và cứu rỗi
1, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được qui
hướng về Chúa Kitô. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể hướng về mục đích này gọi là
việc tông đồ, công việc mà Giáo Hội thực hiện nhờ tất cả các chi thể, tùy theo
những cách thức khác nhau. Thật ra ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn
gọi làm tông đồ. Cũng như toàn bộ một cơ thể sống động,
2* không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng
cũng tham dự vào đời sống và công việc của toàn thân. Cũng thế, trong Nhiệm Thể
Chúa Kitô tức Giáo Hội, toàn thân tùy theo công dụng khả năng từng phần tử khiến
thân thể này gắn bó và liên kết chặt chẽ với nhau (x. Eph 4,16), đến nỗi chi thể
nào không hoạt động đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị
coi là vô dụng đối với Giáo Hội cũng như với chính mình.
Trong Giáo Hội có nhiều tác vụ khác nhau
nhưng đều cùng chung một sứ mệnh. Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông Ðồ và những
người kế vị các ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh
hóa và cai quản. Còn phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ tư tế,
tiên tri và vương đế của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ
mệnh của toàn dân. Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian
2. Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công
việc của mình để rao giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm
thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc
của họ thuộc lãnh vực này làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc
cứu độ nhân loại. Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và
làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần
Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.
3. Nền tảng
của việc tông đồ giáo dân. Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông
đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Ðầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm
việc tông đồ, vì phép Rửa Tội sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép Thêm Sức
làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Họ được thánh hiến
vào chức vụ tư tế vương giả và dân tộc thánh (x. 1P 2,2-10), hầu trong mọi việc
họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn
cầu. Ðàng khác, đức ái như là linh hồn của tất cả việc tông đồ, được chuyển
thông và nuôi dưỡng nhờ các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể
3.
Việc tông đồ được thực thi nhờ đức tin,
đức cậy, đức ái 3*, là những nhân đức mà Chúa
Thánh Thần đổ đầy tâm hồn mọi phần tử của Giáo Hội. Lại nữa, nhờ giới răn tình
yêu, giới răn cao thượng nhất của Chúa, mọi tín hữu được thúc đẩy để tìm vinh
danh Thiên Chúa bằng cách làm cho nước Ngài trị đến và mưu tìm sự sống đời đời
cho mọi người để họ nhận biết một Thiên Chúa chân thật và Ðấng Ngài đã sai đến
là Chúa Giêsu Kitô (x. Gio 17,3).
Vì vậy hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất
cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc
Âm cứu độ của Chúa.
Ðể thể hiện việc tông đồ này, Chúa Thánh
Thần thánh hóa dân Chúa qua tác vụ và các bí tích. Ngài cũng ban cho các tín hữu
những ơn đặc biệt (x. 1Cor 12,7), "phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý
Ngài" (1Cor 12,11) để "mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau" và chính
họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa" (1P
4,10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Eph 4,16). Do sự đón nhận những
đoàn sủng này dẫu là những đoàn sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và
bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian để mưu ích
cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Chúa Thánh Thần, Ðấng "muốn
thổi đâu thì thổi" (Gio 3,8) và đồng thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em
trong Chúa Kitô, nhất là với các bản tính đích thực và việc sử dụng thích hợp
những đoàn sủng đó, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để thử nghiệm mọi
việc và điều nào tốt thì giữ lấy (x. 1Th 5,12; 19,21) 4.
4. Ðường lối
tu đức của người giáo dân hướng đến việc tông đồ. Vì Chúa Kitô,
Ðấng được Chúa Cha sai đến, là nguồn mạch nguyên ủy của mọi việc tông đồ trong
Giáo Hội, nên hiển nhiên là kết quả phong phú của việc tông đồ giáo dân tùy
thuộc ở sự kết hiệp sống động của chính họ với Chúa Kitô, Ðấng phán rằng: "Ai ở
trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, như vậy mới sinh được nhiều hoa trái vì ngoài
Thầy ra các con chẳng làm gì được" (Gio 15,5). Ðời sống kết hiệp mật thiết với
Chúa Kitô trong Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng sự phù giúp thiêng liêng chung cho
mọi tín hữu, nhất là bằng việc tham dự tích cực vào Phụng Vụ
5. Người giáo dân phải làm thế nào để nhờ những
phương tiện ấy mà chu toàn nhiệm vụ trần thế trong những hoàn cảnh thường xuyên
của cuộc sống mà vẫn không tách khỏi đời sống mình sự kết hiệp với Chúa Kitô,
nhưng càng kết hiệp mật thiết hơn chính khi thi hành công việc của mình theo ý
Thiên Chúa. Bằng phương thức này, những người giáo dân phải hăng hái và vui vẻ
tiến bước trên đường thánh thiện, với sự khôn ngoan và nhẫn nại, họ cố gắng
thắng vượt những khó khăn 6. Những việc trong
gia đình cũng như những việc ngoài xã hội không được tách rời khỏi động lực siêu
nhiên của cuộc sống, theo lời Thánh Tông Ðồ: "Hết thảy công việc anh em làm
trong lời nói hay việc làm, hãy nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà thực hành, nhờ
Người để cảm tạ Chúa Cha là Thiên Chúa" (Col 3,17).
Ðời sống như thế đòi hỏi việc thực hành
liên tục đức tin, đức cậy và đức ái 4*.
Chỉ nhờ ánh sáng đức tin và nhờ suy niệm
lời Chúa mỗi người mới có thể nhận ra Chúa trong mọi nơi và mọi lúc, vì trong
Ngài "ta sống, ta hoạt động, ta hiện hữu" (CvTđ 17,28). Tìm ý Chúa trong mọi
biến cố, thấy Chúa Kitô trong mọi người, dù là kẻ thân hay người lạ, phê phán
đúng đắn về ý nghĩa đích thực và giá trị của sự vật trần thế, xét nơi chính nó
và xét theo tương quan với cứu cánh của con người.
Những người có đức tin này, trong khi
tưởng niệm Thánh Giá và sự Phục Sinh Chúa, họ sống trong niềm hy vọng mạc khải
của con cái Thiên Chúa.
Trong lúc đời sống lữ hành này, họ được
giấu ẩn trong Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô và được giải thoát khỏi nô lệ của
cải trần thế, đang khi họ tìm kiếm của cải tồn tại vĩnh viễn, với lòng quảng đại
họ sẽ hoàn toàn hiến mình để mở rộng nước Thiên Chúa và đem tinh thần Phúc Âm
thấm nhập và cải tạo lãnh vực thực tại trần thế. Giữa những cơn thử thánh đời
này họ tìm thấy sức mạnh trong niềm hy vọng vì họ nghĩ rằng: "Những đau khổ hiện
thời chẳng thấm vào đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được giải bày cho chúng ta"
(Rm 8,18).
Lòng yêu thương phát xuất từ Thiên Chúa
thúc đẩy họ làm việc thiện cho hết mọi người, nhất là cho những người có cùng
một niềm tin (x. Gal 6,10), từ bỏ "mọi gian ác, mọi lường gạt, giả trá, lòng
ghen ghét và mọi lời nói hành" (1P 2,1) và như vậy họ lôi kéo mọi người đến với
Chúa Kitô. Hơn nữa tình yêu của Chúa "giải khắp lòng ta do Chúa Thánh Thần đã
ban cho ta" (Rm 5,5) làm cho giáo dân có sức biểu lộ thực sự trong đời sống mình
tinh thần các mối Phúc Thật. Theo Chúa Giêsu khó nghèo, họ không tuyệt vọng khi
thiếu thốn, cũng không kiêu căng khi dư dật. Bắt chước Chúa Kitô khiêm hạ, họ
không háo danh (x. Gal 5,26) nhưng chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn làm đẹp
lòng người ta. Họ luôn sẵn sàng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô (x. Lc 14,26), và chịu
bách hại vì sự công chính (x. Mt 5,10) vì nhớ lời Chúa: "Nếu ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" (Mt 16,24). Sống với nhau trong
tình thân hữu của Chúa Kitô, họ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần thiết.
Nguyên lý đời sống thiêng liêng của mỗi
người giáo dân phải mang sắc thái đặc biệt tùy theo bậc sống: đời sống hôn nhân
và đời sống gia đình, đời sống độc thân hay góa bụa, trong tình trạng đau yếu,
tùy sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội. Vậy mỗi người phải phát triển không ngừng
những đức tính và tài năng ban cho mình, thích ứng với hoàn cảnh của mỗi đời
sống, và biết lợi dụng những ơn huệ Chúa Thánh Thần ban riêng.
Ngoài ra, giáo dân theo ơn gọi của mình,
gia nhập vào một trong những hiệp hội hay tu hội được Giáo Hội nhìn nhận, họ
cũng cố gắng trung thành thể hiện những đặc tính của đời sống thiêng liêng đó.
Họ cũng nên kính trọng nghề nghiệp chuyên
môn, ý nghĩa gia đình và ý nghĩa công dân cũng như những đức tính liên quan tới
đời sống xã hội, chẳng hạn sự liêm khiết, tinh thần công bình, lòng thành thực,
lòng nhân hậu, lòng quả cảm; không có những đức tính đó, không thể có đời sống
Kitô hữu đích thực.
Gương mẫu hoàn hảo của đời sống thiêng
liêng và đời sống tông đồ ấy chính là Ðức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, Nữ Vương các
Tông Ðồ: khi sống ở trần gian. người đã sống cuộc đời như mọi người, vất vả lo
lắng cho gia đình, nhưng luôn luôn kết hợp mật thiết với Con mình và đã cộng tác
vào công việc của Ðấng Cứu Thế một cách riêng biệt; còn bây giờ, sau khi đã được
đưa lên trời, "với tình yêu thương của người mẹ, Người săn sóc những đứa em của
Con Mẹ, đang trên đường lữ hành, gặp nhiều nguy hiểm và thử thách, Người lo lắng
cho tới khi họ về tới quê hương hạnh phúc" 7.
Mọi người hãy hết lòng tôn sùng Mẹ và phó thác đời sống và cả việc tông đồ của
mình cho Mẹ coi sóc.
(còn tiếp nhiều kỳ)
Chú Thích:
1 Xem
Piô XI, Tđ Rerum Ecclesiae: AAS (1926), trg 65.
2* Là
nhiệm thể của Chúa Kitô, Ðấng vừa là Linh Mục, vừa là Vua, vừa là ngôn Sứ. Giáo
Hội trở thành một cộng đồng tư tế, vương giả và ngôn sứ. Trong đó, có chức linh
mục cộng đồng và chức linh mục thừa tác. Chức linh mục thừa tác được dành riêng
cho hàng giáo phẩm và cho các ngài quyền tham dự vào chức linh mục của Chúa Kitô
trong chức thánh.
Gọi là chức linh mục cộng đồng vì tất cả
các tín hữu (giáo dân hay giáo sĩ thuộc hàng giáo phẩm) đều được tham dự vào nhờ
phép Rửa Tội. Sự tham dự này cho mọi tín hữu khả năng tự mình dâng lên Chúa lễ
tế Thánh Thể, nhờ tay linh mục thừa tác cũng như họ có thể kết hợp với lễ vật hy
sinh là Chúa Kitô trong khi rước lễ, và như vậy được dâng chính mình lên như lễ
thiêng liêng cho Thiên Chúa. Các tín hữu cũng tham dự quyền vương giả của Chúa
Kitô nhờ phép Rửa Tội và Thêm Sức. Quyền vương giả cho họ sức mạnh tinh thần để
chế ngự bản tính riêng của họ, bắt nó tùng phục quyền bính Thiên Chúa để chinh
phục mọi người cho Nước Trời và chiếu sáng tinh thần Phúc Âm trong lãnh vực trần
thế.
Sau cùng, các tín hữu cũng tham dự quyền
ngôn sứ. Mọi tín hữu có quyền làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời nói và bằng chính
đời sống Kitô hữu.
2 Xem
CÐ Vat. II. Hiến Chế tín lý về Giáo Hội số 31: AAS 57 (1965), trg 37.
3 Xem
n.v.t. số 33, trg 39; x. thêm số 10, trg 14.
3* Ðối
với giáo dân, việc tông đồ là bổn phận thiết thực phát sinh do đòi hỏi ơn gọi
Kitô hữu. Bổn phận tông đồ này không tùy thuộc những hoàn cảnh như thiếu linh
mục hay tình trạng xã hội đang mất đạo, mặc dầu những hoàn cảnh đó có thể khiến
cho hoạt động tông đồ giáo dân khẩn thiết hơn.
Ơn gọi làm tông đồ phát sinh từ bí tích
Tửa Tội và Thêm Sức; và do đức ái mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong tâm hồn, các
tín hữu được thúc đẩy giúp mọi người tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa.
Ðể thực thi việc tông đồ này, người tín
hữu dựa vào ân sủng của các bí tích mà họ đã lãnh nhận cũng như vào các đoàn
sủng ban cho mỗi người, vì mưu ích cho toàn thể Giáo Hội. Các đoàn sủng có thể
là khác thường như ơn nói tiếng lạ hay ơn nói tiên tri, hoặc thông thường như sự
trực giác các chân lý của Chúa hay tài năng khôn ngoan để hướng dẫn các linh
hồn.
4 Xem
n.v.t. số 12, trg 16.
5 Xem
CÐ Vat. Vat. II Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh ch I số 11: AAS 56 (1964) trg
102-103.
6 Xem
CÐ Vat. II Hiến Chế tín lý về Giáo Hội số 32: AAS 57 (1965) trg 38: x. thêm số
40-41, trg 45-47.
4* Ở
đây, Sắc Lệnh đã đưa ra những nguyên tắc để huấn luyện đời sống tinh thần và cá
nhân của các giáo dân làm việc tông đồ:
- Hiệp nhất với Chúa Kitô, nguồn mạch và
nguyên nhân việc tông đồ của Giáo Hội; thánh hóa đời sống gia đình: thánh hóa
những lo âu trần thế hay phàm tục. Mọi sự đều có giá trị riêng của nó và đời
sống đạo đức của giáo dân đời họ không được khinh chê những thứ đó.
- Suy gẫm lời Chúa và bác ái với tha nhân
là những nhân đức sẽ đem lại kết quả phong phú cho việc tông đồ giáo dân.
- Ngoài những nhân đức chung nói trên,
phải thêm nhưng nhân đức riêng biệt do hoàn cảnh sống của mỗi người: đời sống vợ
chồng gia đình, độc thân hay góa bụa, tình trạng ốm đau...
7 Xem
n.v.t. số 62, trg 63; x. thêm số 65, trg 64-65.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI BAN SỰ SỐNG
|
(Suy niệm Tin
Mừng Gioan (6, 60-69) trích đọc vào Chúa Nhật 21 thường niên)
Bảo rằng
lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con
người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng
nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng
thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con
người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu
quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời
tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có
những lời đem lại sự sống đời đời” là những lời khó
thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió rồi
mất hút trong không gian, chứ có phải là lương thực, là thuốc
men đâu mà đem lại sự sống đời đời.
Tuy nhiên,
Lời Thiên Chúa thực sự là những Lời quyền năng, có sức sáng tạo
và mang lại sự sống cho muôn vật muôn loài.
Thiên Chúa dùng Lời để tác
tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên
thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời để
tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn
vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống
của loài người đều do Lời Chúa tác thành.
Sáng thế ký
chương I viết:
Thiên Chúa
phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, ...
liền có như vậy.”
Thiên Chúa
phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc,
loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa
phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta,
giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người
đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Sáng Thế 1,
20.24.26)
Lời Chúa có sức mạnh vạn
năng
Khi xuống thế
làm người, Chúa Giê-su cũng đã dùng lời quyền năng của Người mà
trục xuất ma quỷ ra khỏi những người bị ám hại (Mc 5,8), khiến
cho bão tố dữ dội phải lặng yên (Mác cô 4, 39)…
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Chúa Giê-su
cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những
người đã chết.
Hôm ấy, khi
Chúa Giê-su thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một
bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc
thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng
lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh
niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy"
(Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt
La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa
Giê-su cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. Chúa
truyền phán: "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời
quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ
ràng là Chúa Giê-su có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không
chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống
vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại
Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su khẳng định Người chính là
Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời
đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp
nhận và lần lượt bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững
tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Gioan
6, 68)
Nếu hôm nay
trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều
người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa
Giê-su tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho
nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng
với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin :
"Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ
Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng,
chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa
kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta
được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CHÚA VÀ CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình
một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn
Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng
sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời
Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư
Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina
Lecdiv@gmail.com để
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".
Đan viện Xitô Thánh Mẫu
Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai
trung thành thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh,
O.Cist fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ
THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ
mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à
l’homme?
Chương 4:
LỜI CHÚA VÀ CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO
Từ Thiên
Chúa giải thoát hay Thiên Chúa tác tạo
Trong lịch sử mạc khải Kinh Thánh, ban đầu, Thiên Chúa đã được
hiểu và khẩn cầu như vị “Thiên Chúa của cha ông chúng tôi”,
vị Chúa của một chi tộc, nhất là sau cuộc xuất hành, như vị Chúa
cứu tinh, Đấng giải thóat dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ và ký kết
giao ước với dân tộc ấy.
Niềm tin vào Thiên Chúa tác tạo vũ trụ chỉ trở thành một khẳng
định mạnh mẽ khi dân bị lưu đầy (thế kỷ thứ 6 trước công nguyên)
trong thời gian này dân Giao Ước phải chung đụng với nhiều thần
linh và huyền thoại của xứ Ba-by-lon. Cuộc va chạm văn hóa này
đã khiến các tác giả được linh hứng xác định niềm tin của dân
Ít-ra-en vào một Thiên Chúa tác tạo vũ trụ vạn vật.
Những tường thuật về việc sáng tạo trong sách Sáng Thế được viết
vào thời kỳ này, thường thuật cổ xưa nhất về việc tạo dựng con
người, cặp vợ chồng đầu tiên, bởi một Thiên Chúa thợ gốm
(St 2, 4-25), và tường thuật của
nhóm tư tế về việc sáng tạo vũ trụ trong bảy ngày, đã có chút
sắc thái thiêng liêng hơn, vì Thiên Chúa sáng tạo tất cả bằng
lời của Người: “Chúa phán”.
Nếu những từ vựng và hình ảnh của các tác giả Kinh Thánh hầu
hết đều vay mượn từ thuyết nguồn gốc vũ trụ của miền Cận Đông,
thì trái lại, niềm tin của dân Do-thái luôn nhất thiết gạt bỏ
mọi dấu vết đa thần. Thiên Chúa là “độc nhất”. Người không
tranh chấp với một thần linh nào là nguồn cội của vật chất và
của sự dữ, giống như một số huyền thoại của các dân ngoại thường
trình bầy.
Trong một tường thuật được lọc luyện kỹ càng hơn, các tác giả
được linh hứng đã mô tả toàn thể vũ trụ như kết quả của một Lời
tác tạo:
“Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. Thiên
Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và
bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm"”
(St 1, 1 tt).
Chúng ta ghi nhận sự tương đồng của hai động từ tác tạo
và nói. Thiên Chúa tác tạo bằng Lời của Người, “lời”
luôn kiện toàn tất cả những gì được nói ra:
“Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn
cuộn dập dồn”
(Tv 107, 25).
Hơn nữa, ngay từ khởi đầu, Lời tác tạo đã được liên kết
với Thần Khí. Lời Người là Thần Khí và sự Sống. Lời đó của
Thiên Chúa là chính hơi thở từ miệng Người, chuyển đạt
chính sự sống của Người.
“Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú (...)
Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện,
Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên”
(Tv 33,
6-9)
“Chúa phán một lời là băng giải tuyết tan,
thổi gió lên nước liền tuôn chảy”
(Tv 147, 18).
Thiên Chúa Cứu tinh của Ít-ra-en và Thiên Chúa tác tạo đúng là
Thiên Chúa duy nhất, chúa tể của lịch sử và vũ trụ vạn vật:
“Quả thế, Ðấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Ðấng đã
tác thành ngươi ”
(Is 54, 5).
“Mọi việc Ðức Chúa làm đều hoàn toàn tốt đẹp, mỗi mệnh lệnh
Người ban sẽ được thi hành đúng thời đúng lúc (...). Người chỉ
phán một lời là nước dồn thành khối, Người chỉ nói một câu là
nước trữ vào bồn. Người vừa ra lệnh, mọi sự tiến hành như Người
muốn; cũng không ai cản nổi công trình cứu độ của Người. Công
việc của phàm nhân tất cả đều diễn ra trước mặt Người, lẩn tránh
sao cho Người khỏi thấy là chuyện không thể được. Từ muôn thuở
cho đến muôn đời Người nhìn thấy tất cả. Chẳng có chi kỳ lạ
trước mặt Người. Không có lý do gì để hỏi: "Chuyện gì thế?" và
"Sao lại xảy ra?" Bất cứ cái gì được dựng nên cũng đều có công
dụng”
(Hc 39, 16-21).
Mỗi vật thụ tạo kiện toàn sứ mạng của mình theo Lời của Chúa.
Nếu Lời thiêng liêng, lời tác tạo của Chúa vô hình, thì nó đã
được biểu lộ trong kết quả tạo dựng của nó. Điều này cắt
nghĩa tại sao người Do-thái xem “tiếng sấm” như biểu tượng cho
“tiếng Chúa”.
“Hãy lắng nghe tiếng Người gầm thét và tiếng Người mở miệng
thì thầm (...).. Thiên Chúa cho nổi sấm mà loan báo những kỳ
công, Người thực hiện những việc lớn lao ta không hiểu thấu.
Người ra lệnh cho tuyết: "Sa xuống đất đi!" Rồi bảo với mưa rào:
"Rơi cho nặng hạt!”
(G 37, 2-13);
Người nam
và người nữ, được tạo dựng làm đối tác của Chúa
Chính Thần Khí tác tạo, hơi thở sống động, hơi thở của sự sống,
chính sự sống thánh thiêng ấy của Người, mà Người đã chuyển
đạt cách đặc biệt cho A-đam. Thực ra các tác giả Kinh Thánh
muốn xem con người như thành quả của một quyết định đặc biệt
trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: “Ta hãy tạo dựng
con người theo hình ảnh của Ta”. Một vật thụ tạo khác biệt
với các động vật. Thiên Chúa dựng nên con người như những đối
tác có trách nhiệm để đối thoại được với họ. Nhờ ân huệ của lời
và của Thần Khí, Thiên Chúa cho họ đi vào tương quan với Người.
Như thế trong bản đại hòa tấu giữa muôn loài khác biệt này,
con người, kẻ xuất hiện sau cùng, có một vị trí riêng biệt.
Với người Do-thái, “A-đam” mang một ý nghĩa cộng đồng. Có nghĩa
là “người”. Chất liệu được dùng để tạo dựng nên thân xác
(bâsâr) của người là đất sét.
“Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người,
thổi sinh khí vào lỗ mũi, và
con người trở nên một sinh vật”
(St 2, 7).
Thân xác này bất động bao lâu Thiên Chúa chưa thổi hơi (ruah)
của Người để từ đó nẩy sinh sự sống (néphésh).
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa
sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo
con người có nam có nữ”
(St 1, 27).
Hữu thể bằng đất sét, loài người gồm Nam và Nữ. Con người phải
có hai giới tính để trở thành hình ảnh của Thiên Chúa. Nó phải
sai mắn để sinh sản ra những con người đồng loại khác. Nếu
không, một ngày nào đó, sự sống đã được ban tặng sẽ cùng nó
biến mất. Nó phải sinh sản ra đầy mặt đất này. Sự khác biệt giữa
người nam và người nữ là do ý muốn của Chúa, không phải chỉ để
sinh sản ra con người đồng loại, vì việc này không được dành cho
phái Nam, mà nhất là để trở thành một hữu thể của đối thoại. Con
người chỉ có thể sống và trưởng thành được trong tương quan,
giống hình ảnh Đấng tạo dựng ra nó.
Kinh Thánh không nói tại sao, trong sự tự do diệu vời của
Người, Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và con người, nhưng các
tác giả Kinh Thánh, được Thần Khí linh hứng, luôn đặt vũ trụ vạn
vật vào trong một lịch sử, đó là lịch sử ơn cứu độ. Toàn thể vạn
vật được coi như giai đoạn đầu trong kế hoạch tình thương của
Chúa. Mỗi vật thụ tạo đều có cùng đích của nó. Nếu Thiên Chúa
“kêu gọi” nước hay bầu trời với các vì tinh tú, cũng là để chúng
phục vụ con người. Trọn bài tường thuật về việc tạo dựng của
Thiên Chúa đều hướng về con người.
Còn con người, được tác tạo giống hình ảnh Thiên Chúa vì một lý
do khác, đó là để chế ngự không gian và mang trách nhiệm đối với
mọi sinh vật khác. Con người có trách nhiệm đối với sự sống
trong vũ trụ. Đây mới là vai trò chính của con người trên địa
cầu này.
“Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân”
(Tv 8, 6-7).
Vạn vật cũng là một lời cho tương lai, một lời hứa cho sự sống:
“Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ:
"Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị
mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò
trên mặt đất." Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi mọi
thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất (...). Thiên Chúa thấy
mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua
một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu”
(St 1, 28-31).
Như thế, Kinh Thánh không định nghĩa con người, nhưng đặt cho
con người một vị trí đối với Thiên Chúa, đối với vũ trụ và với
anh em đồng loại. Chính bởi phẩm chất tương quan của mình, mà
hữu thể người trở nên hình ảnh của Chúa, cùng đích nó phải nhắm
tới.
Kinh Thánh nhấn mạnh việc Thiên Chúa ngắm nhìn muôn loài thụ
tạo và cảm nhận được một niềm vui lớn lao. Tác giả sách Sáng Thế
đã lặp lại bảy lần: Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Và
việc tạo dựng con người còn tăng niềm vui ấy lên gấp bội. Người
thấy kết quả công trình sáng tạo vũ trụ của mình là tốt đẹp,
đến lượt con người, Thiên Chúa đã cho là rất tốt đẹp.
“Lạy Thượng Ðế của bậc tổ tiên, lạy Ðức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật dùng sự khôn ngoan Chúa
mà cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng
nên”
(Kn 9, 1-2).
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa sáng tạo là nguồn gốc duy nhất của
thế giới vạn vật, mà không lẫn lộn với vật thụ tạo. Người là
cội nguồn của sự sống. Ta không hề thấy dấu vết thuyết phiếm
thần trong Sách Thánh.
“Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa,
và chính Người đúng bữa cho ăn.
Khi Người rộng mở tay ban,
là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê”
(Tv 145,
15-16).
Người nam và người nữ được hợp tác với quyền năng tác tạo của
Chúa, dù không phải là thần thiêng. Thiên Chúa không ganh tỵ với
chức năng ấy của con người, bởi chính Người đã trao ban sứ vụ
ấy cho họ: Người còn mời con người “đặt tên” cho mọi loài cây
cỏ và động vật, để nhấn mạnh vai trò quản lý của họ trên vạn
vật. Chính vì hai động từ thống trị và phục tùng
này mà đôi khi người ta gán cho Do-thái-Ki-tô giáo trách nhiệm
về thái độ “cướp bóc” của con người đối với thiên nhiên.
Chắc hẳn chúng ta phải công nhận rằng các tín hữu Tây Phương đã
cổ võ một cái nhìn quá chú trọng vào con người, tách con người
ra khỏi toàn thể vạn vật. Nhưng dù sao, lời mời gọi “phục tùng”
và “thống trị” địa cầu không có nghĩa là có quyền khai thác bừa
bãi mọi tài nguyên của trái đất, nhưng là phải biết khắc phục và
qui hướng chúng. Với những kỹ thuật hiện đại, con người càng có
thể khắc phục thiên nhiên, thì đồng thời càng phải biết đảm bảo
sự chế ngự chính khả năng của mình, để không phải nhường bước
trước tất cả những gì là thái quá hay bất cập.
Chúng ta không phải là những “chủ nhân” của trái đất, mà là
người “làm vườn” của địa cầu, những người làm vườn có óc sáng
tạo và trách nhiệm, với sứ vụ tổ chức, qui hướng vạn vật tới sự
thể hiện cùng đích của chúng: “Trời mới và đất mới”, tặng phẩm
cuối cùng này của Thiên Chúa sẽ trọng thưởng cho mọi lao công
của chúng ta hôm nay.
Ta còn thấy đối với tác giả Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng là chủ
lịch sử. Trong Sách Thánh, ta thường thấy Thiên Chúa can thiệp
vào hầu hết mọi biến cố. Nên phải cần có thời gian để ta khám
phá ra rằng con người không phải là những “con rối” do Thiên
Chúa giật dây, như trong một màn biểu diễn “múa rối”! Nhưng
Thiên Chúa luôn để cho vật thụ tạo của Người, nhất là con
người, một không gian sáng tạo, vì Chúa luôn tôn trọng tự do của
chúng ta.
Sáng tạo,
một động tác thường hằng
Ta đọc trong sách Sáng Thế: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
sáng tạo trời đất”. Mới đọc lên ta tưởng như việc sáng tạo
đã hoàn tất, Thiên Chúa không còn phải bận tâm gì đến vật thụ
tạo của Người nữa. Lối nhìn này đúng là không tôn trọng mầu
nhiệm Thiên Chúa, như Người đã tự tỏ mình. Chính Thầy Giê-su
cũng đặt sứ vụ của mình trong sự tiếp nối kế hoạch sáng tạo của
Cha: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”
(Ga 5, 17).
Động tác sáng tạo của Thiên Chúa không phải là một động tác đóng
khung trong thời gian, trong quá khứ, từ một cái “búng tay” khởi
đầu mà người ta có thể nhận diện thế giới hôm nay so với tình
trạng hỗn mang ban đầu, theo quá trình tiến hóa của vũ trụ. Đối
với tác giả Kinh Thánh, “lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo”
không đẩy lùi Thiên Chúa vào một quá khứ xa vời, mà ý muốn nói
lúc khởi đầu của mọi sự, mọi sự cho hôm nay cũng như mọi
sự đã qua.
“Cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời
bền vững”
(Is 40, 8).
Sự sáng tạo là một động tác thường hằng. Lời của Chúa giữ chúng
ta trong sự hiện hữu. Toàn thể vũ trụ chỉ có thể tiếp tục tồn
tại, có được sự hài hòa trong “hơi thở của Chúa”, “Lời sống
động” của Người luôn luôn sinh động. Không ngừng tiếp tục điều
hành mọi tinh tú trên trời, cũng như nước từ vực thẳm và toàn
thể các hiện tượng trong thiên nhiên.
Người tống đạt lệnh truyền xuống đất,
lời phán ra hoả tốc chạy đi.
Tuyết tựa lông chiên, Chúa trải dài,
sương giá như tro, Người rải rắc.
Làm mưa đá, Chúa tung từng miếng nhỏ,
chịu nổi làm sao giá lạnh của Người!
Chúa phán một lời là băng giải tuyết tan,
thổi gió lên nước liền tuôn chảy.
Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp,
chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en”
(Tv 147, 15-19;
x. G 37, 5-13)
Nhưng, nhất là Lời ấy còn là lương thực hằng ngày của con người.
Chính Lời ấy gìn giữ con người trong sự sống.
“Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói... ngõ hầu làm
cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm
bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Ðức Chúa phán ra”
(Đnl 8,
3).
“Không phải hoa trái nuôi dưỡng người ta, nhưng lời Người
mới giữ gìn chăm sóc những ai hằng tin tưởng vào Người”
(Kn 16,
26).
Nhờ hơi thở của Lời mà Thiên Chúa thực hiện kế hoạch tình thương
cho dân Người. Lời luôn thực hiện những gì do Lời loan báo, từ
những biến cố lịch sử, mọi thực tại trong vũ trụ, đến việc kiện
toàn kế hoạch cứu rỗi. Lời tiếp cận với dân như một sứ giả linh
động.
“Chúa Thượng đã gửi một lời đến Gia-cóp, lời ấy rơi xuống
Ít-ra-en”
(Is 9, 7).
“Trong mọi lời tốt lành Ðức Chúa đã phán với nhà Ít-ra-en,
không một lời nào ra vô hiệu: mọi lời đều ứng nghiệm”
(Gs 21,
45).
“Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: "Giê-rê-mi-a, ngươi thấy
gì?" Tôi thưa: "Tôi thấy một nhánh "cây canh thức". Ðức Chúa
liền phán với tôi: "Ngươi thấy đúng, vì Ta đang canh thức để thi
hành lời Ta”
(Gr 1, 11-12).
Con người,
thợ làm vườn chứ không làm chủ vũ trụ vạn vật
Trong cái hôm nay của Thiên Chúa, động tác sáng tạo là thường
hằng và sinh động luôn vượt trên thời gian. Thiên Chúa đã không
muốn tạo dựng một vũ trụ hoàn tất, mà tiếp tục mời gọi sự tự do
của chúng ta cộng tác, ngay bây giờ, với công việc sáng tạo và
cùng Người kết thúc công trình tác tạo còn dở dang này.
Một phần nào, đó chẳng phải là ý nghĩa một số dụ ngôn của Đức
Ki-tô, khi nói về một ông chủ trước khi đi xa, trao của cải cho
những người giúp việc, để lúc trở về “gọi họ tính sổ” đó sao?
(Mt 21,
33). Từ đó ta có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa
tạo hóa, vì nâng đỡ vật thụ tạo mà chấp nhận bị lu mờ trước
quyền tự do của các loài thụ tạo của mình. Và dáng vẻ bên ngoài
như “rút lui” kia, đã chẳng là dấu chứng Người đã trân trọng
con người, tin rằng nó có thể quản lý tốt mọi vật để đưa chúng
đến kiện toàn đó sao? Như dụ ngôn về các nén bạc gợi ý, con
người phải có khả năng thẩm định giữa nhu cầu chấp nhận rủi ro
để thăng tiến và giữ nguyên tắc để đề phòng.
Các tác giả Kinh Thánh không tìm cách mô tả màu nhiệm của động
tác sáng tạo – thế giới vạn vật tiến hóa thế nào, là phần việc
của nghiên cứu khoa học – nhưng họ đặt con người vào giữa kế
hoạch vĩ đại của Thiên Chúa tạo hóa. Ngoài một số người Mỹ theo
chủ thuyết cơ bản, ngày nay vẫn tin rằng thế giới đã được tạo
dựng trong bảy ngày, rằng người nam đầu tiên đã được hạ sinh bởi
một người nữ!
Nếu con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, tất nhiên
con người cũng được thông dự vào quyền năng tác tạo của Người.
Và mọi thành tựu của chúng ta chỉ có thể làm Thiên Chúa hoan hỷ,
với điều kiện duy nhất là những thành tựu kia phải hợp tác vào
sự kiện toàn kế hoạch yêu thương của Người. Vì qua Lời Chúa
được linh hứng cho con người, Người tự biểu lộ và đồng thời
biểu lộ căn tính cũng như cùng đích của con người. Lời Chúa
không phải là một thứ luật độc đoán, nhưng là một khuôn thước
cho sự sống. Lời ấy cho ta những điểm qui chiếu, mà ngoài những
mốc điểm này, con người có thể tự hủy diệt và hủy diệt luôn cả
vạn vật. Lời Chúa hé mở ý nghĩa của những gì hiện hữu và cũng
gói ghém một lời hứa cho tương lai. Lời Người vừa tác tạo vừa
mạc khải.
Bởi vì, con người cũng có thể dùng quyền năng do Chúa trao phó,
để tiêu diệt chính môi trường sinh sống của mình, hay để phục vụ
anh em đồng loại. Cái quyền “thống trị” vũ trụ đúng là một trách
nhiệm đảm bảo cho tương lai của chính mình và của toàn thể nhân
loại.
Đứng trước những nguy hiểm ô nhiễm môi trường: không khí, trái
đất hay sông nước, phong trào “sinh thái” chắc chắn đã đóng góp
vào việc thức tỉnh lương tâm về trách nhiệm của con người trên
toàn thể mọi vật thụ tạo. Con người phải biết tự nhắc nhở rằng
mình chỉ là thợ làm vườn của vũ trụ, chứ không làm chủ. Nếu
Thiên Chúa tạo hóa đã ban cho chúng ta một chức năng lớn lao
trên mọi vật thụ tạo, chính là để ta trân trọng và phục vụ vạn
vật, chứ không để ta lạm dụng chúng.
Cũng vì thế mà ngày nay chúng ta được mời gọi sống một cách giản
dị hơn. Có quá nhiều người tiêu xài, mua sắm, tiêu thụ một cách
phóng túng, bừa bãi. Ai cũng chạy đua đến với cái “hơn nữa! Hơn
mãi!”, sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên ngày nay đã đạt tới
giới hạn cuối cùng của nó rồi. Một nhu cầu khẩn trương cho con
người thời đại là phải sớm tìm ra một cách tiêu dùng hợp tình,
hợp lý hơn.
Tất cả chúng ta đều biết rằng có sẵn đó, những giải pháp giúp
con người sống tốt hơn, mà không cần phải từ bỏ tư tưởng tiến
bộ, hay mọi hình thức sáng tạo cần thiết. Chỉ cần chúng ta sống
bằng thái độ hài hòa với mọi người, ít mang tính cướp bóc đối
với thiên nhiên và môi trường hơn. Về phía chính quyền cai trị,
cũng như tư cách cá nhân, mọi người đều có bổn phận tìm kiếm
“một sự phát triển toàn diện cho một tương lai lâu bền hơn”, như
bảng đúc kết rất giá trị của “Hội Nghị các ki-tô hữu về toàn cầu
hóa” đã ghi nhận.
Chỉ vì cách thức phát triển hiện nay không lâu bền, cũng không
phổ quát. Chúng ta phải phát minh ra một quan niệm mới về tình
liên đới giữa các dân tộc trên địa cầu, cũng như giữa các thế hệ
con người.
Công cuộc
sáng tạo và lịch sử cứu độ, chỉ là một động tác sinh động
Cái nhìn của Kinh Thánh về việc sáng tạo chẳng bao giờ là kết
quả của một tư duy tri thức, nhưng là một kinh nghiệm hiện hữu.
Thiên Chúa của Kinh Thánh vừa là Đấng Tác Tạo, vừa là Đấng Cứu
Thế. Ta đã thấy rõ sự toàn thắng của Thiên Chúa trên những hỗn
độn, được xem là một khởi đầu, giai đoạn thứ nhất của lịch sử
cứu độ, của mạc khải về kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa muốn đem
hạnh phúc cho con người.
Ta không được tách rời công cuộc sáng tạo ra khỏi toàn thể lịch
sử cứu độ. Ki-tô hữu, dưới ánh sáng của sự kiện Đức Giê-su Ki-tô
chết và sống lại, đã khám phá ra rằng chương trình của Thiên
Chúa là một tổng thể được cấu kết chặt chẽ với nhau, mà ta không
thể phân cách mầu nhiệm của việc sáng tạo ra khỏi mầu nhiệm cứu
chuộc.
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta. Trong Ðức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng
phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn
phúc của Thánh Thần. Trong Ðức Kitô, Người đã chọn ta
trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở
nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người”
(Ep 1, 3
tt).
Mặc dù thảm kịch của tội lỗi, Thiên Chúa vẫn tiếp tục dự án tác
tạo của Người. Nhưng việc tác tạo thường hằng kia đã thở thành
“vượt qua”, vì con người đã từ chối hợp tác vào hành động tạo
dựng của Thiên Chúa.
Đối với một ki-tô hữu, Đức Ki-tô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, chính
là con tim của công trình sáng tạo, đang trên đường tiến tới
hoàn tất và giải thóat. Những văn bản tân ước đều nhấn mạnh Đức
Ki-tô là khởi điểm, là trung tâm và là cùng đích của mọi sự.
Chính Người đem ý nghĩa đến cho mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa Cha
đã tác tạo mọi sự vì Con và cho Con! Ngay khi khởi đầu cuộc hành
trình với vũ trụ, Cha đã liên tưởng đến việc nhập thể của Con,
của Ngôi Lời. Tất cả đã được tạo dựng để tiếp đón Con Người!
Trường phái của thánh Phao-lô đã suy gẫm lâu dài về vị thế hàng
đầu và phổ quát này của Đức Ki-tô. Người là Trưởng Tử của mọi
loài thụ tạo và là Con Người Hoàn Thiện, là khởi đầu và là kết
cuộc của việc sáng tạo. Bởi mầu nhiệm nhập thể, Đức Ki-tô đã
nâng cao phẩm giá của chính vật chất lên.
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh
ra trước mọi loài thọ tạo. Vì trong Người, muôn vật được tạo
thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình và vô hình... tất cả
đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người”
(Cl 1, 15
tt).
Ta không biết làm thế nào Thần Khí đã vạch ra một lối đi, từ lúc
xuất hiện các tinh tú trên trời, cho đến tận con người tư duy
trên mặt đất. Làm sao, từ vật thể, phát hiện ra ý thức của một
hữu thể có khả năng nói lên tiếng “tôi”. Ta vẫn phải công nhận
rằng một trong những đặc thù lớn nhất của tư tưởng Kinh Thánh
là khái niệm rất sinh động về việc sáng tạo vũ trụ. Đó cũng
chính là điều khác biệt giữa Kinh Thánh với các nền văn hóa cổ
xưa và các tôn giáo khác trên mặt đất.
Với dân Hy-lạp, bánh xe lịch sử, cứ mỗi trăm năm, đều phải quay
trở lại. Vì thế “Không có gì mới mẻ dưới bầu trời!” Và con người
phải quy thuận theo định mệnh (fatum). Trong Ấn giáo, thì
việc sáng tạo cũng phải thuần phục theo bánh xe lịch sử, nhưng
nó lại không có khởi đầu cũng chẳng có cùng tận.
Còn trong Kinh Thánh, với Giao Ước, kèm lời hứa với Áp-ra-ham
cho một Đất Hứa – Đất Hứa này trở thành Vương Quốc của Thiên
Chúa, với sự tham dự, thông phần vào đời sống của Thiên Chúa mà
Đức Giê-su Ki-tô loan báo -, dân trong Kinh Thánh là dân tộc
đầu tiên đã cho lịch sử một ý nghĩa, một định hướng. Đó là
điều mà các khoa học hiện đại muốn xác minh bằng lý thuyết của
việc tiến hóa. Sự sáng tạo không phải là một chu kỳ, mà là để
hướng về một mục đích, nó được ghi khắc trong một lịch sử năng
động. Những lời hứa có tính thiên sai của các ngôn sứ, còn bao
hàm cả một tương lai như một cuộc tái tạo mới mà ngôn sứ I-sai-a
đã viết cho dân bị lưu đày:
“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến
thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa”
(Is 65,
17 tt).
Con người
phải nhân bản hóa cái thế giới mà Thiên Chúa muốn thăng hoa
Nếu Đức Ki-tô Hiển Dung đã trở thành Người hoàn hảo về mặt lịch
sử cho con người, thì thụ tạo mới được tái tạo kia vẫn còn đang
được cưu mang, để mỗi người chúng ta phải liên đới với nhau cho
việc hạ sinh này.
“Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa
mặc khải vinh quang của con cái Người (...) Thật vậy, chúng ta
biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và
quằn quại như sắp sinh nở”
(Rm 8, 19-22).
Sự hiệp nhất và hài hòa của vạn vật không phải là trong quá khứ
huyền thoại, một thiên đường nguyên thủy đã mất, nhưng là hoa
trái của một giao ước, một lời hứa đang được thực hiện. Ý niệm
về thế giới của Ki-tô Giáo, không phải là một thế giới thơ mộng
tình tứ, mà là một thế giới đang được kiến tạo cho việc hòa
giải, một thế giới đang được cưu mang, đang đau đớn như nỗi đau
của một việc hạ sinh, được giải thóat và sinh động bởi tình yêu
Đức Ki-tô Đấng Cứu Chuộc. Sự giải thóat và thăng hoa của con
người đang được toàn thể vật thụ tạo chờ mong. Tội lỗi của con
người đã làm vật thụ tạo bị tổn thương, đổ vỡ sự hài hòa. Khi
con người lãng quên Đấng Tạo Hoá, nguồn sống của mình, nó cũng
kéo theo một phần vật thụ tạo ra khỏi quỹ đạo tình yêu, biến
chất bản tính của nó.
Thiên Chúa không phải là một quyền lực ma thuật, tác động
bằng những sự can thiệp lạ lùng. Lời Người, sức mạnh của tình
yêu chỉ có hiệu lực khi con người tiếp nhận nó. Nó luôn
hiện diện trong con người để hành động, chỉ cần con người đi
xuống chiều sâu của chính mình. Thiên Chúa chỉ có thể tác động
theo mức độ cởi mở của chúng ta cho Lời Người.
Chính khi tiếp nhận Thần Khí, ngày qua ngày, mà con người dần
dần nhân bản hóa từ những bản năng, xu hướng, tương quan, đô
thị, làng mạc, mọi cấu trúc kinh tế xã hội và toàn thế giới, đến
chính bản thân mình. Con người chúng ta được mời gọi “nhân bản
hóa” mọi loài thọ tạo, để chuẩn bị cho việc thăng hoa tối hậu,
là công trình của Thiên Chúa cho biến cố cuối cùng của Đức
Ki-tô.
(còn tiếp nhiều kỳ)
2 A-đam
có nghĩa là có màu đất, vàng nâu, màu đất sét
(adâmah), từ đó con người được nặn ra.
Chúng tôi nhiệt liệt khuyến khích đọc cuốn sách
này: Assises chrétiennes de la mondialisation, Livre
blanc. Dialogues pour une terre habitable. Paris,
Bayard, 2006. Đó là tổng kết sáu năm hội họp làm
việc của nhiều phong trào ki-tô giáo.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HỆ LỤY
|
“Không có lửa làm sao có khói !”
Câu nói tự ngàn xưa của ông bà để lại. Đây cũng là kinh nghiệm
hết sức thực tế trong cuộc đời khi gặp phải những hậu quả đắng
đót giữa đời thường.
Cũng không dám khẳng định rằng thế
hệ 7x như chúng tôi hay hơn tí nữa là 6x là những người hoàn
thiện nhưng hình như tuổi thơ êm đềm của thế hệ 6x, 7x nó có
những thành quả không mấy để cho xã hội và con người phải bận
tâm.
Nhớ lại tuổi thơ êm đềm của thế hệ
6x và 7x nó dễ thương làm sao đó.
Cạnh nhà, có quán cà phê Cây Bông
Giấy, sau một ngày làm việc nhoài sức thì các anh các chị 6x ôm
cây đàn ghi ta ngồi hát với nhau. Những bản nhạc Trịnh hay Ngô
Thụy Miên đã đi vào tâm thức từ thuở ấy.
Một tuần, lịch cúp điện gần như
ngày nào cũng có để rồi tranh thủ chạy qua nhà hàng xóm (gọi là
hàng xóm nhưng cũng cách một ngã tư) để xem ké tivi. Thời đó làm
gì có màu và nhiều màu như bây giờ. Chỉ cần chậm chân một chút
là phải ngồi phía bên ngoài. Những bộ phim Maika, Hồ Sơ Thần
Chết ... đã hút bọn nhỏ chúng tôi.
Hôm nào không có phim lại kéo ra
ngã tư gần nhà ông tướng D có cái đèn đường để tạt lon, để chơi
trốn tìm … Với cái lon sữa bò vất đi sau khi sữa dùng hết chúng
tôi có thể dùng vào nhiều việc, có thể làm cái đèn Trung Thu
chạy leng keng giữa rằm tháng Tám. Thưở đó làm gì có những cái
đèn xanh xanh đỏ đỏ và có cả tiếng nhạc reo vang …
Tuổi thơ thời đó cắp sách đến
trường dùng cả tập trắng tập đen. Chỉ có Toán và Văn là được
dùng tập trắng còn lại là tập đen xì vì nhà nghèo. Chắc có lẽ
khó quên được hình ảnh của cây viết lá tre được chấm với bình
mực pha bằng những hạt mực nho nhỏ. Bình mực Quế Lâm và cây viết
“máy” Hero là niềm mơ ước của bao trẻ nhà nghèo.
Sách giáo khoa thì khỏi phải nói,
có những môn mà hai ba người dùng chung 1 quyển vì thiếu …
Mười mấy hai chục năm qua đi nhưng
ký ức tuổi thơ vẫn còn đó. Kèm theo cái ký ức của tuổi thơ đó là
những kết quả của hiện tại.
Ngày xưa nghèo thật, thiếu thốn
thật nhưng đâu phải đối diện với những vấn đề nan giải như bây
giờ.
Ngày nay hoàn toàn khác hẳn. Trẻ
thơ đến trường được chọn thoải mái đồ dùng học tập cho đến sách
vở. Ngày nay mua một bộ sách giáo khoa không còn khó nữa, thậm
chí trẻ còn được trang bị thêm cho cả mấy bộ sách làm mẫu, sách
hướng dẫn.
Rồi, những trò chơi ngày xưa cũng
như những chiếc tivi đen trắng cũng chẳng còn. Thay vào đó là
những trò chơi hiện đại và những chiếc màn hình tinh thể lỏng
thật đẹp và gọn.
Những trò chơi game được thay vào
những trò chơi dân gian từ thuở bé. Ban đầu, khi game còn chơi
trên đĩa mềm, sang đĩa cứng đã làm cho không ít phụ huynh phải
chán ngán cho con. Ngày nay không còn dừng trên ổ đĩa trên máy
nữa mà đã chuyển sang loại hình mới “on-line”. Và, đam mê tột
đỉnh khi đứa trẻ này ngồi trên máy này và có thể chơi trực tuyến
với đứa nhỏ khác bên máy kia.
Cái gì cũng có hai mặt của nó. Khi
trẻ vùi đầu vào game thì chất lượng học hành đi xuống và chất
lượng đạo đức của con người trẻ càng báo động.
Cũng chỉ vì game “on-line”, chỉ vì
game bạo lực đã gây ra biết bao nhiêu tan thương cho xã hội.
Mới đây thôi, một câu trả lời nghe
ớn lạnh của một kẻ sát nhân vừa tròn đôi tám. Tên sát nhân đã
nói với cơ quan điều tra : “cháu có họ hàng với anh LVL nên cháu
phải làm một điều gì đấy giống anh ấy”.
Nghe xong mà rụng rời cả tay chân.
Cũng chẳng ngạc nhiên gì lắm khi
xã hội còn đó quá nhiều LVL.
Mới đây thôi, tôi được tiếp xúc
với một trẻ 15 tuổi đời nhưng đã bỏ học được 2 năm. 2 năm qua
trẻ này vùi đầu trong game bạo lực. Mẹ trẻ nói với tôi rằng trẻ
có thể chơi game cả một ngày không cần ăn !
Hỏi trẻ rằng nếu như mẹ không còn
chu cấp thì sống như thế nào, trẻ không ngần ngại trả lời rằng
“tự tử chết theo mẹ!”.
Một cuộc đời không có lý tưởng.
Khi tiếp xúc với trẻ này rồi tôi
chợt nhận ra rằng còn nhiều trẻ đang sống trong con đường nghiện
game mà LVL cũng như tên sát nhân ở Thanh Hóa vừa bị bắt.
Hậu qủa của những cuộc đời vìùi
đầu vào game thật khôn lường.
Có mấy đứa cháu, cũng theo trào
lưu của xã hội là học vi tính rồi lên mạng, rồi chơi game …
Không thể nào ngăn cản chúng 100% được, chỉ dè chừng chúng bớt
đi chừng nào hay chừng nấy thôi. Ngày nào và giờ nào có dịp cũng
phải nhắc chừng chừng chúng đừng lầy vào game.
Vừa rồi, thằng cháu lớn xin đi học
đàn. Nghe xong mừng quá vì tư tưởng mới của cậu. Hay chăng khi
cậu đam mê thanh nhạc cậu sẽ quân bình tâm và sinh lý của tuổi
mới lớn hơn. Sợ lắm khi nhìn những đứa trẻ suốt ngày cứ vùi đầu
vào game mà chẳng chịu học hành.
Cái gì cũng có nguyên nhân để rồi
sinh ra hệ lụy.
Nếu như biết con em mình dính vào
game thì phải bằng mọi cách giáo dục, hướng dẫn và cách ly.
Nghiện game cũng chẳng khác gì những cơn nghiện rượu chè và ma
túy. Có những đứa trẻ đã chết ngay trên bàn của máy game.
Phần lỗi của trẻ nghiện game cũng
là phần lớn từ những bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm.
Không thể nào đổ lỗi cho người khác trước hậu quả đau lòng của
trẻ.
Đứa trẻ 15 tuổi bỏ học mà tôi đã
được tiếp xúc cũng không đi ngoài quỹ đạo đó. Người mẹ, góa
chồng từ khi cháu vừa lên 2 và chị cháu lên 4. Cũng đổ lỗi cho
cuộc sống phong sương nên mẹ chúng vùi đầu vào làm ăn kinh tế.
Hàng tháng cứ gửi tiền vào nhà các sơ nhờ các sơ nuôi giúp. Giờ
đây đứng trước thảm cảnh của 2 người thì người mẹ hoàn toàn bất
lực.
Dĩ nhiên người lớn vẫn có cái lý
của người lớn là tìm kế sinh nhai.
Để có kế sinh nhai và rồi cũng để
cho con mình đứng bên vực của tội lỗi, của sát nhân thì cha mẹ
có đành lòng không ?
Đã quá nhiều cảnh thương tâm diễn
ra trong xã hội.
Chỉ mong bậc làm cha làm mẹ hãy
làm gương cho con cái cũng như giáo dục, tâm sự, chia sẻ như thế
nào với con cái để xã hội bớt đi những hệ lụy đau lòng như đang
trông thấy.
Vũ Hưu Dưỡng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VỢ CHỒNG CÓ ĐƯỢC PHÉP XƯNG TỘI
CHUNG KHÔNG ?
|
HỎi:
Xin cha giải thích giúp:
1- Hai vợ chồng có đước phép
xưng tội chung với linh mục không?
2- Khi xưng tội, hối nhân có
cần xưng các tội đã phạm hay không cần vì Chúa đã biết hết như
có vài linh mục đã nói.
Trả lời :
Trước khi trả lời những câu hỏi
trên đây, tôi cần nói lại điều quan trọng này một lần nữa với
quí độc giả tín hữu khắp nơi: Đó là mọi thành phần dân Chúa
trong Giáo Hội - giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân - tất cả đều được
mong đợi và có bổn phận phải tuân thủ và thi hành đúng đắn
mọi điều Giáo Hội đã qui định và truyền dạy với Quyền Giáo
Huấn ( Magisterium) trong các phạm vị giáo lý (Doctrine) tín lý
(Dogma) kinh thánh (Sacred Scripture) phụng vụ thánh (Sacred
Liturgy) và giáo luật (Canon law). Nghĩa là không ai được tự
tiện có sáng kiến riêng làm những gì không được cho phép trong
những phạm vi quan trọng trên đây.
Nhưng trong thực tế, người ta đã
ghi nhận những lạm dụng (abuses) và vi phạm trầm trong của nhiều
giáo sĩ trong các lãnh vực nêu trên. Cụ thể, một Tổng Giám Mục
Phi Châu kia đã chống lại kỷ luật độc thân của hàng giáo sĩ Công
Giáo và phạm tội bội giáo (apostasy) và ly giáo (schism) khi tự
ý kết hôn và gia nhập một giáo phái,(đạo Moon của người Đại Hàn)
nghịch với đức tin Công Giáo. Sau đó, ông còn tự ý phong chức
giám mục (không có phép của Đức Thánh Cha) cho một vài linh mục
Mỹ đã hồi tục, gây tai tiếng cho Giáo Hội. Một Giáo mục phụ tá
(auxiliary bishop) kia đã lên tiếng ủng hộ cho phụ nữ làm linh
mục, bất chấp truyền thống và giáo luật của Giáo Hội. Nhiều linh
mục đã cho cả người không Công giáo rước lễ khi họ tham dự thánh
lễ chung với giáo dân. Có linh mục còn chứng hôn ở tư gia mặc dù
đôi hôn phối đang có ngăn trở chưa được tháo gỡ theo giáo luật.
Cũng có linh mục , khi đến dâng lễ
ở tư gia, đã mời mọi người có mặt lên rước lễ, lấy cớ là Chúa đã
tha thứ mọi tội cho con người rồi, nên không cần phải xưng tội
dù đang có tội trọng ! Có linh mục còn làm lễ Tro vào ngày Chúa
Nhật thứ nhất Mùa Chay, thay vì vào đúng thứ Tư Lễ Tro, như
Phụng Vụ Giáo Hội qui định. Linh mục này còn rửa tội cho người
tân tòng trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) ! thay vì
phải làm trong Lễ Vọng Phục Sinh ( Easter Vigil) tối thứ bảy
Tuần Thánh như truyền thống lâu đời trong Giáo Hội. Sau hết, và
nghiêm trọng hơn nữa là ông linh mục này, khi cử hành bí tích
Thêm Sức cho người tân tòng đã nói với họ là : “Tôi tạm thêm sức
cho ( ông ,bà) trong khi chờ Đức Giám mục chính thức Thêm sức
cho sau.” ( theo lời kể của một nhân chứng) !làm gì có chuyện
quái đản là “tạm ban bí tích thêm sức” cho ai trong Giáo Hội ???
. Ở khắp mọi nơi, các linh mục đều được Giám mục của mình ban
năng quyền ( Faculty) thêm sức cho những người tân tòng trong
đêm Vọng Phục Sinh sau khi rửa tội cho họ. Cũng vì lý do này mà
Phó tế không được phép rửa tội cho người lớn ( adults) tức người
mới theo Đạo vì Phó Tế không có năng quyền Thêm sức sau khi rửa
tội cho người lớn. Chưa hết, Có linh mục còn cho giáo dân đọc
chung kinh nguyện Tạ Ơn (Eucharistic prayer) trong Thánh lễ.
Linh mục khác còn phát bánh lễ cho giáo dân cầm tay khi linh mục
đọc lời truyền phép……!.Đặc biệt, có linh mục còn viết báo tuyên
truyền việc rửa tội cho người chết .!! Sau hết, Gần đây một linh
mục khác cũng viết báo nói rằng hai vợ chồng có thể xưng
tội chung một lúc với linh muc.!
Tôi quả quyết tất cả những việc
làm trên đây của các vị đó đều đã ít nhiều vượt ra ngoài những
gì giáo lý, tín lý, phụng vụ và giáo luật của Giáo Hội cho phép
và nêu gương xấu cho người khác, làm tổn thương cho uy tín và
hiểu biết của linh mục nói riêng và kỷ luật của Giáo Hội nói
chung.
1- Liên
quan đến câu hỏi thứ nhất về việc xưng tội chung của hai vợ
chồng, Giáo luật số 960 đã minh định: “việc
thú tội cá nhân và toàn vẹn cùng với việc xá giải cấu tạo nên
phương cách duy nhất và thông thường nhờ đó người tín hữu ý thức
mình có tội nặng được hòa giải với Thiên Chúa và Giáo Hội. Chỉ
sự bất khả kháng về thể lý hay luân lý mới chuẩn khỏi cách thú
tội như vậy..”
Như thế có nghĩa là chỉ một mình
hối nhân trực tiết thú tội hay xưng tội với một tư tế có nặng
quyền giải tội (giám mục, linh mục) mà thôi. Giáo luật không hề
có khoản nào nào cho phép hai người, dù là vợ chồng, được phép
cùng xưng tội chung với một linh mục. Việc này hoàn toàn trái
với khoản giáo luật ghi trên vì những lý do sau đây:
a/- Mọi tội cá nhân đều chỉ
được thú nhận và xưng ra giữa hối nhân và linh mục mà thôi.
Và những tội xưng ra phải được tuyệt đối giữ bí mật (x.
Can.no 983 về Ấn tòa giải tội=seal of confessions)
Ngoài hối nhân và linh mục giải
tội ra, không người thứ ba nào được phép nghe lời thú tội
của người khác, trừ trường hợp bất khả kháng phải dùng thông
ngôn như giáo luật số 990 cho phép.
Nhưng
người thông ngôn cũng phải tuyệt đối giữ bí mật về những gì
được nghe từ hối nhân. Nếu hai vợ chồng cùng xưng tội thì họ
đã nghe được tội nặng nhẹ của nhau, trong khi họ không có năng
quyền để được phép nghe như vậy.
Nên nhớ kỹ là bí tích hòa giải
không phải là môn tâm lý trị liệu (psychotherapy) hay cố vấn tâm
lý (counseling) nên không thể áp dụng kỹ thuật của các môn này
khi cử hành bí tích hòa giải được.
b/- Vả lại, xét về mặt tâm lý,
việc làm trên rất nguy hiểm cho an vui, hòa thuận của hai vợ
chồng. Vì nếu một trong hai người đã phạm tội ngoại tình và
phải xưng ra để được tha thứ thì người kia sẽ biết và không dễ
chấp nhận và tha thứ. Như vậy, xưng tội chung là nguy cơ đưa đến
tan vỡ hạnh phúc gia đình trong trường hợp này.
Tóm lại, về mọi mặt, không thể cho
phép thực hành việc xưng tội chung của hai vợ chồng như có
người đã coi thường giáo luật để quảng cáo việc sai trái này.
Cũng cần nói thêm là không
thể xưng tội bằng email hay qua điện thoại được vì không
hề có giáo luật nào cho phép việc này. Riêng các bệnh nhân đang
điều trị ỡ nhà thương hay ở tư gia, họ được phép xem lễ trên
truyền hình, nhưng chỉ là để thông công cầu nguyện mà thôi chứ
không để hưởng trọn vẹn mọi ơn ích thiêng liêng như khi thực sự
tham dự thánh lễ và rước lễ. Nhưng cũng cần nói ngay là các bệnh
nhân thì không buộc phải xem lễ ngày Chúa Nhật hay lễ trọng nào,
kể cả ăn chay kiêng thịt vì lý do bệnh tật.
Người mạnh khỏe không thể xem lễ
trên truyền hình để chu toàn luật buộc về tham dự thánh lễ ngày
Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng được . Chắn chắn như vậy.
2- Về
thể thức xưng tội, giáo lý của Giáo Hội đã nói rõ
như sau : “Thú nhận tội mình
với vị linh mục là một phần chủ yếu của bí tích giải tội. Khi
xưng tội, các hối nhân phải kể ra tất cả các tội trọng mà mình
biết đã phạm sau khi xét mình cách nghiêm chỉnh..”(x.
SGLGHCG, số 1456)
Như vậy, không có lý do gì để
không thú tội của mình với linh mục giải tội. Ai có ý dấu
không xưng bất cứ tội nào thì đã không xưng tội cách
trọn vẹn để đáng được Chúa thứ tha như Thánh Giêrônimô đã cảnh
cáo như sau: “Nếu bệnh nhân mắc
cở không mở cho thầy thuốc xem vết thương của mình thì y khoa
không thể chữa lành những gì không biết.”
(x. Sđd, 1505)
Nếu hối nhân phải xưng ra các tội
đã phạm với tư tế có quyền tha tội(Giám mục, linh mục) thì không
tư tế nào được phép tự ý bảo hối nhân không cần phải xưng tội
ra nữa vì Chúa đã biết mọi sự. Chúa biết mọi sự,
đúng, nhưng vẫn đòi hỏi hối nhân phải nhìn nhận tội lỗi và
thú nhận với tư tế thay mặt Chúa để nghe và tha tội nhân
danh Chúa Kitô ( In persona Christi) như giáo lý Giáo Hội dạy
trên đây.Vả lại, nếu lấy cớ Chúa biết hết rồi nên khỏi phải xưng
ra thì cần gì phải đi xưng tội nữa ?
Mục đích của Bí tích Hòa giải (
Reconciliation) hay Xưng tội là để giúp hối nhân thú nhận những
tội đã phạm mất lòng Chúa, làm thương tổn cho Giáo Hội và tha
nhân, nên cần thiết phải được xưng ra cách thành thật cho cha
giải tội, để được khuyên bảo thích hợp và được tha tội như Chúa
Giêsu đã nói với các Tông Đồ xưa:
“ Anh em tha tội cho ai, thì người
đó được tha
Anh em
cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.”
( Ga 20: 23)
Tóm lại,người tín hữu không được
nghe và thực hành những gì Giáo Hội không dạy hay cho phép trong
các lãnh vực giáo lý, tín lý, luân lý, phụng vụ và giáo luật.Ai
tự ý làm việc gì theo ý riêng mình trong các lãnh vực nói trên
là đã công khai chống lại Giáo Hội và nêu gương xấu cho người
khác.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
XÂY DỰNG MỘT CỘNG ĐÒAN NHÓM NHỎ
VỮNG MẠNH
|
LÁ THƯ
LINH MỤC GIÁM HUẤN Tháng
08.2012
Để thực hiện
mục đích “Làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”,
Hiệp Hội Thánh Mẫu dùng phương pháp Nhóm Nhỏ của Đức Giêsu: Khi
đi giảng đạo, ngoài Nhóm Bảy Mươi Hai Môn Đệ (x Lc 10,1.17),
Người cũng tuyển chọn một Nhóm Nhỏ Mười Hai Tông Đồ và đặt Phêrô
làm đầu (x Mt 10,2). Trong Nhóm này, Người lại chọn 3 người làm
thành Tổ Thân Tín luôn đi với Người (x Lc 9,28; Mc 5,37; Mt
26,37).
Hiệp Hội
Thánh Mẫu cũng phân Hội Viên thành những Nhóm Nhỏ gọi là Gia
Đình Sống Đời Kitô HHTM, trong đó mọi người giúp nhau nên
con hiếu thảo của Chúa Cha, hiệp cùng Mẹ Maria cầu xin ơn Thánh
Thần để sống hiệp thông hầu nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu,
góp phần chu tòan sứ vụ “loan báo Tin Mừng” của Hội Thánh (x Mt
28,19-20). Vậy làm thế nào để xây dựng một Gia Đình Nhóm Nhỏ
vững mạnh ? Gia Đình Nhòm Nhỏ cần tránh những nguy cơ nào có thể
làm băng họai Gia Đình ?
1. THẾ NÀO LÀ MỘT GIA ĐÌNH NHÓM NHỎ HHTM VỮNG MẠNH :
a)
Gia Đình Nhóm Nhỏ phải mạnh cả về số lượng cũng như
chất lượng Hội viên : Phải đủ số hội viên sinh họat thường
xuyên từ 10 đến 12. Hạn chế số HV không sinh họat thường xuyên.
b) Trưởng Gia
Đình phải được huấn luyện thường xuyên :
Trưởng GĐ Nhóm
Nhỏ cần tham dự các khóa tĩnh huấn Huynh Trưởng và có chứng chỉ
Huynh Trưởng Cấp I. Nhờ đó mới đủ kiến thức về linh đạo và Luật
Sống HHTM, mới ý thức trách nhiệm và quyền hạn của mình và mới
có khả năng điều hành Gia Đình ngày một thăng tiến. Trưởng GĐ
cần tạo tinh thần hiệp thông nội bộ gia đình bằng việc phân công
phân nhiệm cụ thể cho các thành viên Tổ Phục Vụ Gia Đình, cần
làm việc theo nguyên tắc dân chủ (Thảo luận, biểu quyết theo đa
số quá bán và thi hành theo ý chung). Trưởng GĐ cũng cần hiệp
thông với Trưởng các Gia Đình Nhóm Nhỏ khác làm việc dưới quyền
BCH Xứ Đòan.
c) Về sinh họat
và công tác HHTM :
Gia Đình Nhóm
Nhỏ mạnh phải thường xuyên tổ chức họp mặt Gia Đình thường kỳ
hằng tuần theo chương trình chung. Các buổi sinh họat Gia Đình
phải có biên bản do thư ký GĐ ghi tóm lược và được chủ tọa ký
nhận để làm cơ sở thi hành. Trường GĐ cần tránh độc đóan vì dê
gây chia rẽ nội bộ.
d) Về công
tác phát triển hội viên :
Gia Đình Nhóm Nhỏ mạnh cần quan tâm phát triển hội viên theo
tiêu chuẩn : Nhiệt tình, chăm chỉ, thiện chí chu tòan công tác.
Cố Vấn GĐ có nhiệm vụ huấn luyện các ứng sinh về linh đạo và
Luật Sống HHTM để giúp họ trở thành hội viên chính thức bậc tập
sinh Thánh Mẫu theo Quy chế huấn luyện HHTM.
e) Về việc xây dựng tình hiệp thông :
Một Gia Đình Nhóm Nhỏ mạnh cần xây dựng được tình hiệp thông nội
bộ noi gương Cộng Đòan Hội Thánh Sơ Khai (x Cv 2,42-47), thể
hiện qua việc mỗi thành viên hằng ngày nhớ đọc một chục kinh Mân
Côi Sống cầu nguyện cho nhau, tham dự học sống Lời Chúa theo các
đề tài xây dựng tình yêu thương. Trưởng GĐ cần phân công tác
thăm viếng các thành viên bỏ sinh họat hoặc thăm thân nhân đau
liệt. Trong gia đình mọi người biết quan tâm giúp đỡ nhau như
lời khuyên của thánh Phaolô : “Vui với người vui, khóc với người
khóc” (Rm 12,15).
g) Về vấn đề tài chánh :
Một Gia Đình Nhóm Nhỏ mạnh cần có quỹ Gia Đình phục vụ
cho sinh họat nội bộ và công tác tông đồ bác ái. Thủ quỹ GĐ cần
lập Sổ Quỹ GĐ, được LM Giám Huấn ký duyệt mỗi 3 tháng một lần.
Thủ quỹ có bổn phận thu quỹ và báo cáo quỹ GĐ theo yêu cầu của
Trưởng GĐ.
h) Về các phương cách gây quỹ :
Gia Đình có thể gây quỹ họat động bằng các phương thức sau :
-
Hội viên tự giác đóng góp quỹ bác ái tông đồ (Mỗi năm từ 5 đến
10 ký gạo) : Trưởng GĐ nộp lên BCH cấp trên theo tỷ lệ như Luật
Sống ấn định.
-
Góp quỹ Túi Kín trong buổi họp khi học sống Lời Chúa: Thủ quỹ GĐ
có bổn phận thu túi kín và công bố kết quả từng lần.
-
Kêu gọi ân nhân ủng hộ mỗi chuyến đi công tác bác ái tại vùng
sâu vùng xa, thăm các trại phong cùi, cô nhi viện, nhà nuôi
người già neo đơn hay trại nuôi người khuyết tật mù què câm
điếc…
-
Các hình thức gây quỹ khác như thu gom phế liệu, trông giữ xe
tại nhà thờ, sản xuất bông hoa giả, bán sách báo đạo và CD thánh
ca, bán tập vở học sinh trước năm học mới… nhằm gây quỹ sinh
họat của Gia Đình…
i) Về hai loại quỹ :
HHTM có hai lọai quỹ là Quỹ Ân Nhân Bảo Trợ và quỹ Sinh Họat
Công Tác: Về quỹ Ân Nhân Bảo Trợ dành riêng cho Ban Chấp Hành từ
cấp Xứ Đòan trở lên. Do phải đền ơn đáp nghĩa lâu dài nên BCH
không được sử dụng quỹ Ân Nhân Bảo Trợ để hội viên tham quan du
lịch, liên hoan… Mỗi ba tháng Trưởng GĐ phải báo cáo sổ quỹ Thu
Chi Gia Đình trong buổi sinh họat Hội Đồng Quản Trị Xứ Đòan.
k) Về việc sử dụng quỹ :
Tổ Phục Vụ GĐ cần sử dụng quỹ thu chi theo nguyên tắc : Thủ Quỹ
GĐ có quyền giữ quỹ sinh họat GĐ nhưng chỉ được chi theo yêu cầu
của Trưởng GĐ. Trưởng GĐ không được giữ quỹ nhưng được chi theo
tiêu chuẩn. Nếu chi quá tiêu chuẩn phải được đa số quá bán thành
viên GĐ đồng ý. Trưởng Gia Đình có thể giữ một số tiền quỹ tối
thiểu để chi những việc cấp bách, nhưng phải ghi vào sổ quỹ Thu
Chi và Biên Bản Huổi Sinh họat GĐ.
2. MỘT SỐ ĐIỀU GIA ĐÌNH NHÓM NHỎ
CẦN THỰC HÀNH HẰNG TUẦN:
a) Hội
họp: Trưởng Gia Đình
cần tổ chức buổi họp mặt hằng tuần hay nửa tháng. Các thành viên
Gia Đình có bổn phận tham dự buổi họp GĐ để cùng nhau học sống
Lời Chúa, thắt chặt tình thân, đọc Kinh tối Gia Đình luân phiên
và cùng nhau thi hành công tác được phân công. Thời gian mỗi
buổi họp mặt sinh họat Gia Đình từ 45 đến 60 phút.
b) Cần
tránh: Trong buổi họp
mặt cần đến trước để có thể khai mạc và kết thúc đúng giờ. Khi
học Lời Chúa cần khiêm tốn chia sẻ ý kiến hơn là tranh cãu hơn
thua. Khi không thể tham dự sinh họat cần báo cáo với Trưởng Gia
Đình lý do. Cần chu tòan bổn phận với gia đình Nhóm Nhỏ và gia
đình ruột thịt của mình. Tránh thái độ vô trách nhiệm với việc
chung của Gia Đình. Nhất là tránh cho vay mượn quỹ chung vì
thường là nguyên nhân gây sự bất bình và làm băng họai tình cảm
giữa các thành viên Gia Đình.
3. LỜI CẦU:
Lạy Thiên
Chúa là Cha chúng con. Xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con đi
theo linh đạo Hiệp Hội Thánh Mẫu là “Hiệp Sống - Xin Vâng - Phục
Vụ”. Xin cho chúng con biết liên kết thành những Cộng Đòan Nhóm
Nhỏ là Gia Đình Sống Đời Kitô HHTM. Nhờ năng họp mặt học sống
Lời Chúa hàng tuần, các thành viên sẽ được Thánh Thần biến đổi
nên con thảo của Chúa Cha, môn đệ đích thực của Chúa và chu tòan
sứ vụ đem Chúa đi thăm viếng, giúp cho nhiều người được ơn cứu
độ, như Mẹ Maria xưa đã mang Thai Nhi Giêsu đến thăm gia đình
Giacaria, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng vì được hưởng ơn cứu
độ.- AMEN.
LM ĐAN
VINH
www.hiephoithanhmau.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thuyết biến hóa, tiến hóa và vận mệnh con người
|
Trần Văn
Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
Đặt vấn đề
Ba vấn đề nêu ra trên đây thuộc về những phạm vi khác nhau, cho
nên thiết tưởng muốn giải quyết cho ổn thỏa thì trước hết cần
phải nhận định cho rõ về nội dung các khái niệm.
Đã có một
thời thuyết biến hóa (évolutionnisme) được coi như là chân lý
vĩnh cửu của khoa học, có thể đưa ra để phi bác quan niệm chủ
trương có vị Thiên Chúa tạo thiên lập địa (créationisme). Thực
vậy, một bên thì có những tín hữu – hiện nay phần lớn là thuộc
giáo phái Tin Lành ở Hoa-kỳ - cố bám chặt vào một ít văn từ của
Thánh Kinh, trong sách Sáng thế, chương I, nói rằng Thiên
Chúa sáng tạo ra các sinh vật, loại nào ra loại ấy. rồi cho rằng
các loại sinh vật đều có hình dạng cố định ngay từ đầu
(fixisme). Trái lại, bên kia thì có thuyết biến hóa. Nói cho
đích xác thì trong buổi đầu, ông tổ là Charles Darwin
(1809-1882) viết sách về nguồn gốc các loại sinh vật (1859) đã
đưa giả thuyết biến hóa đó ra trong phạm vi chương trình nghiên
cứu của ông, với mục đích là để giải thích sự biến chuyển hạn
hẹp từ loại này sang loại khác mà thôi. Sau đó thì Herbert
Spencer (1820-1903) chủ trương là nên nới rộng và tổng quát hóa
lối giải thích ấy ra cho toàn thể các sinh vật. Thế là thuyết
biến hóa đã thành hình.
Hai lập
trường có vẻ thật mâu thuẫn nhau, cho nên người ta thấy hình như
phải chọn một trong hai : thuyết biến hóa hay là quan
niệm tạo thiên lập địa.
Nhưng mâu
thuẫn là thế nào ? Nói cho cùng thì ta chỉ có thể nói tới sự mâu
thuẫn, khi có hai sự kiện hay hai lý thuyết trái ngược nhau mà
lại cùng nằm ở trong một phạm vi, cùng được đề cập theo một quan
điểm, cùng được xét theo một tiêu chuẩn, hay là theo một cách
thức đo lường. Ví dụ ta không thể nói cái cảm giác về thời gian
lâu hay chóng (thuộc phạm vi tâm lý) có mâu thuẫn hay không với
cái chiều không gian vắn hay dài (thuộc phạm vi đo lường của
khoa học).
Như thế thì
sao có thể so sánh giữa một bên là niềm tin về những điều không
thuộc về phạm vi hình sắc, một bên là những quan sát và lý luận
khoa học, mà nói có hay không có mâu thuẫn ? Lý thuyết là như
thế đó, nhưng khi nói lên lập trường về một hiện tượng cụ thể
thì khó mà tránh mâu thuẫn giữa hai câu « hình dạng các sinh vật
là cố định » và « hình dạng các sinh vật không cố định », nhưng
có biến hóa (évolution), vì khi nói suông như thế người ta
thường không nhận ra rằng hai câu này vẫn còn tựa vào hai tiêu
chuẩn khác nhau. Vì thế nếu muốn luận lý cho chặt chẽ thì chỉ có
thể có mâu thuẫn giữa hai lập trường « hình dạng các sinh vật là
cố định » và « hình dạng các sinh vật không cố định » ; chứ quan
niệm tạo thiên lập địa không trực tiếp liên quan đến thuyết biến
hóa.
Xét chung về
mặt lý thuyết thì thuyết biến hóa và quan niệm tạo thiên lập địa
không cùng nằm trong một phạm vi, không theo một quan điểm hay
một tiêu chuẩn, cho nên khó mà so sánh để nói có mâu thuẫn với
nhau hay không. Vì lý do sau đây. Một bên thì quan niệm tạo
thiên lập địa đặt vấn đề trên bình diện siêu hình học : vạn
vật tựa vào nền tảng nào mà có. Về cái câu hỏi không thuộc
về phạm vi khoa học này, thì người ta tự chọn lấy lập trường
tiên kiến : người thì cho rằng vạn vật tự nhiên có như thế,
người thì cho rằng có một vị thượng trí nào đó, khác hẳn vạn
vật, đã làm nền tảng cho nó có đó. Còn bên kia là thuyết biến
hóa thì đứng trong phạm vi khoa học, cho nên không có ý
tìm xem vạn vật tựa vào nền tảng nào mà có, nhưng chỉ tìm xem
vạn vật đã có đó rồi thì vận chuyển biến hóa như thế nào, và
đặt ra các định luật làm giả thuyết để giải thích và kiểm chứng
xem đúng hay sai.
Cho nên khi đứng trong bình diện khoa học mà xét về sự biến hóa
của vạn vật đã có đó, thì những người có quan điểm khác nhau về
nền tảng của vũ trụ đều có thể bàn bạc như nhau về các định luật
khoa học, theo một tiêu chuẩn như nhau, không ai khoa học hơn ai.
Muốn hạn hẹp
cái vẻ mâu thuẫn giữa hai lập trường, có người đưa ra nhận xét
sau đây : những chân lý do Thiên Chúa hay thần trí nào mặc khải
cho biết thì có tính cách chắc chắn, còn những giả thuyết cũng
như những định luật khoa học mà người ta tìm ra, tuy là có tính
cách tổng quát, nhưng lại chỉ là tạm thời, vì lẽ mỗi khi thấy có
một sự kiện đi ngược lại, thì phải đưa ra xét lại, vì giả thuyết
cũng như định luật không còn có giá trị tổng quát nữa. Nói như
thế cũng đúng một phần nào. Có điều là càng ngày người ta càng
thấy rằng thuyết biến hóa, tuy theo lý thuyết thì chưa phải là
chân lý vĩnh viễn, nhưng cũng không phải chỉ là một giả thuyết
giả tưởng vớ vẩn, vì thực ra nó giúp cho ta có được cái nhìn
tổng hợp về tất cảcác điều sở đắc về khoa sinh vật học.
Từ khi triết
gia người Pháp Henri Bergson (1859-1941) dùng từ ngữ « évolution
créatrice », nghĩa là « sự biến hóa có sáng tạo » thì người ta
dần dần thấy rằng hai khái niệm trên đây cũng không hẳn là hoàn
toàn mâu thuẫn. Đàng khác tín hữu đạo Ki-tô khi dùng chữ « sáng
tạo » hay « dựng nên » (création), thì thường cho kèm thêm từ
ngữ « duy trì » hay là « gìn giữ » (conservation) ; như thế là
vì có ý nói rằng công việc sáng tạo của Thiên Chúa không phải
chỉ là việc đầu tiên trong khoảnh khắc làm cho có vạn vật, rồi
sau đó vạn vật tự nó biến hóa, nhưng là một việc lâu dài trong
thời gian, gồm cả sáng tạo lẫn duy trì. Như vậy phải chăng hai
khái niệm « sáng tạo » và « biến hóa » lại cũng chỉ là một ?
Phải chăng sự biến hóa làm nảy nở ra những hình thể mới, lại
cũng chỉ là sự sáng tạo, hay nói cho rõ hơn : lại cũng chỉ là sự
« sáng tạo đang tiếp tục » (création continue) ? Chẳng lẽ
biến hóa hay là sáng tạo thì cũng là như nhau ?
Vậy muốn
tránh cái tệ « ông nói gà, bà nói vịt » thì cần phải xác định
các khái niệm « biến hóa » và « tạo thiên lập địa » (création)
trong phạm vi và tiêu chuẩn riêng của chúng.
Ở đây tôi thấy không cần đi sâu vào cuộc tranh luận giữa hai
lập trường không cùng nằm trong một phạm vi như thế
,
nhưng chính vì thuyết biến hóa có thể làm điểm tựa cho một quan
niệm về vận mệnh con người, cho nên thiết tưởng cũng nên tiếp
theo thuyết biến hóa mà đặt vấn đề tiến hóa và vận mệnh con
người.
1 - Thế nào là biến hóa ?
Trong một đoạn văn trong sách
Le phénomène humain (Hiện tượng con người), viết vào khoảng
giữa năm 1938 và năm 1940, một linh mục người Pháp là nhà nghiên
cứu cổ vật học, Pierre Teilhard de Chardin (1881-1972), có
viết : « về sự kiện biến hóa nói chung chung thì ngày nay các
nhà nghiên cứu (…) đều đồng ý cả »,
nhưng họ vẫn còn bàn luận chưa giải quyết xong hai vấn đề : một
là cách thức biến hóa của các sinh vật, hai là hướng đi của sự
biến hóa.
Luận điệu
như thế có thể làm cho ta ngạc nhiên. Thực vậy, nếu ta chưa biết
hướng đi của sự biến hoá vì đó là vấn đề tương lai, thì thật dễ
hiểu ; nhưng nếu ta không tìm ra guồng máy hay là cách thức biến
hóa của các sinh vật, từ loại này sang loại kia, từ ngành này
sang ngành khác, thì đã chắc gì là có biến hóa, nhất là khi sự
biến hóa không phải là một sự kiện mà ta trực tiếp quan sát
được. Vậy biến hóa là sự kiện hiển nhiên, hay chỉ là một quan
niệm, một ý tưởng trong đầu óc chúng ta ?
Trong sách
Bài học về triết học thực nghiệm,
ông tổ của thuyết thực nghiệm (positivisme) là Auguste Comte
(1798-1857) có viết : « Nếu trong khi quan sát các hiện tượng mà
ta không đưa chúng về một vài nguyên lý, thì không những ta
không có thể thâu góp những quan sát rời rạc lại với nhau, và vì
thế cũng không đi tới kết quả nào cả, mà rồi ta cũng hoàn toàn
không có thể nắm được chúng ; và thường thường thì ta cũng không
nhận ra sự kiện nào cả ». Nói thế khác, cũng phải có sẵn một vài
ý tưởng lý thuyết, rồi mới có thể nhận ra sự kiện loại này hay
loại khác, nhất là về sự biến hóa. Đủ biết nếu chủ trương chỉ
căn cứ vào kinh nghiệm mà thôi, thì kinh nghiệm chỉ gặp những cá
vật đặc thù, rời rạc, cho nên không ai có thể nói lên được cái
gì tổng quát cả.
Nói cho cùng
thì không có sự kiện nào là tuyệt đối, nằm sẵn đó một cách khách
quan, nhưng chỉ có những sự kiện tương đối, hoặc là tùy thuộc
vào giác quan của mỗi người, hoặc là tùy thuộc vào những ý tưởng
lý thuyết mà người ta đồng ý công nhận với nhau. Vì thế ngoài
một số ý tưởng có tính cách thơ mộng, như trong các truyện trẻ
em hay là trong áng văn De rerum natura (Về bản tính của vạn
vật) của nhà văn La-tinh Lucretius (98-55 trước Công
Nguyên), thì ngày nay cũng như trong mấy nghìn năm trước đây,
không có ai thấy rằng các sinh vật biến hóa từ loại này sang
loại khác, mà chỉ thấy rằng tự nhiên thì loại nào sinh ra loại
ấy. Nói thế khác, biến hóa không phải là một sự kiện mà giác
quan ta trực tiếp thâu nhận được, nhưng là một cấu trúc lý
thuyết mà người ta đặt ra để giải thích và tổng hợp vô số những
điều quan sát khác nhau.
1.1 – Biến hóa là có thay đổi
Vạn vật
trong trời đất có thay đổi, đó là điều ai nấy ở đâu đâu cũng
đều nhận ra, và cái gì biến hóa cũng phải có thay đổi. Một trong
tứ thư của Khổng học là Kinh Dịch, bàn về sự thay đổi
trong trời đất. Cũng vào thời Thượng cổ đó thì ở đất Hi-lạp cũng
có Hêrakleitos nhận định rằng vạn vật thay đổi, « vạn vật đều
trôi chảy ». Ai cũng thấy như thế.
Tuy vậy
trong cuộc sống người ta phải có dự định, tính toán công việc
trước sau, phải dự tính qua loa được hiệu quả của hành động. Vì
thế nếu các hiện tượng trong thế giới lại nay thế này mai thế
khác, rời rạc, vô thường, không theo qui tắc gì cả, thì ta không
thể hiểu gì được, cũng không sống được, vì không có thể trù tính
được gì cả, mà có hoạt động thì cũng không biết kết quả sẽ ra
sao. Aáy là nếu ta còn nhận ra « ta », chứ nếu chính cái « ta »,
cái « bản ngã » cũng không nhận ra nốt, thì không có vấn đề gì
hết, vì có ai nữa đâu mà đặt vấn đề !
Vì thế chính trong các hiện tượng
mỗi lúc mỗi khác, người ta phải tìm ra những cái gì kha khá vững
bền để làm tiêu chuẩn cho hoạt động. Ví dụ dưới những hình thức
khác nhau, lúc động lúc tĩnh, khi co khi dãn, ta vẫn nhận ra là
một sự vật, là một nhân vật ; có nhận ra cái gốc (bản thể) như
thế ta mới nói được rằng sự vật hay nhân vật ấy đã thay đổi, nếu
không như thế thì đó chỉ là một mớ hiện tượng nối tiếp nhau một
cách rời rạc không liên quan gì với nhau. Để đánh dấu cái gốc
hay cái bản thể đã nhận ra,
ta đặt cho nó một cái tên riêng, ví dụ như : « (con chó)
Mực ». Có thỏa thuận đặt tên như thế thì ta và người khác mới
hiểu như nhau là mình cùng nói về cái gì. Thế rồi đối với những
sự vật giống nhau, thì người ta xử lý với chúng theo một kiểu
cách nhất định, xếp chúng thành một loại và đặt cho chúng một
cái tên chung ví dụ như : « con chó ». Cũng thế, người
ta đặt cho các đặc tính của sự vật mỗi thứ một tên nhất định, ví
dụ như : « xanh », « đỏ », « cứng », « mềm » . Có thế mới có thể
thông đồng tư tưởng được với nhau. Có đặt tên cho đúng, có
« chính danh », thì thế giới ta nhìn mới có trật tự, không còn
hỗn độn, có thế ta mới tránh được nhiều cái hiểu lầm, mới có thể
nói truyện được với nhau, mới chung sống được với nhau.
Vì thế khi
dùng ngôn từ, thì tự nhiên là ta phân loại và tổng quát hóa.
Nhìn thoáng qua một sự vật X, nếu ta gọi nó là con chó, thì cho
dù ta chưa trông thấy kỹ càng, ta đã xếp nó vào loại “chó” và
gán cho nó các đặc điểm của “chó”. Cũng vậy, khi ta thấy một
người thuộc loại A đã làm công việc B (ví dụ tội ác), thì nếu
không dè chừng, ta rất dễ tổng quát hóa, mà cho rằng người thuộc
loại A đều là phường tội ác B cả. Có biết khoa luận lý học, ta
mới tránh được sai lầm như thế.
Cho dù là có
như thế đi nữa, thì khi người ta nói lên cũng vẫn còn có thể vô
tình hay hữu ý nói lên không đúng hẳn, và người nghe vẫn có thể
hiểu trệch đi. Nhưng nếu lại chủ trương ngược lại rằng đừng dùng
ngôn ngữ nữa – có người gọi đó là « vô ngôn » – cũng có thể
thông đồng tư tưởng và hiểu nhau một cách sâu xa được, thì hỏi
là hiểu được cái gì, lấy gì làm bằng chứng, và biết đâu trong
trường hợp đó người ta thực ra lại chẳng thông đồng gì cả, và
cũng chẳng có gì để hiểu, để thông đồng cả, vì cái gọi là sâu
xa, biết đâu lại chỉ là một cái lỗ hổng không đáy, tối đen như
mực, không ai dò biết được gì cả.
Khi nói đến
sự thay đổi thì phải căn cứ vào hai điểm : 1) cái gì
thay đổi ? và 2) thay đổi ở chỗ nào ? Ví dụ khi ta nói
với người bạn : « Anh đã thay đổi nhiều », tức là ta nhận ra
người ấy chẳng hạn trước đây « mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh
bao », mà bây giờ thì « tóc bạc da mồi », « khố rách áo ôm »,
nhưng đồng thời ta nhận ra vẫn là một người ấy. Cái vẫn là một
ấy là cái gốc, cái « bản thể » (substance), còn những cái không
còn là một như xưa thì triết học gọi là cái « tùy thể »
(accidents).
Triết gia
Hi-lạp thời Thượng cổ là Aristotêlês (384-322 trước CN) đã phân
biệt ra hai thứ thay đổi. Thay đổi loại thứ nhất thì động chạm
đến chính cái bản thể, ví dụ như sự sinh hay sự diệt, sinh ra
hay là hư nát đi (génération, corruption). Thay đổi loại thứ hai
thì không động đến bản thể (sự vật vẫn còn đó), nhưng chỉ động
tới những cái tùy tùng (accidents). Loại này lại có nhiều hạng :
khi sự vật lớn lên hay là nhỏ lại, thì tức là có thay đổi vể
lượng thể (quantité) ; khi sự vật ra khác đi (altération), thì
là thay đổi về phẩm thể (qualité) ; ngoài ra sự vật có thể không
thay đổi về lượng hay về phẩm, nhưng thay đổi vị trí
(mouvement).
Bây giờ ta
xem kinh nghiệm của ta về sự thay đổi gồm có những yếu tốâ nào.
Muốn thế, ta sẽ lần lượt xét về sự vật và về chủ thể.
Xét về mặt
sự vật,
nếu nói rằng nó có thay đổi, thì tức là ta phải nhận thấy trong
sự vật ấy có một cái gì trước sau vẫn thế, đồng thời cũng
phải nhận ra có những điểm trước sau không như nhau. Nói
thế khác, phải nhận ra cái gì vẫn là một (identité) và
cái gì đã ra khác (altérité), không có yếu tố thứ hai thì
không có thay đổi, mà không có yếu tố thứ nhất thì không
có gì thay đổi cả.
Sau khi xét
theo quan điểm sự vật, thiết tưởng cũng nên ghi nhận rằng nhiều
khi ngôn từ làm cho ta lầm tưởng rằng đối vật mà ta nói tới thì
vẫn là một cái gì có thể xác định rõ ràng. Ví dụ như khi ta
nói : « Giới thanh niên đã thay đổi », « Nếp sống
đã thay đổi », « Sự sống đã thay đổi », v.v., thì thực
ra ta chỉ thấy có nhiều người, nhiều con vật, nhiều cây cỏ khác
nhau đã nối tiếp nhau, không có cái nào biến thể, chứ ta không
thấy rõ cái gì là cái giới thanh niên, cái nếp sống
hay sự sống, trước sau vẫn là một như thế, đồng thời
trước sau lại không như nhau.
Nay ta
xét về mặt chủ thể, nghĩa là xét theo quan điểm của con
người đang từ bên ngoài quan sát sự vật. Nếu nói lên được rằng
sự vật có thay đổi, thì tất nhiên con người phải là một chủ thể
trước sau vẫn là một, có trí nhớ, vừa nhớ được cái trước, vừa
nhận được cái sau, quán xuyến được tất cả, cho nên có thể tổng
hợp trong cùng một sự vật cái hình dạng mình đã thấy khi trước
và cái hình dạng mình mới thấy lúc sau. Khi đứng trước hai tấm
hình, một hình đứa trẻ còn mặc quần thủng đũng, một hình ông lão
tóc bạc phơ, thì người ngoại cuộc thấy là hai cái khác nhau, còn
người trong cuộc thì biết rằng cả hai hình trước sau đều là hình
của chính mình – trước sau cũng vẫn là mình – và vì thế nhận ra
là mình đã thay đổi nhiều.
Nên chú ý là : nếu phải có chủ thể trước sau vẫn là một, mới có
thể nói về sự vạn vật thay đổi, thì có vấn đề thật là nan giải
mà ít ai nghĩ đến, nó là như sau : một đàng thì thuyết biến hóa
chủ trương vạn vật biến hóa rất chậm, phải hàng vạn hàng triệu
năm mới thay hình đổi dạng, một đàng thì con người ta chỉ sống
chừng vài chục năm, hay là hơn kém một trăm năm, như thế thì tìm
đâu ra một chủ thể sống hàng vạn hàng triệu năm, trước sau vẫn
là một, để quan sát và nói lên những cái thay đổi của vạn vật ?
Nếu cho rằng có con người hay là không có con người quan sát,
vạn vật vẫn cứ biến hóa một cách khách quan, thì cũng phải có ai
đó là “khách đứng bên ngoài mà xem”, cũng phải có ai khác biết
và nhìn được hết tất cả mới nói lên được như thế.
Nói thế
khác, sự biến hóa của vạn vật không phải là một sự kiện mà ai
nấy đều quan sát được, nhưng là kết quả tạm thời của những giả
thuyết và lập luận lý thuyết xây dựng trên một số sự kiện đã
quan sát được.
1.2 – Thay
đổi chưa hẳn đã là biến hóa
Nhìn vào các
sinh vật ta thấy thật là chúng có thay đổi, có phát triển từ một
tế bào rất nhỏ, cho đến khi trưởng thành thì hình dạng rất khác
lúc ban đầu, nhưng ta thấy mỗi loại đều theo một chương trình
phát triển riêng, loại nào ra loại ấy, rồi thôi, ví dụ ta không
thấy con khỉ nào biến thành người, không thấy con cá nào biến
thành loài sống trên cạn, không thấy con cóc nào biến thành cô
công chúa đẹp đẽ như trong truyện trẻ em. Có người chủ trương
rằng các đợt phát triển sinh lý của loài động vật cao cấp
cũng chính là những đợt biến hóa của sự sống hay sức sống
trong thời gian hàng triệu năm. Nhưng như thế chỉ là so sánh
giữa những cái thay đổi hay phát triển mà ta
quan sát được trong thời gian ngắn ngủi, với một giả thuyết
mà ta phỏng đoán về những cái biến hóa có
thể xảy ra trong một thời gian hàng triệu năm, dài hạn hơn đời
sống của ta bội phần. Vì thế, thay đổi hay phát triển chưa hẳn
đã là biến hóa sang loại khác.
Tuy vậy
chính các đợt phát triển của con người ta về các mặt sinh lý,
tâm lý và văn hóa đã gợi cho người ta cái mô hình để quan niệm
cuộc biến hóa tổng quát của các sinh vật. Như ta biết, mãi tới
thế kỷ XIX thì thuyết biến hóa mới được đưa ra trong phạm
vi sinh vật học, nhưng trước đó thì ai nấy đều công nhận con
người cũng như các xã hội đều đã có phát triển rất nhiều.
Như thế là lịch sử con người (histoire humaine) đã gợi ra cho
các nhà khoa học một số ý kiến để quan niệm một lịch sử thiên
nhiên (histoire naturelle).
1.3 – Biến
hóa : sự kiện hay là lý thuyết ?
Câu trả lời
đã được nói hở ra trên đây : biến hóa không phải là một sự kiện
hiển nhiên mà ta quan sát được, nhưng là một lý thuyết. Tuy vậy,
muốn nói cho đủ ý, phải nhắc lại rằng sự kiện và lý thuyết bao
giờ cũng phải đi đôi với nhau. Thực ra thì ta biết có nhiều sự
kiện rời rạc, tự nó không đưa đến quan niệm biến hóa, nhưng khi
ta muốn có một cái nhìn tổng hợp về các sự kiện tản mát trong
thời gian và không gian đó, thì ta đưa ra một lý thuyết để giải
thích và giải thích thêm cả những sự kiện ở ngoài vòng kinh
nghiệm của ta, ta phỏng đoán một cách tổng quát là tất cả các sự
kiện đều ăn khớp với nhau theo một qui luật lý tưởng. Lúc đó các
sự kiện trước đó rời rạc mới xuất hiện như là thành phần của một
lịch trình biến hóa của các sinh vật. Sau đây ta sẽ xem lý
thuyết biến hóa đã đi từ những sự kiện rời rạc mà thành hình như
thế nào.
Sự kiện đầu tiên về các sinh vật là loại nào sinh ra loại ấy. Ai
cũng nhận như thế, vì, như vừa nói trước đây, ngoài những truyện
trẻ em ra, thì không ai thấy người bởi khỉ mà ra,
không ai thấy người sinh ra cóc hay là cóc biến thành cô tiên
đẹp đẽ. Cho nên khi nói đến việc Thiên Chúa tạo thiên lập địa
thì người ta tự nhiên quan niệm rằng ngay từ đầu các sinh vật đã
có hình dạng cố định.
Nhưng kinh
nghiệm bao giờ cũng có tính cách hạn hẹp và đồng thời không có
tính cách tất nhiên. Ta đã kinh nghiệm thấy như thế này, nhưng
chắc gì là trước sau và đâu đâu cũng vẫn như thế ? Nhà khoa học
Pasteur đã thí nghiệm thấy rằng sinh vật không bộc phát từ chỗ
không có sự sống. Nhà khoa học Wirchow đưa ra nguyên lý “omnis
cellula e cellula” nghĩa là “các tế bào đều từ tế bào mà phát
sinh”. Nhưng kinh nghiêïm của họ thì có hạn : chắc gì là ở các
nơi khác, các lúc khác, cũng vẫn phải như thế mãi ?
Tuy vậy kinh nghiệm về hình dạng cố định của sinh vật đã là nền
tảng cho phép phân loại trong khoa thực vật học do Carl von
Linné (1707-1778) đưa ra. Ai cũng thấy là loại nào thì sinh ra
loại ấy với hình dạng cố định. Cho nên đã có một thời khoa học
giải thích rằng hình dạng các sinh vật đều đã có sẵn đầy đủ ngay
trong hạt giống, rồi phát triển lớn ra. Từ đó người ta quan niệm
các sinh vật là như cái hộp đựng hạt giống : hộp lớn đựng sẵn
hộp nhỏ, rồi hộp nhỏ lại đựng sẵn hộp nhỏ nữa, và cứ như thế mãi
mãi. Chính vì trong giới khoa học đang có quan niệm như vậy,
cho nên vào năm 1859 dư luận rất mực xôn xao, khi Charles Darwin
đưa ra một giả thuyết làm lý thuyết giải thích sinh vật biến hóa
từ loại này sang loại khác – người Pháp gọi “loại” là “espèce”.
Cũng cần phải nói thêm là chữ “loại “ dùng ở đây cũng chỉ có
phạm vi rất hẹp, vì đây là chỉ mới bàn về loại dưới cùng, mà chứ
chưa dám nói đến các loại trên, như sau này Spencer sẽ đề nghị
một cách tổng quát. Ngoài ra người ta vẫn nhận định rằng hễ khác
loại (espèce) thì không pha giống được. Cho nên nếu bảo là có
thể biến hóa từ loại này sang loại khác, thì đó là một điều còn
mới mẻ, cho nên chưa dễ có ai vội vàng chấp nhận ngay mà không
kiểm chứng..
Trước khi
nhận định về lý thuyết của Darwin, cũng nên chú ý rằng thời đó
cũng đã có hai sự kiện gây ra khó khăn cho quan niệm chủ trương
rằng hình dạng sinh vật là cố định, và như thế là gợi cho người
ta ý niệm biến hóa. Một là : chính các nhà cổ vật học đã
quen có quan niệm cố định, cũng phải nhận định rằng khi khai
quật các cổ sinh vật thuộc các thời đại khác nhau, thì thấy rằng
những loại sinh vật đơn sơ hơn thì đã có trước những loại phiền
phức hơn, và cũng thấy có những loại mà ngày nay không còn nữa.
Hai là : trái lại với quan niệm cho rằng hình dạng các
sinh vật đã cố định ngay từ trong trứng, trong hạt giống, thì
khi quan sát sự phát triển của quả trứng gà, người ta thấy rằng
con vật có tổ chức rất phiền phức đã từ quả trứng có tổ chức đơn
sơ mà ra.
Để giải
thích hai sự kiện ấy, giải pháp thứ nhất là cho rằng vật
chất vô tri vô giác có thể bộc phát thành ra sinh vật, nhưng như
thế thì cũng khó xuôi, sau những thí nghiệm của Pasteur. Vì giải
pháp ấy cũng là như chủ trương cái phép thần thông làm cho cái
không sinh ra cái có.
Giải pháp
thứ hai
là cho rằng
Thiên Chúa hay là Hóa công đã tác tạo kế tiếp nhau hàng vạn hàng
triệu lần, mỗi khi có xuất hiện một loại sinh vật mới. Nếu quan
niệm rằng sự tác tạo là một tác động chốc lát, thì phải nhận
giải pháp thứ hai này. Nhưng như vậy thật là mệt mã và bận rộn
đối với Thiên Chúa hay Hóa công, đồng thời cũng là đứng ra ngoài
phạm vi khoa học.
Còn lại
giải pháp thứ ba, cho rằng loại cũ sinh ra loại mới. Thoạt
nhìn thì có vẻ như pháp thuật, vì chưa bao giờ có ai thấy loại
này biến ra loại khác. Nhưng nếu ta căn cứ vào sự kiện là trong
khi các sinh vật có đực có cái sinh sôi nảy nở, thì con không
hoàn toàn giống bố hay giống mẹ, nhưng có khác đi một chút.
Darwin căn cứ vào đó và suy luận ra rằng : nếu thế hệ sau khác
thế hệ trước một chút, thì sau nhiều thế hệ những cái biến thể
nho nhỏ – gọi là variation, variété – chồng chất lên nhau
có thể đưa tới một loại khác hẳn, không pha giống được với loại
cũ nữa.
Điều khó
khăn cho Darwin là cho đến nay những cái biến thể nho nhỏ vẫn
còn nằm ở trong khuôn khổ của một loại dưới cùng (espèce).
Tuy vậy ai cấm người ta hi vọng rằng biết đâu lại chẳng có thể
đi đến chỗ đổi ra loại khác ?
Trong khi
chờ đợi có thêm chứng lý thì ta thấy có hai ý kiến có thể biện
bạch cho thuyết biến hóa. Một là : hệ thống phân loại
sinh vật ra theo nhiều cấp bậc làm cho ta liên tưởng đến hệ
thống cha truyền con nối, bắt đầu từ một ông tổ : cấp trên sinh
ra cấp dưới, như trong gia đình. Hai là : khoa cổ vật học
cho ta thấy là sinh vật cấp trên, đã có trước, thì đơn sơ hơn,
mà sinh vật cấp dưới, đã có sau, thì phiền tạp hơn. Hai ý kiến
đó chập lại với nhau làm cho ta có thể tưởng tượng ra rằng các
sinh vật có thể là cùng do một nguồn gốc mà sinh ra, và cứ sau
mỗi thế hệ thì cơ thể của chúng lại phiền tạp hơn. Như thế mỗi
loại chỉ là một trạm dừng tạm thời – và dừng rất lâu – của cuộc
biến hóa. Đó là đại ý thuyết biến hóa. Xét lý thì nó không hẳn
là vô lý, nhưng vẫn chỉ là lý thuyết, cho nên còn cần phải kiểm
chứng.
Việc kiểm
chứng không phải là dễ như trở bàn tay. Vì trong thực tại mà ta
quan sát được thì chỉ thấy những sự kiện không có liên tục. Xét
theo cổ vật học thì những loại cấp trên cấp dưới khác nhau đã
được khai quật, tuy có thể minh chứng rằng cái đơn sơ có trước
cái phiền tạp, nhưng lại ở những địa điểm khác nhau, cho nên làm
sao mà nói được rằng cái này sinh ra cái kia. Ngoài ra thì dù có
xét trong chiều dài của thời gian hay là xét trong thời điểm
hiện tại, thì các loại sinh vật mà ta tìm ra vẫn cách biệt nhau,
không pha giống được. Nếu không chứng thực được gì hết mà cứ bảo
rằng đùng một cái là có thể nhảy vượt bực, thì cũng như là tin
phép thần thông biến hóa, như trong một số tôn giáo.
Vì thế
thuyết biến hóa chỉ còn một giải pháp, đó là cho rằng những cái
biến thể nho nhỏ (variation) cứ chồng chất lên mãi thì sẽ
làm cho sinh vật chuyển dần sang loại khác. Quan niệm này đã
được tăng cường do thuyết biến dịch của nhà khoa học
Hòa-lan, Jan de Vries (Mutationstheorie, 1901-1903). Oâng
này cho rằng mình đã quan sát được rằng sinh vật có thể nhảy
vượt bực từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng những cái nhảy
vượt như thế thì rất họa hiếm, đồng thời cũng lại chỉ là những
cái nhảy rất nhỏ. Một khi đã tạm nhận lý thuyết như thế thì vấn
đề quan trọng cần phải giải quyết trong thực nghiệm là làm sao
tìm cho ra trong chặng đường biến hóa những mắt xích còn thiếu (chainons
manquants), để nối kết hai loại cách biệt, không pha giống
được. Nếu không tìm ra những mắt xích còn thiếu, thì không thể
nói là có biến hóa thực sự. Ngược lại, nếu tin rằng có những mắt
xích còn thiếu mà mình phải tìm cho ra, thì lại chính là vì
người ta đã tiên nhận giả thuyết là có biến hóa ! Thật là cái
vòng quẩn !
Vấn đề đã
đành là khó giải quyết, nhưng nếu chỉ có chuyển biến lung tung,
đi rồi lại lui, không theo phương hướng hay qui tắc nào cả, thì
làm sao có thể biến hóa được ?
Darwin cho
rằng cái động lực của sự biến hóa là sự thích nghi (adaptation)
tùy theo môi trường sinh hoạt, để có thể tồn tại và sống sót.
Oâng gọi nó là “tự nhiên đào thải”. Chữ “đào thải” ở đây là
“sélection” có nghĩa là “lựa chọn”, dùng nó một cách mập mờ như
thế làm cho người ta nghĩ rằng sinh vật có cái ý thức hay dự
định muốn thích nghi để tồn tại. Để tránh cái hiểu
lầm đó, Darwin phân trần ngay rằng những cái thay đổi đều là
ngẫu nhiên, chứ không hề có ai lựa chọn gì cả. Khi viết sách
về nguồn gốc các loại sinh vật thì ông viết ngay dưới đầu đề
cuốn sách là ông bàn về “sự tồn tại của những sinh vật khéo
thích nghi hơn cả”. Nhưng nói như thế cũng lại chỉ là cái vòng
quẩn, không có nội dung gì cả, vì rằng ông gọi “những cái tồn
tại được” là “những cái khéo thích nghi hơn cả”. Cho nên câu ông
nói tựu chung chỉ là thế này : “sự tồn tại của những vật tồn tại
được” !
Thuyết biến
hóa của Darwin đã có tiếng vang dữ dội, nhiều người công kích,
nhưng cũng có nhiều người theo gót, cho đó là tiến bộ. Dù sao,
nói chung chung thì viễn tượng có vẻ sáng sủa rõ ràng, nhưng có
đi vào từng chi tiết mới thấy là không thiếu gì những vấn đề
then chốt chưa giải quyết xong.
Vấn đề thứ nhất là cái “gia phả”
của các sinh vật. Trong sách Cuộc biến hóa của loài người,
Roger Lewin viết : “Từ đầu thế kỷ cho đến nay các quan niệm về
liên quan họ hàng giữa loài người và các loài khỉ lớn đã thay
đổi từ căn bản”,
nghĩa là không còn ai biết chắc loài khỉ nào gần loài người hơn
cả và có thể đã chuyển biến thành người.
Aáy là chưa nói đến liên quan họ hàng giữa các sinh vật khác.
Vấn đề khác
quan trọng hơn nữa là nếu ta tìm ở đâu đó ra được một loại X làm
mắt xích ở giữa loại A và loại B, thì không những ta phải xét
xem, về thời điểm và địa điểm, A có thể biến thành X và X có thể
biến thành B hay không ; mà hơn nữa còn phải tìm ra vô số mắt
xích khác nối A với X, X với B một cách liên tục. Như thế thì
bao giờ kiểm chứng được cho đầy đủ ? Để tránh vấn đề nan giải
này, người ta đưa ra giả thuyết rằng đã có những vụ động đất dữ
dội làm tan hết các di tích về các loại trung gian. Thế là hết
truyện, khỏi phải tìm chứng cớ lôi thôi. Nhưng chính vì không
thể kiểm chứng được, cho nên vấn đề này không còn nằm trong phạm
vi khoa học nữa.
Xem như thế
ta thấy thuyết biến hóa là kết quả của một số giả thuyết mà các
nhà khoa học dùng để tổng hợp các sự kiện tự nó vốn rời rạc, làm
thành một hệ thống tổng quát hợp lý, nhưng còn để trống nhiều
chi tiết chưa tìm ra, đồng thời lại gây ra nhiều vấn đề nan
giải. Có điều là, như Teilhard đã viết, cũng trong đoạn văn đã
dẫn trên đây, nếu bỏù thuyết đó ra, thì chưa ai tìm được một lý
thuyết khoa học khác có thể dùng để mô tả toàn thể vũ trụ một
cách nhất quán, hữu lý và có mạch lạc hơn. Vì thế cho nên không
thể coi thuyết biến hóa như là một giả thuyết tầm thường, do
tưpûng tượng vớ vẩn mà ra.
Cũng nên chú ý là khoa học thực nghiệm đã bắt đầu với môn vật lý
học, cho nên chỉ cần dùng có một nguyên lý nhân quả để giải
thích mà thôi. Đến khi nghiên cứu về loài vật và loài người, thì
tuy có biết rằng các loài đó có hoạt động tự chủ, tự quy, chứ
không phải là những cái máy, nhưng các học giả lại thường chỉ
dùng một nguyên ý nhân quả như đã quen trong vật lý học, vì cho
rằng nguyên lý cứu cánh (finalité) có tính cách chủ quan. Thật
đúng như thế, nếu ta nhân cách hóa thiên nhiên, gán cho thiên
nhiên những ý định như con người, thì ta làm sai nguyên tắc.
Nhưng nếu con người là chủ thể, biết đặt ra cứu cánh hay mục
đích để theo đuổi, mà ta lại chỉ coi như là máy móc, thì cũng
lại là sai nguyên tắc nữa. Có ai tìm hiểu con người, xã hội và
lịch sử, mà lại không nói đến dự định, cứu cánh, hay ẩn ý ?
Nhưng nếu xét đến quan điểm và dự định của con người thì tức là
ta phải vượt ra bên ngoài phạm vi vật lý học
.
(còn tiếp)
__________
Chú thích
Chính vì không biết phân biệt phạm vi khoa học với siêu hình
học và tôn giáo, cho nên một số người lẫn lộn tiêu chuẩn
chân lý của hai bên, làm hại cho cả khoa học lẫn tôn giáo.
Một bên thì có người gây ra mâu thuẫn giả tạo, làm cho nhà
khoa học chê tôn giáo là không khoa học. Một bên khác thì
lại có người chạy theo khoa học, lấy khoa học làm tiêu chuẩn
cho tôn giáo, rồi cho rằng tôn giáo này hay tôn giáo kia có
tính cách khoa học, và nói lên những chân lý khoa học. Họ
muốn gán cho tôn giáo cái uy tín của khoa học, mà quên rằng
đó là hai phạm vi chân lý khác nhau. Làm như thế chỉ là
« lấy râu ông cắm vào cằm bà ». Thiết tưởng thay vì tranh
luận vô ích, ta chỉ cần hỏi họ xem những nguyên tắc tôn giáo
đó đã sinh ra phương pháp khoa học như thế nào và vì sao các
nhà lãnh đạo tôn giáo đã không chuyển thành những nhà khoa
học. Hơn nữa, nếu tôn giáo chỉ nói lên những chân lý khoa
học mà thôi , thì khi có khoa học rồi, ai còn cần đến tôn
giáo đó nữa ?
Về cuộc tranh luận sôi nổi này, tạp chí Le nouvel
Observateur , có trình bầy tỉ mỉ trong số đặc biệt ngoại
lệ xuất bản vào tháng 12/2005 và tháng 1/2006, với nhan đề
là « La Bible contre Darwin (Entre débat scientifique et
combat politique, les évangélistes partent à l’assaut de la
société américaine. Les dérives créationnistes en France) »,
83 trang.
Oeuvres (Tác phẩm toàn tập), t. 1, in năm 1955, trang
153.
Cours de philosophie positive, Paris, Garnier, 1909,
trang 15.
Tiếng Pháp gọi biến hóa là « évolution », gọi thay đổi là
« changement ».
Người Pháp gọi cái bản thể là « substance », và đã khéo chọn
cái tên, cái danh-từ (« nom »), dùng để gọi nó là
« substantif ».
Teilhard de Chardin viết : « Khi tôi thử tưởng tượng ra vũ
trụ trước lúc bắt đầu có các sinh vật, hay tưởng tượng ra
các sinh vật vào thời cổ sinh vật học, thì tôi không quên
rằng khi tưởng tượng rằng có một Người đứng ngoài quan sát
các giai đoạn trước khi có xuất hiện ra tư-tưởng trên quả
đất này, như thế là có cái mâu thuẫn tầy trời. Tôi không tự
phụ rằng tôi mô tả các giai đoạn ấy đúng như đã có trước
đây, nhưng tôi chỉ nói rằng ta phải tưởng tượng ra như thế
cho nó phù hợp với cái vũ trụ đang có thật bây giờ đối với
ta : tôi không nói về quá khứ tự nó như thế nào, nhưng nói
về cái quá khứ dưới con mắt của chúng ta là người đứng ở cao
điểm biến hóa . » (Le phénomène humain, trang ).
Nhà khoa học người Pháp, Yves Coppens (sinh vật học, và cổ
vật học) có kể truyện rằng khi nghe ông nói về thuyết người
bởi khỉ thì bà nội của ông nói : « Mày có thể là bởi khỉ mà
ra, chứ tao thì không » !
Loại ở trên « espèce » là « genre », trên nữa là
« famille », rồi « ordre », « classe », « embranchement »,
và loại trên cùng gọi là « règne » chia ra thành ba là
khoáng vật, thực vật và động vật. Tuy khoa học phân biệt rõ
ràng các loại ra làm bẩy cấp như thế, nhưng trong ngôn ngữ
hằng ngày thì người ta không dùng đích xác như thế. Dù sao,
các danh từ chuyên môn đó – cũng như các từ : loại, hạng,
lớp, ban, ngành, v.v. trong tiếng Việt – và vị trí
trong các cấp bậc, thì là do các nhà chuyên môn khoa học
thỏa thuận xếp đặt với nhau.
L’évolution humaine, Paris, Seuil, Points-Sciences ,
N. 70, 1991, tr. 40.
Vì không biết chắc loài khỉ nào gần loài người hơn cả, cho
nên, để tránh không giải đáp vấn đề, người ta nghĩ không
nên nói người bởi khỉ, nhưng nên nói là khỉ và người cùng do
một ông tổ mà ra. Oâng tổ nào thì không ai biết, và có biết
đi nữa thì cũng lại phải giải đáp các vấn đề đặt ra trên
đây.
Tuy vậy vẫn còn có người muốn phủ nhận tự do của con người,
cho rằng đó chỉ là cái cảm giác chủ quan hoàn toàn do
vật chất gây ra. Nhưng trong lập trường như thế làm gì có
cái chủ quan ? Thiết tưởng vì thế nên nói : « nghiên
cứu con người », chứ không nên nói : « khoa học con người »,
vì khoa học con người chỉ nghiên cứu về mặt khách quan, đo
lường được, chứ không có cách nghiên cứu về chủ thể. Xem
bài : TVT, « Mấy nguyên tắc về khoa học con người », tạp chí
Nghiên cứu Con Người (Hà Nội), tháng 2 năm 2004,
trang 59-71, và bài « Liên quan nhân quả trong khoa học »,
trong số sau của cũng tạp chí đó
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ
XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1).
|
NGUYỄN HỌC TẬP
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
(
HDXHGH), với tư cách là yếu tố định hướng cho động tác xã
hội của Giáo Hội trong lãnh vực lịch sử, xã hội và văn hoá, cung
cấp cho nền thần học xã hội và cho tất cả các thành phần cộng
đồng Ki Tô giáo
- các định chuẩn
- và đường hướng nền tảng cho
việc giáo dục, chuẩn định và trung gian điều giải (
mediazione) văn hoá.
Để thấy rõ định hướng đó, chúng ta
có thể tra cứu tài liệu mới đây Lược Tóm Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội ( Compendio di Dottrina Sociale della Chiesa, CDSC)
- ngay ở phần dẫn nhập ( nn.
7.10),
- ở phần đầu ( nn. 60-71),
- nhứt là ở phần thứ 3 chương
XII ( Con người và các quyền của mình)
- cũng như ở phần kết luận.
Dưới nhãn quang đứng về phía phẩm
giá con người, HDXHGH có khả năng diễn giải phương thức tổ chức
xã hội
- có cấu trúc liên kết hợp nhứt
tổng thể toàn phần, chớ không phải theo chi tiết tách rời từng
mảnh vụn
- và đưa ra đề nghị toàn phần
để kiến tạo xã hội, đồ án có liên quan đến tất cả các phương
diện nền tảng về cuộc sống xã hội: cá nhân, cộng đồng trung gian
cũng như tổ chức quốc gia.
Đó là môt đồ án liên hệ nối kết
các yếu tố cấu trúc và liên hệ mật thiết với nhau được đặt trên
phẩm giá và trên giá trị thượng đẳng của con người.
Trong tiến trình khai triển lịch
sử của mình, HDXHGH nhấn mạnh và nói ra một cách minh bạch
- nhãn quang về con người
toàn diện ( homo integralis ) liên quan những phương diện
khác nhau của kinh nghiệm xã hội con người,
- ngay cả một đôi khi với những
khúc quanh phát triển mạnh mẽ và khác nhau, tùy theo những bối
cảnh văn hoá, lịch sử khác nhau, trong đó quyền huấn dạy của
Giáo Hội phải can thiệp vào.
Nhưng dù sao đi nữa những lần can
thiệp vừa kể là can thiệp
- nhằm phục vụ cho con người
được phát triển lớn mạnh trong những gì thiện hảo
- và xã hội được phát triển
chính đáng
1 - Chống thể chế độc tài
toàn trị.
Nhãn quang " con người toàn
diện trọn hảo " ( homo integralis) chính là nguyên lý đã cho
phép HDXHGH hơn 100 năm, mặc dầu với những giới hạn của mình,
vượt lên trên mọi biến chuyển của thời cuộc, vượt lên mọi quên
lãng sơ sót của mình, vẫn còn giữ được nơi mình đặc tính định
chuẩn cho cuộc sống xã hội con người.
Nhãn quang nhân loại luận
của HDXHGH được Thông Điệp Sollecitudo rei socialis ( SRS)
đúc kết qua các từ ngữ
- " Con người được Thiên Chúa
dựng nên giống hình ảnh Người và được cứu chuộc bởi Máu Thánh
Chúa Giêsu Ki Tô " ( SRS, n. 29).
Quan niệm đó đòi buộc các cách
hành xử của con người, tư nhân cũng như tổ chức công quyền, phải
là những cách hành xử chính đáng đối với phận vụ phải có cho
việc tôn trọng phẩm giá con người.
Và cũng từ đó, HDXHGH phát hoạ ra
ơn gọi con người như là
- ơn gọi trở nên trọn hảo,
giống như Thiên Chúa
- và bằng cách thực hiện điều
Chúa Giêsu đã làm.
Với những tư tưởng vừa kể, chúng
ta được hướng dẫn vào trọng tâm của động tác loan báo Ki Tô giáo
đối với xã hội: đó là nguyên lý về phẩm giá con người (
HDXHGH 105-159), trong đó chúng ta có thể gặp được
- mọi nguyên tắc ( liên đới
hỗ tương, phụ túc bảo trợ, công ích)
- và nguồn gốc nền tảng của
những nguyên tắc đó ( HDXHGH 160-208).
Nhãn quang " con người toàn
diện trọn hảo " vừa kể, nếu trên lãnh vực quan niệm và thần
học có thể được suy nghĩ bằng những cách suy luận khác nhau từ
Công Đồng Vatican II trở đi, nhưng đó là nguyên lý nền tảng
trong Thông Điệp Rerum Novarum ( RN) ( ĐTC Leo XIII, 1891).
Thông Điệp đúc kết các liên hệ chính trị về phẩm giá con
người như sau:
- " Con người có trước quốc
gia. Giá trị của con người là khuôn thước, mà dựa vào đó các cơ
chế chính trị và luật pháp phải được định chuẩn. Chính trị và
pháp luật phải phục vụ con người. Con người không bao giờ chỉ là
một giá trị cơ năng để hoạt động. Con người có một giá trị
thượng đẳng không thể tùy thuộc vào một mục đích nào khác. Từ
đó, giá trị thượng đẳng của con người chống lại bất cứ chế độ
tuyệt đối nào " ( RN n.6).
Bởi đó nhiều vị thức giả, trong đó
có nhà thần học J. Murray, cho rằng điều quan tâm trọng
yếu vừa kể của ĐTC Leo XIII là thái độ chống lại mọi ý
thức hệ chà đạp và tha hóa con người,
- không những ý thúc hệ độc
tôn, độc tài đảng trị,
- mà còn cả đối với những ý
thức hệ " dân chủ toàn trị " ( democrazia totalitaria) ,
tưởng mình có thể giải quyết được hết mọi phương diện của "
con người trọn vẹn hoàn hảo " bằng phương thức dân chủ.
Và từ đó, " phẩm giá con người
bất khả xâm phạm ", chính là lý do tại sao Thông Điệp
Rerum Novarum lên tiếng để nói lên giải quyết chính đáng
phải có đối với vấn đề " lương bổng công nhân ", trong
thế giới kỷ nghệ hoá, để bảo vệ mục đích phẩm giá " con người
trọn vẹn hoàn hảo "
- chống lại chủ thuyết tự do
tư bản,chỉ nhìn con người dưới khía cạnh kinh tế và hạ cấp
con người chỉ còn là một yếu tố của thị trường;
- đàng khác Thông Điệp cũng lên
án chống lại Cộng Sản chủ nghĩa hay Xã Hội chủ nghĩa của Karl
Marx, chỉ coi con người là một yếu tố vật chất của cấu trúc
kinh tế, làm cho con người
* mất hết tự do cá nhân
* và mất đi ý nghĩa chủ thể
tính trong chiều hướng siêu việt thần học của mình.
2 - Những vấn đề nan giải
luận lịch sử .
Quan niệm về địa vị thượng đẳng
của con người như vừa kể trong Thông Điệp Rerum Novarum
chứa đựng một bầu không khí căng thảng lúc đó chưa giải quyết
được.
Bầu không khí căng thẳng đó thoát
xuất từ quan niệm về bình đẳng:
- một đàng xác nhận mọi người
đều có phẩm giá như nhau, điều đó hàm chứa mọi người đều có
quyền trên sản phẩm việc làm của chính mình ( RN n. 40)
và bình đẳng trước pháp luật ( RN n. 33),
- nhưng đồng thời ĐTC Leo
XIII liên kết kỳ vọng bình đẳng của các phong trào dân chủ
với khuynh hướng tự do thoả thích tùy hỷ của Cách Mạng Pháp.
Ngài nghĩ rằng đồng hoá bình đẳng trên phẩm giá với quyền thượng
đẳng của các nhóm tự do thoả thích vừa kể là hăm doạ chính các
nền tảng luân lý của thể chê chính trị. Bởi đó ngài bênh vực
tính cách chính danh của các quyền chính trị không đồng đều
nhau, bởi lẽ ngài
- " không thể quan niệm về
một hình thức dân chủ bình đẳng mà không bắt buộc địa vị của
thiểu số phục tùng đa số " ( ĐTC Leo XIII, Quod apostolici
muneris. QAM n.1).
Nhãn quang thiết thực hàm chứa
trong phẩm giá con người phải được cấu trúc bằng những phương
thể khả thi để thiết định nên các mối tương quan xã hội.
Một sự hiểu biết có thứ bậc trật
tự xã hội chính đáng là thể chế xã hội tiền liệu một cấu
trúc, mà trong đó ĐTC Leo XIII tin là phẩm giá con người có thể
được bảo vệ.
Trong lãnh vực kinh tế và trước
luật pháp, quyền bình đẳng của con người cần phải được khai
triển rộng rãì hơn qua các quyền xã hội và kinh tế của người làm
việc.
Vấn đề vừa kể chỉ được giải quyết
một cách thoả đáng hơn với ĐTC Pio XII, tuy nhiên ĐTC Leo
XIII vẫn là người khơi nguồn cho những diễn dịch rộng rãi về xã
hội, để đưa đến cách giải quyết thoả đáng trong HDXHGH.
Kết quả của những cố gắng đặt liên
hệ giữa phẩm giá con người và các điều kiện thiết thực của các
hiện trạng có liên hệ đưa đến việc đề thảo ra một số các quyền
cá biệt trong lãnh vực kinh tế.
Trong tiến trình đề thảo ra vừa
kể, có hai yếu tố khác nhau được đặt bên cạnh nhau:
- hiểu biết chính đáng phẩm giá
của con người
- và thiết định nên những tổ
chức, cơ chế thích hợp cho mục đích.
Việc bênh vực giá trị thượng đẳng
của con người hướng dẫn ĐTC Pio XI đến thái độ phê bình
các lý thuyết tổ chức xã hội có liên hệ đến tự do tư bản chủ
nghĩa cũng như những cách tổ chức theo xã hội chủ nghĩa mát xít
( Quadragesimus annus n. 46).
Mặc cho có những cách suy nghĩ
song hành giữa tư tưởng của Marx và nhãn quang của ĐTC Pio XI về
hoàn cảnh của giới vô sản và hậu quả tai hại của động tác tự do
cạnh tranh vô giới hạn, nhưng ĐTC vẫn khước từ,
- tẩy chay phương thức tranh
đấu giai cấp và việc liên kết chính trị xã hội chủ nghĩa với
quan niệm thuần vật chât về con người.
Bởi lẽ những tư tưởng đó sẽ đưa
đến những mục đích vô nhân tính về con người, cướp bóc,
đánh đập, " trấn nước ", " bịt miệng ", phụ nữ và
trẻ em gái vị thành niên phải " bán thân nuôi miệng " là
điều ai cũng thấy được ở một quốc gia bất hạnh nào đó với XHCN "
đỉnh cao trí tuệ "
Đàng khác thái độ của ĐTC Pio
XI không phải là thái độ có ý bênh vực cá nhân chủ nghĩa.
Đời sống xã hội cũng là yếu tố kiến tạo nên phẩm giá con người,
bởi vì con người có bản tính xã hội nơi mình ( Divini
Redemtoris ( DR n.29).
Nhãn quang vừa kể được hiểu là
ĐTC mặc nhiên chấp nhận
- phương thức tổ chức xã hội
tập thể có chừng mực
-
và
tình liên đới hỗ tương của ngài cũng nhằm ủng hộ phương thức cấu
trúc nếp sống xã hội dựa trên nền tảng luân lý, mà ngài đang
đứng trước một viễn tượng hoàn toàn xóa bỏ của tự do thị trường.
Nhưng nói như vậy, không phải là
ĐTC Pio XI khước từ kinh tế thị trường vừa mới được xuất hiện
lúc đó, bởi lẽ kinh tế thị trường nói lên lòng ước muốn tự
lập và tự do của cá nhân khỏi chế độ lãnh chúa áp đặt.
Phẩm giá con người càng thể hiện
rõ rệt hơn nữa với thái độ dân chúng chống lại các chế độ độc
tài Đức Quốc Xã và Phát Xít xuất hiện lúc đó.
ĐTC Pio XI
cương quyết đứng ra bênh vực tự
do của Giáo Hội trong hai chế độ vừa kể, cho đến khi nào
Hitler va Mussolini nhân nhượng những quyền chính đáng của tôn
giáo.
Và rồi mặc dầu nhân nhuợng có giấy
tờ, Mussolini sau đó lại coi bằng không, như chữ ký của "
Đảng và Nhà Nước ", mặc nhiên dành quyền giáo dục cho các
đồng chí của Đảng Phát Xít tự do tùy hỷ.
Bởi đó ĐTC Pio XI mới phản đối
bằng Tuyên Ngôn " Non abbiamo bisogno ( 1931), Chúng
tôi không cần lời cam kết của các ông... ), coi đó là những
lời xảo trá, ký kết để lường gạt.
Thái độ chỉ trích vừa kể của ngài
cũng được nói lên với Đức Quốc Xã trong Tuyên Ngôn " Mit
Brennender Sorger ". Bởi lẽ Đức Quốc Xã đã tuyệt đối hoá các
giá trị tương đối như chủng tộc, Quốc Gia Đức ( Deutschland
ueber alles), cơ chế quốc gia, mà con người phải vâng dạ,
qụy phục.
Tiến trình phát triển quan niệm
công bình xã hội cũng quan trọng, bởi lẽ đây là ý niệm lưu
tâm đến các mối liên hệ giữa con người với con người và suy nghĩ
làm thế nào để biến các mối liên hệ đó thành những giá trị có
tầm mức cấu trúc thể chế và cơ chế quốc gia.
Tư tưởng về công bình xã hội như
là nguyên lý có liên hệ đến tổ chức cơ chế Quốc Gia được đặt
trên xác tính rằng phẩm giá con người là một vấn đề xã hội
hơn là đơn thuần chỉ thuộc cá nhân.
Phẩm giá con người đòi buộc
phải có một quan niệm luân lý chính đáng để đời sống công
cộng được cấu trúc một cách đúng đắn phải có.
Quan niệm về công bình xã hội nói
lên những gì các quyền của con người có nền tảng xã hội và cá
nhân.
Và việc bảo vệ nhân quyền để con
người có được cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của mình chỉ có
thể thực hiện được qua tiến trình phát triển xã hội.
Hiểu như vậy định chế chính trị có
một phận vụ luân lý quan trọng liên hệ trong tiến trình vừa kể.
Dùng quan niệm công bình xã hội
đưa đến việc hiểu biết mở rộng hơn thể thức trong đó các tổ chức
cơ chế xã hội trung gian điều giải các đòi buộc phải có của phẩm
giá con người và sắp đặt thết định nội dung các quyền con người.
ĐTC Pio XII,bằng
cách trả lời lại cho những sai trái của chiến tranh thứ hai và
cho tính chất đàn áp của Stalin , khi ngài đặc tâm chú ý đến
các nguyên tắc trật tự của các quốc gia và thấy đó
như là những những điều kiện tiên quyết phải có cho nền hòa bình
quốc tế.
Trật tự của các quốc gia là những
gì sống động, càng ngày càng phải lớn lên thêm nhờ tầm hiểu biết
thêm về phẩm giá con người.
Các tác động, can thiệp của tổ
chức quốc tế được chính danh hoá bằng việc kính trọng và bảo vệ
phẩm giá con người
Nhãn quang vừa kể được khai triển
thêm lên trong khi bàn thảo và khám phá ra nền căn bản luân lý
của các cơ cấu pháp luật, cần thiết để bảo đảm cho cuộc sống xã
hội đươc đều hoà,
Phận vụ của luật pháp là bảo đảm
và nâng đỡ các mối tương quan xã hôi, đươc đặt trên sự nhìn nhận
lẫn nhau và trên sự kính trong phẩm giá con người.
Trong bôi cảnh đó chúng ta đừng
đánh thấp giá sự góp phần của ĐTC Pio XII trong động tác
không ngừng lặp đi lặp lại việc tố cáo thái độ luật pháp thực
nghiệm ( positismo giuridico),
Thật vậy, nều quốc gia là nguồn
mạch tiên khởi cho quyền lực, thì con người cá nhân phải bị giao
phó cho lối suy tư trọng tài đối với kẻ nắm quyền,
Như vậy đời sống chính trị và xã
hội được sắp đặt theo các lối liên hệ về sức mạnh: Điều đó có
nghĩa cần chiếm đạt được quyền lực và thiết định các cơ cấu
quốc gia mới để phục vụ nhóm " élites ".
Đó chính là lý do tại sao ĐTC
nhấn nạnh đến quyền tự nhiên của con người và giá trị luât pháp
của quyền tự nhiên đó đối với Hiến Pháp và Luât Pháp, cung như
trong mối liên hệ đối với việc hành xử quyền bình.
Đĩnh chuẩn luân lý là con người,
chớ không phải luân lý muốn hiểu riêng tư thế nào thì hiểu.
ĐTC nhân thấy luân lý công công
nhằm vào con người , bị doạ nạt nặng nê bởi các phương thức tổ
chức xã hội của thế giới hiện đại.
Con người có khuynh hướng cuối đầu
tùy thuộc vào các đòi hỏi hữu lý của kỷ thuật và của sức mạnh kỷ
thuật ( Summi Ponticifatus, n 5).
Một nhãn quang tích cực khác được
đặt trên quan niêm coi đời sống xã hội như là một công đồng công
dân co trách nhiệm luân lý ( Pio XII , Discorso di Natale
1952).
Cũng với diễn từ nầy, ĐTC Pio XII
xác nhận việc có thể hội nhập việc kính trọng con người giữa
nhiều tầng lớp khác nhau vào việc tổ chức xã hội. Việc kính
trọng phẩm giá con người không cần phải được coi như là một lý
tưởng đem đến dặt gần bên các yếu tố khác, như là những gì ngoại
vi, đối với các thể thức tổ chức xã hội, mà là đúng hơn là
yếu tố bẩm sinh của con người, yếu tố bẩm sinh của chính
tổ chức cuộc sống xã hội cho con người. Mọi hình thức sống
xã hội, như là những mối tương quan căn bản luân lý, là những
cách tổ chức sống để phục vụ phẩm giá con người, hợp với
những gì nội tại của chính con người hay bản thể con
người.
Trong cái nhìn vừa kể của ĐTC Pio
XII về xã hội, trong đó phẩm giá con người được tôn trọng, cuộc
sống xã hội không phải là thiên đàng trần thế phi chinh
phủ, cũng không phải là một trạng thái xã hội " thời cánh
chung " ( escaton ) của Marx, mà là một trạng thái cuộc sống
xã hội, trong đó có bổn phận luân lý ràng buộc trong các điều
kiện và giới mức của cuộc sống nhân loại.
Như vậy việc thực hiện mục đích
cuộc sống xã hội, trong đó phẩm giá con người được tôn trọng,
không phải là một lý tưởng xa vời quá tầm tay, mà là một mệnh
lệnh tính luân lý mọi người đều có thể thực hiện được.
Việc tôn trọng đối với phẩm giá
con người được thể hiện bên trong, qua các lằn mức và điều
kiện.
Mặc dầu phẩm giá con người là một
giá trị thượng đẳng, nhưng vẫn là một của cải được xác định, có
giá trị giới hạn.
Mặc dầu là một đòi hỏi luân lý,
phẩm giá con người phải được tôn trọng vô điều kiện, nhưng đòi
hỏi đó phải đưọc cấu trúc, tùy thuộc điều kiện và khả năng của
con người trong xã hội. Điều đòi hỏi đó phải được cấu trúc dưới
hình thức xác định của tình liên đới, là hình thức nhân bản của
phẩm giá tối thượng của con người.
Trước tình trạng đe dọa của cộng
sản chủ nghĩa, ĐTC Pio XII xác quyết một cách nhứt định giá trị
và các quyền bất khả xâm phạm của con người, trong đó có quyền
tự do tôn giáo ( mặc dầu ngài dùng từ ngữ " chấp nhận tôn
giáo ", cho thấy ngài chưa dứt khoát đồng thuận tính cách tổ
chức phi tôn giáo của một Quốc Gia ).
Trong khi đó thì các biến cố thảm
đạm của thế chiến II sẽ phải làm cho ngài xác tín cần phải có
một thể chế dân chủ cho tổ chức quyền lực Quốc Gia.
Những mối lưu tâm vừa kể của ĐTC
Pio XII về việc bảo vệ nhân quyền không làm cho chúng ta ngạc
nhiên trong thời điểm cần phải lưu tâm để có được một nền luật
pháp cá biệt và thực hữu bảo đảm để cho cuộc chung sống nhân
loại trở thành khả thi, sau những gì khủng khiếp mà con người đã
phải trải qua trong thế chiến II.
Tuy nhiên có được quan niệm về các
quyền của con người , như là chủ thể được ban cho phẩm giá cao
cả, là điều vẫn còn tùy thuộc vào nhãn quang " siêu hình học
" về trật tự xã hội.
Đó là nhãn quang, theo đó " các
trạng huống, biến cố cá nhân và tập thể phải tùy thuộc vào một
bản thể thiên nhiên ( natura) của con người, mà
chối bỏ đi chắc chắn sẽ đưa đến xã hội bị khủng hoảng và tan vở.
Hiểu như vậy, do bản thể tự
nhiên của con người, cần phải có một chuổi các nguyên tắc mà
ai cũng phải nhận biết, tự lập đối với lịch sử và các quyết định
tự do. Nói cách khác các nguyên tắc phải tôn trọng đó liên hệ
đến chủ thể tính của mỗi con người, khiến cho con người là
con người với phẩm giá con người của mình.
Bởi đó các nền luật pháp về các
quyền của con người phải là định chế chính đáng thể hiện "
quyền tự nhiên " của con người, vượt lên trên dòng lịch sử
và như vậy, ước vọng của con người phải được khắc ghi lên một
định chế bất di dịch và vĩnh viễn.
Những gì bất di dịch và vĩnh viễn
vừa kề đã được ĐTC Gioan XXIII, nhân danh Giáo Hội khẳng
khái tuyên bố trong Thông Điệp Pacem in terris của
ngài.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Vô lý khi xây nhà ga |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : TÔN GIÁO
56. Vô lý khi xây nhà
ga
Một hành khách mỏi mệt bảo, “Trời đất ơi, tại
sao họ lại xây nhà ga cách làng đến ba cây số?”.
Anh phu khuân vác trả lời, “Khi làm vậy, chắc họ
có ý để nhà ga gần mấy chiếc xe lửa hơn”.
Một nhà ga siêu hiện đại cách xa đường rầy ba
cây số là một điều vô lý cũng như một nhà thờ lúc nào cũng đông
người chỉ cách xa cuộc sống có ba phân.
ڰ
57. Chỗ của ta
Tượng Đức Phật Kamakura đặt trong một đền thờ
mãi cho đến ngày bão tố đánh sập đền thờ đó. Qua bao năm, khối
tượng đồ sộ trơ gan cùng tuế nguyệt với mưa với gió cùng những
thay đổi của thời tiết.
Một nhà sư bắt đầu gây quỹ để tái thiết đền thờ.
Trong một giấc mơ, pho tượng hiện ra với ông và nói, “Đền thờ đó
là một nơi giam cầm, không phải là chốn cư ngụ. Cứ để mặc ta với
giông tố cuộc đời. Đó là chỗ của ta”.
ڰ
58. Thiếu một cái gì đó
Dov Ber, một người khác thường, ai đến với ông
cũng tỏ ra ngần ngại. Ông là một người nổi tiếng thông thái về
luật Do Thái, cứng nhắc và không khoan nhượng trong học thuyết
của mình. Không bao giờ ông cười. Ông tin tưởng mạnh mẽ vào việc
khổ đau người ta tự gây ra cho mình và nổi tiếng vì những cuộc
trường chay. Cuối cùng, sự khổ chế chẳng đem lại ích gì cho ông.
Ông lâm trọng bệnh và các thầy thuốc bất lực trong việc cứu
chữa. Như một phương sách cuối cùng, có người đề nghị, “Tại sao
không nhờ sự can thiệp của thầy sãi Shem Tov?”.
Dov Ber đồng ý, mặc dầu từ đầu ông chống lại ý
tưởng đó bởi vì ông đã từng bất đồng quan điểm với thầy sãi
Shem, người mà ông cho là có một cái gì đó xem ra dị giáo. Đang
khi Dov Ber tin rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa bằng cách chịu
đựng khổ đau thì thầy sãi Shem tìm cách làm nhẹ bớt nỗi khổ và
dạy rằng, chỉ có tinh thần vui tươi mới đem lại ý nghĩa cho cuộc
sống.
Khi thầy sãi Shem nhận lời thì đã quá nửa đêm,
ông ra đi với áo khoác len và đội chiếc mũ lông tốt nhất. Vào
phòng bệnh nhân, ông trao cho Dov cuốn Sách về sự Huy Hoàng. Dov
Ber mở sách và đọc lớn tiếng.
Ông mới chỉ bắt đầu đọc chừng một phút thì người
ta nói, thầy sãi Shem cắt ngang, “Thiếu một cái gì đó?”, “Thiếu
một cái gì đó... trong niềm tin của ông”.
Người bệnh hỏi, “Thiếu cái gì?”.
“Linh hồn”, thầy sãi Shem nói.
ڰ
59. Một nhà sư tồi
Một đêm giá lạnh mùa đông, một nhà tu khổ hạnh
lang thang gõ cửa một ngôi đền xin trú ẩn. Người đàn ông thảm
hại đứng run rẩy dưới làn tuyết nên nhà sư trụ trì lưỡng lự dù
rất muốn để ông ra đi nhưng lại bảo, “Được, thầy có thể ở lại,
nhưng chỉ qua đêm. Đây là đền chùa chứ không phải trại tế bần.
Sáng mai thầy phải đi”.
Nửa đêm, nhà sư nghe có tiếng răng rắc khác
thường. Ông chạy vội vào chùa và thấy một cảnh tượng không thể
tin được. Nhà tu khổ hạnh ấy đang sưởi ấm bên một đống lửa đốt
ngay trong điện. Tượng Phật biến đâu mất. Nhà sư mới hỏi, “Tượng
Phật đâu?”.
Kẻ lang thang chỉ vào đống lửa và nói, “Tôi chắc
sẽ chết vì rét”.
Nhà sư sửng sốt kêu lên, “Ông điên rồi sao? Ông
không biết ông đã làm gì? Đó là tượng Đức Phật! Ông vừa đốt
tượng Đức Phật”.
Ngọn lửa tàn dần. Nhà tu hành nhìn chằm chằm vào
ngọn lửa rồi lấy gậy khơi đống tro.
“Ông còn làm cái gì nữa đây?”, nhà sư la lên.
“Tôi tìm xương Phật, người mà ông nói là tôi
đốt”.
Lâu sau, nhà sư thuật lại vụ việc cho một
thiền sư, vị này bảo, “Ông là một nhà sư tồi, bởi anh đã coi
trọng một Đức Phật chết hơn là một con người sống”.
ڰ
60. Những bộ kinh vô
hình
Tetsugen, một sinh viên môn Thiền, quyết thực
hiện một công trình lớn: in bảy ngàn bản kinh Phật, vốn cho tới
lúc ấy, mới có bản văn bằng tiếng Tàu.
Anh rảo khắp nước Nhật để quyên góp tiền bạc cho
dự án của mình. Một vài người giàu tặng anh tới cả trăm đồng
vàng, nhưng phần lớn anh nhận là những đồng xu nhỏ của những
người làm nông. Tetsugen biểu lộ một lòng biết ơn như nhau đối
với người cho, không kể ít nhiều.
Sau mười năm đi đây đi đó, cuối cùng anh đã
quyên đủ số tiền cần thiết cho dự định. Đúng lúc đó, nước lũ
sông Uji dâng cao khiến cho hàng ngàn người không cửa không nhà
cũng như không thức ăn. Tetsugen liền đem tất cả số tiền quyên
góp cho dự án mình ấp ủ bấy lâu để để trợ giúp dân nghèo.
Rồi anh lại quyên góp để gây vốn. Phải mất nhiều
năm, anh mới có đủ số tiền cần thiết. Một cơn dịch lan tràn khắp
đất nước, và thế là Tetsugen lại đem tất cả số tiền đã gom để
giúp những người khốn khổ.
Rồi một lần nữa anh lại lên đường gom góp và hai
mươi năm sau, ước mơ kinh Phật xuất bản bằng tiếng Nhật cuối
cùng trở thành hiện thực.
Bản in cho lần xuất bản đầu tiên của kinh Phật
hiện được trưng bày tại tu viện Obaku, Tokyo. Người Nhật kể cho
con cháu họ rằng, Tetsugen đã xuất bản kinh Phật cả thảy ba lần,
hai lần đầu là những bộ kinh vô hình, vượt trỗi lần thứ ba.
ڰ
(còn tiếp nhiều kỳ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục giáo phận sống chiều kích hôn ước |
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN
C. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA
LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
(tiếp theo)
C.10.
Linh mục giáo phận sống chiều kích hôn ước
Một tinh thần nghèo khó cao độ sẵn
sàng cho đi tất cả cũng là một tiền đề giúp linh mục giáo phận sống chiều kích
hôn ước. Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã nhấn mạnh hình ảnh Chúa Kitô như Đấng
Phu Quân của Giáo Hội: Chúa Kitô đã ban tặng chính mình cho Giáo hội trong tình
yêu: “Quà tặng bản thân độc đáo đó được Chú Rể dâng tặng cho Cô Dâu.”
Chúa Kitô là Đầu “đã yêu thương Giáo hội và hiến mình vì Giáo hội, thánh hoá
và thanh tẩy Giáo hội bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người là một Giáo
hội xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm
nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.”
Mối quan hệ hôn nhân của Chúa Kitô
với Giáo hội là nền móng linh đạo của linh mục giáo phận, vốn thường “được
gọi là hình ảnh sống động của Chúa Kitô, Phu quân của Giáo hội.”
Đây cũng là nền tảng cam kết của linh mục giáo phận với đời sống độc thân, trong
đó đặc tính hôn nhân của nó lại có tính cách rất tích cực, nhờ đó ngài kết hôn
với Giáo hội như Chúa Kitô là hôn phu của Giáo hội. Là thành phần tư tế thừa tác
của Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, Giám mục tham dự vào hôn ước
của Chúa Kitô, được biểu thị qua nghi thức trao nhẫn trong lễ tấn phong Giám
mục.
Cũng thế, được thông phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô ở cấp độ thấp,
linh mục giáo phận cũng thông phần một cách nào đó vào chiều kích hôn ước đối
với Giáo Hội, nên phải hết lòng yêu mến Giáo Hội bằng cách cống hiến mọi năng
lực và tự hiến trong đức ái mục tử đến độ hy sinh chính cuộc sống mình mỗi ngày
cho đoàn chiên được trao phó.
Đời sống độc thân
không phải là phủ nhận hôn nhân, nhưng phải được hiểu trong liên hệ với Nước
Trời: Đời sống độc thân có ý nghĩa và sẽ chỉ sinh hoa trái “trong viễn tượng
hôn nhân thiên quốc và trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa.”
Trong ý nghĩa này, linh mục giáo phận được kêu gọi ‘trở nên chàng rể’ như người
chồng dâng tặng toàn thể thân xác và tất cả những gì là mình cho vợ,
linh mục giáo phận cũng dâng tặng toàn thể những gì là mình cho Giáo Hội/Hôn thê
của Chúa Kitô và cho vương quốc của Thiên Chúa, là toàn thể tạo thành đang “rên
siết và quằn quại như sắp sinh nở, đang trông đợi ngày Thiên Chúa ban cho trọn
quyền làm con, và được cứu chuộc cả thân xác nữa.”
Như thế, sự trao tặng bản thân của linh mục giáo phận cho Giáo hội trong đời
sống độc thân có những chiều kích Cánh Chung học, Giáo hội học và Kitô học.
Đời sống độc thân là “một
ân huệ quí giá Thiên Chúa ban cho Giáo hội:”
linh mục giáo phận hiến dâng con tim không san sẻ và tính dục của mình cho Thiên
Chúa “như dấu chỉ của Nước Trời không thuộc về thế gian này, một dấu chỉ của
tình yêu Thiên Chúa cho thế giới và dấu chỉ của tình yêu không san sẻ linh mục
dành cho Thiên Chúa và Dân Chúa.”
Đời sống độc thân linh mục là “ý muốn của Giáo hội”
ở trong Bí tích Truyền Chức “làm cho các linh mục trở nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô là Đầu và Hôn phu của Giáo hội.”
Sự độc thân linh mục “là món quà bản thân diễn tả sự phục vụ của linh mục cho
Giáo hội, trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô.”
Tính hiệu quả của bác ái mục tử sẽ tùy thuộc nhiều vào sự trung thành của linh
mục giáo phận với lời hứa độc thân. Do đó, lời cầu nguyện là vũ khí hiệu nghiệm
nhất để kiên trì trong lời cam kết độc thân thanh khiết, cùng với những bí tích
và những thực hành khổ chế của Giáo hội “sẽ đem lại hy vọng trong những khó
khăn, tha thứ trong những sa ngã, tự tin và can đảm tái đảm nhận cuộc hành trình
này.”
Việc làm chứng nhân
cho tình yêu phu phụ của Chúa Kitô đòi hỏi linh mục giáo phận “có khả năng
yêu mọi người với một con tim mới, quảng đại và trong sạch, với sự từ bỏ đích
thực, với sự dâng hiến trọn vẹn, thường xuyên, trung thành và đồng thời với một
loại ‘ghen tỵ thần linh,’”
và thậm chí với tình thương âu yếm của người mẹ, có khả năng “quặn đau sinh
ra một lần nữa” cho đến khi “Chúa Kitô được thành hình nơi người tín hữu.”
Sự đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô linh hoạt toàn thể cuộc sống và sứ vụ tông đồ của linh mục giáo
phận. Ngài phải nhìn mình theo cách Chúa Kitô đã nhìn bản thân Ngài: Vị Mục tử
nhân lành có con tim cháy bỏng bởi lòng yêu thương đoàn chiên và sẵn sàng hy
sinh mạng sống cho họ bất cứ giá nào. Đó là “đức ái mục tử”, là “nguyên
tắc nội tại, là sức mạnh tạo sinh khí và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của
linh mục giáo phận.”
Nội dung chính yếu của đức ái mục tử này là “quà tặng tất cả bản thân cho
Giáo hội, theo gương mẫu Chúa Kitô.”
Quà tặng bản thân này “là nguồn mạch và sức mạnh tổng hợp của đức ái mục tử”
là “một sự lựa chọn yêu thương, nhờ đó Giáo hội và các linh hồn trở thành mối
quan tâm hàng đầu của linh mục giáo phận, nhờ đó ngài trở nên có khả năng yêu
mến Giáo hội phổ quát và một phần của Giáo hội được uỷ thác cho ngài với tình
yêu sâu xa của một người chồng dành cho người vợ.”
Mối quan hệ này phát
xuất trước hết và trên hết từ sự hiệp thông cá nhân của linh mục giáo phận với
Chúa Kitô và với linh mục đoàn hiệp nhất cùng Giám mục:”
“Đức ái mục tử đòi hỏi linh mục luôn làm việc trong mối dây hiệp thông với
Giám mục và với các anh em linh mục, nếu không, những nỗ lực của ngài sẽ là vô
ích.”
Đối với linh mục giáo phận, chiều kích này sẽ có ý nghĩa đặc biệt khi toàn bộ
linh đạo của ngài xoay quanh tính thuộc về một linh mục đoàn duy nhất hiệp thông
với Giám mục.
Trong bài giảng nhậm
chức Tổng Giáo phận Philadelphia ngày 8/9/2011 vừa qua, ĐTGM Charles Chaput, cựu
TGM Denver, đã nói rất hay về cuộc hôn nhân của Giám mục với Giáo phận của mình,
từ đó chúng ta cũng suy ra cuộc hôn nhân của linh mục giáo phận với giáo xứ được
ủy thác cho mình.
Ngài nói: “Tương quan của một Giám Mục với Giáo Hội địa phương – Giáo Phận
của ngài – cũng không khác gì một cuộc thành hôn. Chiếc nhẫn Giám mục đeo là một
biểu tượng tình yêu của Giám Mục đối với Giáo Phận mình... Giám Mục được
mời gọi yêu thương Giáo Phận mình với hết cả tấm lòng như Chúa Kitô đã yêu
thương và hiến mình cho Hội Thánh... Đối với bất kỳ cuộc hôn nhân nào, để thành
công, cần có hai điều: yêu nhau và cùng nhau trổ sinh hoa trái. Đó là tất cả
những gì chúng ta cần trao ban hôm nay – yêu nhau và cùng nhau trổ sinh hoa trái
trong công cuộc Tân Phúc Âm hoá... Đức Kitô phải là trung tâm của đời sống chúng
ta; Giáo Hội phải là Mẹ và Thầy của chúng ta. Mọi sự chúng ta làm phải bắt nguồn
từ đó... những gì chúng ta bắt tay vào việc hôm nay chính là một cuộc hôn
nhân... chúng ta sẽ cùng nhau làm nên một tổ ấm hạnh phúc. Vì thế, chúng ta hãy
nhìn nhận nhau như những quà tặng. Điều này đòi buộc chúng ta có một cam kết,
một hành vi của ý chí để yêu thương nhau, nhẫn nại với nhau và hy sinh mạng sống
cho nhau... Với tôi, cũng như với bao nhiêu linh mục khác, Đức Maria là
nguồn hy vọng và chở che liên lỉ cho ơn gọi mình. Vì thế, tôi xin toàn thể Anh
Chị Em cầu cùng Mẹ Thiên Chúa cho tôi để Ngài luôn bao bọc chúng ta với tình yêu
và sự che chở của Ngài.”
Trong chiều kích hôn
ước này, có một thực hành tất nhiên, cần thiết, nhưng đôi khi cũng tế nhị và
không mấy dễ dàng, đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều chiều kích khác trong truyền
thống Giáo hội, đó là việc đi xứ và chuyển xứ. Theo tư tưởng của ĐTGM Chaput thì
đó là cuộc hôn nhân được sắp đặt, mà người mai mối là ĐTC đối với Giám Mục và là
Giám mục đối với linh mục, tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần hướng dẫn mọi quyết
định và kết quả sẽ luôn tốt đẹp nếu mọi người cam kết hết lòng cộng tác với
chương trình của Thiên Chúa.
Thông thường, với
những cuộc hôn nhân được sắp đặt thì cách chung, trước hết người ta tìm biết
nhau và sau đó là yêu nhau. Những ông mai bà mối tài giỏi luôn để ý đến gia đình
dòng tộc của cả hai người và những yêu cầu riêng của họ. Và những ông mai bà mối
khôn ngoan thật sự có thể bất ngờ đưa ra những chọn lựa tốt nhất, nghĩa là hai
người sẽ cùng nhau làm nên một tổ ấm hạnh phúc. Trong thực tế, các cuộc hôn nhân
được sắp đặt thường là thành công; nhưng cũng phải nhìn nhận có những cuộc hôn
nhân được sắp đặt trải qua cuộc sống miễn cưỡng, nặng lòng, chịu đựng và đau
khổ, thậm chí đỗ vỡ, nếu ông mai bà mối làm việc không khéo, thiếu trao đổi
thích hợp và cứ phải tuyệt đối cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó theo não trạng
gia trưởng.
Các cuộc chuyển xứ cũng tương tự
như thế. Là linh mục giáo phận, ai cũng trải qua nhiều lần chuyển xứ. Có những
cuộc đi xứ và chuyển xứ quả đúng là có đủ mọi khía cạnh của các cuộc hôn nhân
được sắp đặt miễn cưỡng, ép buộc bởi quyền bính cứng cỏi khắt khe. Chúng ta cảm
kích nhìn thấy nhiều linh mục vui lòng đảm nhận những trạch cử và nhiệm vụ khó
khăn, không phải do các ngài chọn chúng, nhưng đơn giản do Giáo Hội đòi hỏi các
ngài làm như vậy. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẵn sàng rời bỏ những nhiệm
sở rất thoải mái và tiện nghi, để bắt đầu làm việc trong những giáo xứ nghèo
nàn. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẽ đảm trách những phận vụ bạc bẻo trong
Giáo phận, không phải hy vọng một phần thưởng nào đó, nhưng đơn giản chỉ vì đó
là công việc của Chúa và của Giáo Hội. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẵn lòng
nói lên sự thật Phúc Âm cho những kẻ mình phục vụ, mà không để mình bị tê liệt
vì sợ làm như vậy người ta sẽ không ưa mình. Để kiện toàn sứ mệnh, chúng ta được
mời gọi dõi bước theo cùng một con đường Chúa Kitô đã đi qua. Con đường đó dẫn
đến thập giá, không thể tránh được. Dù vậy, chúng ta phải gắn bó với Giáo Hội
trong tình thảo hiếu và vâng lời. Vâng lời đòi hỏi can đảm tuân giữ kỷ luật Giáo
Hội, và thích ứng với những yêu sách đặc biệt của từng hoàn cảnh cụ thể.
Đức Maria đâu có ngờ trước biến cố
Truyền Tin, Ngài cũng không trông mong trở thành mẹ Đấng Cứu Thế; vậy mà hành vi
vâng phục của Ngài đã thay đổi tiến trình lịch sử, mở ra một kỷ nguyên mới dẫn
đến một giao ước tình yêu và kết tinh hoa trái thật kỳ diệu của công trình cứu
độ nhân loại. Nếu thiếu lời Xin Vâng đó, thiếu sự quy phục ý muốn và kế hoạch
riêng của Mẹ cho Ý Muốn và Kế hoạch của Chúa thì cái gì đã xảy ra? Cầu mong tất
cả chúng ta được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi sự và hết thảy mọi người
cùng tìm đặt ý muốn và kế hoạch của Chúa lên trên ý muốn và kế hoạch riêng của
mình, đồng thời hết lòng cộng tác với chương trình của Chúa cho Giáo Hội, Giáo
phận, Giáo xứ và mỗi người chúng ta.
C.11.
Linh mục giáo phận nhạy bén với các thay đổi xã hội
Chính
chiều kích hôn ước của thừa tác vụ linh mục này giúp linh mục giáo phận có một
tính nhạy bén lớn lao đối với các đổi thay xã hội để hướng dẫn và phục vụ đàn
chiên một cách hữu hiệu. Quả thế, mọi sự đang thay đổi và tiếp tục thay đổi đến
chóng mặt. Linh mục giáo phận phải là người bắt nhịp hài hòa với tình hình hiện
nay của một thế giới đang thay đổi; phải luôn sẵn sàng và bén nhạy để đọc được
các thời triệu, chấp nhận các mới mẻ của những đổi thay, và can đảm thích nghi
chính mình cách khôn ngoan sáng suốt với những bước chân của Chúa Thánh Thần,
Đấng hằng làm cho mọi sự nên mới.
Sự nhạy cảm này giúp linh mục giáo phận hiểu rõ hơn các nhu cầu của dân chúng,
nhận thức được những vấn nạn không lời của họ, đáp ứng các thỉnh nguyện, chia sẻ
những hy vọng, những trông đợi, những niềm vui và những gánh nặng của họ.
Vì thế, ĐTC Biển
Đức nói trong Sứ điệp Truyền giáo 2011 rằng xem nhẹ các vấn đề trần thế của
đời sống con người sẽ là “quên mất bài học của Tin Mừng liên quan đến tình yêu
đối với người thân cận đang chịu đau khổ và thiếu thốn.”
Trong bài diễn văn bế mạc Công Đồng Vaticanô II, Đức Phaolô VI tuyên bố:
“Có lẽ chưa bao giờ như tại Công đồng này, Giáo Hội đã cảm thấy nhu cầu phải
hiểu biết, đến gần, thông cảm, thấm nhập, phụng sự và Phúc Âm hóa xã hội bao
quanh mình. Giáo Hội đã không chỉ lo lắng suy nghĩ về chính mình, nhưng Giáo Hội
cũng quan tâm nhiều tới con người... Một làn sóng mến yêu dâng lên tràn ngập
Công đồng, lan tràn trên thế giới của con người hiện đại. Các giá trị của nó
không những được nhìn nhận mà còn được quý mến, các nỗ lực của nó được thanh lọc
và được chúc lành.”
Tông huấn Lời Chúa nhắc nhở rằng
việc mục vụ của Giáo Hội phải cho thấy rõ Thiên Chúa lắng nghe những nhu cầu và
tiếng kêu của con người như thế nào để mang lại cho con người hạnh phúc vĩnh cửu
trọn vẹn.
Trong chiều hướng đó,
ĐTC Biển Đức XVI
kêu gọi tình liên đới của mọi người trước những thiên tai xảy ra dồn dập trên
khắp thế giới: “Tâm trí Cha đặc biệt hướng về những dân tộc lúc nầy đang chịu
những thảm hoạ thiên nhiên nghiêm trọng, gây ra những thương vong về người, và
thiệt hại về tài sản, khiến nhiều người trở thành vô gia cư. Cha cầu xin Chúa
cho các nạn nhân và Cha bày tỏ sự gần gũi tinh thần với tất cả những ai đang
chịu những tình huống khốn khó nầy. Cha cầu xin Thiên Chúa an ủi họ trong những
đau khổ và nâng đỡ họ trong những cơn khốn khó.”
Hơn ai hết, linh mục giáo phận
nhạy cảm để suy nghĩ với đầu óc của Chúa Giêsu, nhìn sự việc với con mắt của
Chúa Giêsu, hành động với sức mạnh của Chúa Giêsu, phán đoán với sự khôn ngoan
của Chúa Giêsu, sử dụng biện pháp với lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, yêu thương
với con tim của Chúa Giêsu, đào tạo với sư phạm của Chúa Giêsu, nhẫn nại với sự
nhẫn nại của Chúa Giêsu, tha thứ với lòng thương xót của Chúa Giêsu. Tắt một lời
là làm sao để giáo dân luôn nhận ra được nơi linh mục đang chăn dắt mình “tiếng
nói của Chúa Chiên Nhân Lành.”
Có thế thì linh mục giáo
phận mới sống trọn vẹn và thành công trong đời sống và sứ vụ linh mục của mình,
như lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn. Thánh Phaolô đã nói rõ đường lối đó: “Thiên
Chúa là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi
an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau
khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh
gian nan khốn khó.”
Vì vậy, Công Đồng
Vaticanô II thúc bách không ngừng hoàn thiện các hiểu biết về những sự của Thiên
Chúa và những sự của con người, ngõ hầu đi vào đối thoại cách thích đáng với
những người đương thời. Sự nhạy bén này sẽ gợi ý và hướng dẫn những đổi thay trí
não và con tim hướng tới cuộc trở lại liên lỉ với Chúa và với tha nhân, nhất là
khi gặp phải những thương tổn phi lý và bất công ngay trong lòng Giáo Hội, bằng
việc “để cho qua đi và để Chúa lo liệu” vì Ngài thay đổi công việc chứ
không thay đổi ý định. Đặt Chúa vào giữa thì mọi sự sẽ đến cùng nhau, với cái
nhìn tích cực (thấy khía cạnh tốt của những gì xảy đến), với lòng cảm
thông (Chúa có kế hoạch của Ngài, tha nhân không muốn thế, nhưng Chúa bắt
phải làm thế) và biết ơn Chúa và tha nhân (nhờ đó mà ta được biến đổi và
lớn lên). Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường
sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, từ
lúc được sinh ra cho đến lúc chết đi, trải qua tích cực cũng như tiêu cực.
Chúa luôn đổi mới lời
mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng
trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta, là những người theo Chúa Giêsu, cũng
phải đổi mới sự đáp trả của mình cho tương xứng. Mọi việc Chúa Kitô làm đều mang
dấu ấn của thay đổi, thay đổi từ cũ sang mới, từ điều được trông đợi đến điều
bất ngờ: Ngài ngồi ăn với những người tội lỗi, nói chuyện với người đàn bà
Samaria, vượt quá luật ngày Sabát, yêu thương kẻ thù, hy sinh mạng sống vì người
khác. Mọi hành động ấy đều là những thay đổi. Qua những thay đổi ấy, Hội Thánh
được sinh ra, và hôm nay, cũng qua những thay đổi như thế mà Hội Thánh còn tồn
tại và tiếp tục sống động. Trong chiều hướng này, linh mục giáo phận được mời
gọi trở thành những con người phục vụ khiêm tốn trong bất cứ cái gì, bất cứ ở
đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ thế nào, mà dân chúng cần đến mình.
____________
Chú thích:
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LƯƠNG Y MẤT LƯƠNG TRI |
Cuối tháng 5, 2012
vừa qua, Hiệp hội Y sĩ nước Đức đã có một hành động đầy nhân
tính và ngoạn mục. Họ đã công khai xin lỗi về những thử nghiệm
mà các bác sĩ Đức quốc xã đã thực hiện với dân Do Thái trong các
trại tập trung vào thời kỳ Hitler nắm quyền từ năm 1933-1945.
Theo Hội, đây không
phải là hành động riêng rẽ của cá nhân y sĩ, mà liên quan tới
các cấp đầu não của tập thể y sĩ thời đó. Trái với thiên chức
cứu chữa bệnh tật thì các y sĩ này đã vi phạm quyền làm người
của nạn nhân với nhiều thử nghiệm giả nhân giả nghĩa khoa học.
Hội Cầu xin sự tha thứ của các nạn nhân còn sống hoặc đã mệnh
một cũng như xin lỗi con cháu của những nạn nhân này.
Hậu quả của các
Holocaust là 5 triệu người Do Thái bị tiêu diệt bằng nhiều
phương thức tàn nhẫn vô nhân đạo.
Một trại tập trung
bị lây bệnh chấy rận ư? Thì viên y sĩ bèn giải quyết bằng cách
ra lệnh xịt hơi ngạt, để 700 nữ nạn nhân chết cùng với bọ hút
máu.
Viên y sĩ riêng của
Hitler thực hiện chương trình gây chết không đau cho người già,
người bệnh bất khả trị, người mất trí, trẻ em tàn tật tại nhà
dưỡng lão, bệnh viện, nhà tế bần bằng cách chích độc chất. Họ bị
coi như ăn không ngồi rồi, vô dụng cho quân đội.
Một nữ bác sĩ chà
đinh sét rỉ, mảnh vụn thủy tinh sắc bén lên vết thương của nạn
nhân để đo lường sức chịu đựng với đau đớn.
Để tìm phương thức
điều trị cóng giá, nạn nhân bị ngâm trong bể nước đá cả 3 giờ
hoặc phơi trần ngoài trời trong thời tiết dưới không độ, rồi
sưởi ấm nạn nhân với nhiều cách để so sánh hiệu quả.
Muốn tỉm thuốc diệt
trừ sốt rét thì bác sĩ chích vi khuẩn cho nạn nhân rồi dùng
nhiều hóa chất khác nhau, tìm thuốc chữa bệnh.
Muốn biến nước biển
thành nước uống được, bác sĩ bỏ đói nạn nhân, chỉ cho uống nước
biển, gây thương tích rồi quan sát phản ứng.
Độc chất được bác sĩ
trộn trong thức ăn của nạn nhân rồi mổ cơ thể để so sánh tác
hại, tìm độc chất mạnh dùng sau này.
Và nhiều thử nghiệm
dã man khác.
Hành động của Hội Y
Sĩ Đức được dư luận rất tán thưởng.
Phải chi những người
gây ra đấu tố giết hại địa chủ, lập ra những trại tập trung tù
đầy hành xác tại quê hương trước đây cũng có những lời SORRY
tương tự thì lòng người chắc sẽ thuận hòa hơn, để cùng nhau góp
phần xây dựng đất nước.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
|
VỀ MỤC LỤC |
Kitô hữu giáo dân trong Cộng đồng Dân Chúa và khía cạnh trần
thế của Giáo hội |
Tác Phẩm: Đạo vào đời
Gs. Nguyễn Đăng
Trúc
Định Hướng Tùng Thư -2012
Kitô hữu giáo dân trong Cộng đồng Dân
Chúa và khía cạnh trần thế của Giáo hội
Thời gian - vĩnh cửu, đời-đạo, tu-tục, và rồi giáo dân-giáo
sĩ..., từ nơi tâm thức sâu kín của con người đến sự thể diễn ra
thành tập tục, nếp sống và ngay cả cơ chế điều hành xã hội, hai
yếu tố nầy được cảm nhận như hai cảnh giới khác nhau, đôi khi
xung khắc nhưng lại cần có nhau. Sự kiện đó là nét cá biệt của
cõi người ta, từ muôn thủa khi người là người. Nó đi vào từng
giây phút một của cuộc sống con người, bất kể trong lãnh vực
nào, dù mang nhiều dạng thức khác nhau và cách nói khác nhau. Và
chính vì thế chúng ta sẽ thấy khi nêu lên vai trò người gìáo
dân, khía cạnh trần thế của Giáo hội thì chúng ta sẽ bị tràn
ngập bởi nhiều lối đặt vấn đề và những kết luận khác nhau tuỳ
tiền đề và khung cảnh mà mỗi người định vị quan điểm của mình.
Có người cho rằng nêu lên vấn đề trần tục và giáo dân nơi Giáo
hội công giáo lúc nầy quả là một chiến thuật "lấn dân, dành đất"
của phe nầy, khi thấy mình ngày càng mất đi bề thế và quyền uy
trên thế giới ! Có người thì đánh giá vìệc đặt thành vấn đề giáo
dân hôm nay quả là đã muộn màng, bởi lẽ thế giới đã chán chê
kinh nghiệm dân chủ và đang chuẩn bị cho một lối điều hành cộng
đồng xã hội mới, chưa kể đến thái độ dửng dưng của nhiều Kitô
hữu, ngay cả giới giáo sĩ ở nhiều cấp khác nhau, trước lời giáo
huấn nhắc nhở của Giáo hội về vấn đền nầy. Cộng đồng công giáo
Việt Nam cũng có thể có thiên kiến cho rằng : đó là vấn đề riêng
của một cộng đồng Giáo hội nào đó bên Tây phương hoặc trong
truyền thống văn hoá riêng của họ; đó chẳng qua là lối luận bàn
trí thức, chuyên môn của mấy vị thần học gia chỉ biết sách vở
không biết gì đến mục vụ cụ thể; hoặc giả đó là việc riêng của
Giáo hoàng, Giám mục, còn cộng đồng địa phương mình thì tuỳ
nghi, cần gì tạo thêm rắc rối ...
Nhưng quan niệm như thế nào đi nữa, thì trên cương vị đạo hay
đời, người ta cũng phải nhận rằng khía cạnh trần tục của Giáo
hội và giáo dân là những nét đậm trong Công đồng Vaticanô II.
Công đồng đó đánh dấu sự thay đổi tâm thức của Kitô hữu, canh
tân nếp sống của Giáo hội công giáo và ảnh hưởng sâu rộng vào
sinh hoạt của nhân loại.
1.
Hai cạm bẫy
cần lưu ý
Cạm bẫy đầu tiên phát xuất từ tiền
kiến văn hoá của xã hội tân kỳ, chỉ biết đóng khung và dừng
lại các tiêu chuẩn của khoa học để đề cập và phê phán tất cả các
chiều kích của con người, kể cả chiều kích của tinh thần và
tôn giáo. Hẳn nhiên việc truy cứu về mặt xã hội, lịch sử, các sự
kiện khách quan là điều kiện không thể thiếu, nhưng chỉ dựa vào
khung khoa học để luận bàn và đề xuất các giải pháp thuộc lãnh
vực tôn giáo thì hẳn nhiên là bất cập, vì lập trường đó mâu
thuẫn. Mâu thuẫn vì ý định xoá bỏ yếu tố tôn giáo đã xuất hiện
trước khi luận bàn hay đề xuất về lãnh vực nầy, trừ phi xem khoa
học là một tôn giáo.
Nhưng điều làm ta ngạc nhiên là phần lớn những hiện tượng nổi
bật được truyền thông xã hội, dư luận nêu lên khi đề cập đến vấn
đề giáo dân và yếu tố trần tục của Giáo hội, lại tự đóng
khung trong lãnh vực "thuần khoa học xã hội" nầy.
Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II
trong thông điệp đầu tiên của Ngài
Redemptor hominis
(ngày 4.3.1979)
đã nhắc nhở rằng :
"Khi trình bày một cái nhìn toàn bộ về dân Chúa và nhắc lại vị
trí của giáo sĩ cũng như giáo dân, đại diện của hàng giáo phẩm
cũng như của các thành phần của các hiệp hội tận hiến nam-nữ
trong cộng đồng dân ấy, thì Công đồng Vaticanô II đã không chỉ
rút hình ảnh nầy từ các tiền đề của khoa học xã hội. Giáo hội
với tư cách là một hội của con người, hẳn nhiên có thể được
người ta nghiên cứu, và định nghĩa theo những tiêu chuẩn mà khoa
học sử dụng về bất cứ một hội nào khác. Nhưng các khuôn khổ đó
chưa đủ. Đối với toàn bộ cộng đồng dân Chúa cũng như đối với mỗi
thành phần của dân nầy, đây không phải chỉ là một "sự tham gia
có tinh cách xã hội" đặc loại, nhưng phần thiết yếu phải là một
"ơn gọi" riêng cho mỗi người và cho tất cả. (...) Nếu chúng ta
muốn biết Cộng đồng dân Chúa nầy, vốn rất to lớn và rất đa dạng,
trước hết chúng ta phải nhìn Đức Kitô, Đấng từng nói với mỗi
thành phần của cộng đồng nầy một cách nào đó: "Hãy theo ta"
(số 21).
Riêng đối với người Kitô hữu Việt Nam, cạm bẫy thứ hai là sự
xa lạ với những ý tưởng, tâm tình đằng sau các từ ngữ liên hệ
giáo dân, trần tục được dùng trong các nước Tây
phương, từng chịu ảnh hưởng Kitô giáo lâu đời, và nhất là đã
chứng kiến sự phân cách, đối kháng giữa đạo-đời trong thời tân
kỳ cận đại và hiện đại. Hơn thế nữa tương quan tôn giáo-trần tục
trong cuộc sống của gia đình, xã hội Việt Nam cũng không nhất
thiết phải chứng kiến những xung đụng quyền lực mà chúng ta đã
chứng kiến nơi lịch sử Tây phương. Nên từ ngữ giáo dân (laïc),
tính cách thế tục (laïcité) của Giáo hội trước hết đối
với người Kitô hữu Việt Nam và người Việt nói chung không ngầm
hiểu là phi tôn giáo, đôi lúc là chống lại hàng giáo
sĩ như cách hiểu và nổ lực hoá giải của xã hội Tây phương.
Nếu
muốn đưa vấn đề nầy vào trong khung cảnh sinh hoạt của Cộng đồng
Kitô giáo Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, chúng ta cần đến
những nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để có thể ứng dụng một cách
linh động và thiết thực giáo huấn của Giáo hội trong nổ lực canh
tân nếp sống đạo của mình.
2- Bối cảnh của vấn đề
Phúc âm Mathêu ghi lại một kiểu mẫu có tính cách chung toàn về
cộng đồng những kẻ tin "Đức Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên
Chúa hằng sống" (Mt. 16, 16), hay còn gọi là Giáo hội.
Cộng đồng đó vượt lên trên lối tổ chức "trần tục hoá" của tôn
giáo cũ như sau:
"Phần
anh em, thì đừng để ai gọi mình là "Ráp-bi", vì anh em chỉ có
một Thầy; còn tất cả là anh em đều là anh em với nhau. Anh em
cũng đừng gọi ai dưới đất nầy là Cha của anh em, vì anh em chỉ
có một Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người
lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo, là Đức Kitô.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh
em. Ai tôn vinh mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống,
sẽ được tôn lên" (Mt. 23, 8-12).
Nhưng nếu mọi sự đã hoàn thành nơi Đức Kitô, Lời Thiên Chúa, thì
nơi thân thể Ngài, các em Ngài, là Cộng đồng Giáo hội lại là
một diễn tiến đang hoàn thành : Cộng đồng huynh đệ ấy có một
thời để khai sinh, có những giai đoạn thăng trầm của lịch sử để
phát triển với những thành công, vấp ngã và canh tân liên tục
trong niềm hy vọng hướng đến thời hoàn mãn khi Đức Kitô lại đến.
Thật vậy, gần 20 thế kỷ, qua lịch sử, Giáo hội không phải luôn
luôn xứng hợp với cộng đồng huynh đệ kiểu mẫu mà Đức Kitô vạch
ra.
Lịch sử không phải là một giả thiết và không ai biết được bí mật
tại sao kitô giáo trong gần 20 thế kỷ qua hầu như đã phát triển
trong khuôn khổ của văn minh lịch sử Âu châu. Nếu các cộng đồng
Kitô hữu lúc ban đầu không bị lệ thuộc nhiều vào lối suy tư,
cách sống của xã hội La mã - Hy lạp đương thời, thì ngược lại từ
thế kỷ thứ IV trở đi, Kitô giáo và cuộc sống trần thế của Âu
châu thường tương quan qua lại với nhau rất gắn bó. Kinh qua
thời gian chung sống nầy, mầu nhiệm hợp thông làm cho Giáo
hội thành một cộng đồng huynh đệ dần dà bị lãng quên. Giáo
hội có nguy cơ bị tục hóa. Và sự việc đã xảy ra vì nhiều yếu tố
: trước hết là vì khung cảnh văn hoá, sau đó là sự hội nhập hay
đúng hơn là đồng hoá Giáo hội vào lối tổ chức trần tục của xã
hội đương thời.
Về
mặt văn hoá, triết học duy lý và nhị nguyên của các trường
phái Tân-Platon đã phân cách lý trí thuộc phần cao cả, thần
thánh, còn xác thịt hữu hình thuộc cõi thế trần còn vương vấn
chuyện sinh con, đẻ cái. Cuộc sống thần thánh của Giáo hội sớm
được nhìn là những gì thuộc cõi vô hình, lý trí, xa vật chất, mà
tiêu biểu là sự độc thân.
Yêu
sách độc thân gắn liền không những với giới đan sĩ mà phải là
điều kiện để đi vào bậc sống của các mục tử, tức là giới giáo
sĩ. Không những giới giáo sĩ, tu sĩ được trọng vì tiêu biểu cho
Giáo hội thánh thiện qua cuộc sống độc thân của mình (!), nhưng
còn nhờ cuộc sống cộng đoàn, nhờ điều kiện được học hỏi và được
huấn luyện làm cho họ thành tầng lớp kẻ sĩ, thành giới trí thức
(đặc biệt là vào thời Trung cổ) trong một khối quần chúng
khó có điều kiện để ăn học.
Nhưng ngoài yếu tố văn hoá giáo dục, còn có yếu tố chính trị.
Một trong những yếu tố có tính cách quyết định là vào thế kỷ thứ
IV, Hoàng đế Constantinô cho phép Kitô giáo tự do hành đạo, rồi
không bao lâu nâng Kitô giáo lên hàng tôn giáo chính thức của La
mã. Dân chúng ào ạt gia nhập vào Giáo hội như chỉ gia nhập vào
một xã hội đời. Kitô giáo mất đi hứng khởi truyền giáo; các Giám
mục được đồng hoá thành công chức cao cấp của Đế quốc và hưởng
các đặc quyền trên trước của vua quan.Từ thế kỷ thứ IV đến thế
kỷ XVIII ( vào lúc có cuộc cách mạng Pháp), không phải lúc nào
và bất cứ đâu Kitô giáo cũng tự đồng hoá với quyền lực trần thế,
nhưng sự gắn bó quyền đạo - quyền đời vào nhau là một chuẩn mực
điều hành xã hội. Sự thấm nhập hai quyền vào nhau đi đến tình
trạng chen chân nhau để cai trị. Gia đình vua chúa, quí tộc hành
xử cả việc điều hành Cộng đồng tôn giáo; giám mục, giáo hoàng
lắm lúc vừa là ông hoàng, lãnh chúa của một vùng đất. Bấy giờ
dân là của vua chúa, thì Giáo hội cũng là của
giới giáo sĩ. Trong khung cảnh xã hội nầy, giáo dân không
phải chỉ là một người không thuộc giới giáo sĩ đang điều hành
Giáo hội, một người không biết giáo lý và sống đời sống trần tục
(lập gia đình, sinh con, đẻ cái và lao động để kiếm ăn),
nhưng dần dà là khối dân được cai trị với tất cả thăng trầm của
vâng phục hay phản kháng, như một khối dân bên lề Giáo hội.
Về điểm nầy, nhà thần học Walter Kasper, Giám mục giáo phận
Rottenburg - Stuttgart, Đức, phân tích như sau :
"Trong Sắc thư Clericis laicos (1296), Giáo hoàng Bonifaciô VIII
nhận định rằng Giáo dân luôn chống lại giáo sĩ. Xác quyết nầy
hẳn nhiên nói đến những cuộc phiêu lưu chính trị giữa giáo hoàng
và hoàng đế hoặc vua nước Pháp, nhưng còn cho thấy một khuynh
hướng nguy hiểm. Những cuộc tranh chấp tương tự tiếp tục xảy ra
trong nhiều lãnh địa giám mục; tại đây chính các lãnh chúa giám
mục lại thường xuất quân đánh chống các Kitô hữu trong vùng
mình.
Hậu cảnh nầy giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự nổi dậy của các
phong trào giáo dân chống giáo sĩ ngay từ thời đầu của Trung cổ
và sự chống đối hung hăng sau đó vào thời tân kỳ. Chủ trương
giáo sĩ trị và chủ trương thuần trần tục là hai mặt của một đồng
tiền"
.
Đến
thời tân kỳ (les temps modernes), thời đại đánh dấu sự
chống đối, xa cách Giáo hội - trần thế; và bây giờ chữ giáo dân
(laïc) được hiểu trong nghĩa chống đối nầy : giáo dân (laïc)
được hiểu là không phải tôn giáo hoặc chống lại giáo sĩ. Và giáo
sĩ được hiểu là Giáo hội.
Cuối thời Trung cổ, xã hội Tây phương chuyển đổi tâm thức song
song với sự xuất hiện những lực lượng văn hoá, xã hội mới. Văn
hoá, nghệ thuật, thương mãi, tài chánh ... không còn nằm trong
sự kiểm soát duy nhất của khuôn khổ quyền lực đạo - đời cũ nữa.
Qua cuộc cách mạng Pháp như là một hình ảnh cô động, chúng ta
thấy vua - quí tộc - giáo sĩ tức là hình ảnh Quốc gia - Giáo hội
cũ bị chuyển đổi thành khối quyền lực mới nhân danh dân chúng.
Khối quyền lực mới lôi kéo quần chúng đứng sau lưng mình. Quyền
lực mới dựa trên lý trí tự đủ cho mình (lý trí mà mỗi người
đều có được) để một mặt đạp bỏ những quyền lực áp bức bên
ngoài, mà tiêu biểu về mặt xã hội lúc bấy giờ là chế độ quân chủ
và Giáo hội. Mặt khác nó đề xuất một lý tưởng mà hầu hết
các ý niệm được rút ra từ ngôn ngữ Tân ước Kitô giáo: Tự do -
Bình đẳng và Huynh đệ. Chung ta nói là hầu hết, vì
căn nguồn phát sinh các nội dung liên hệ đến các từ ngữ nầy đôi
đường hoàn toàn khác biệt nhau.
Thời đại tân kỳ, cũng tự nhận là chủ nghĩa trần tục tuyệt đối,
không những chống đối quyền lực giới giáo sĩ liên minh với chế
độ quân chủ cũ, mà còn bài xích cả chiều sâu của cuộc sống đức
tin tôn giáo.
Về
phía Giáo hội, vì thiếu thiện cảm với thái độ bài xích giáo sĩ
của các trào lưu tân kỳ, nên thường có khuynh hướng bảo vệ sự
sống còn và cơ chế cũ của mình, xa lạ dần với nhịp sống của xã
hội. Nhưng trong những năm tháng căng thẳng hay xa lạ của đôi
bên, giữa Giáo hội và xã hội trần tục, chúng ta sẽ thấy có những
giáo hoàng, giám mục, linh mục, đặc biệt là các tu sĩ, giáo dân
đã vượt lên trên khung cảnh quyền lực để thực hiện cuộc
sống đức tin của mình nơi trần thế. Các dòng tu, với ý hướng
hoàn toàn phục vụ con người, trong lãnh vực y tế, từ
thiện bác ái, giáo dục cho giới nghèo, liên tục xuất hiện trong
khoảng thời gian nầy. Sự can thiệp của các giáo hoàng, giám mục
vào xã hội không còn là chiếm đất, dành dân...; nhưng cổ suý
công bằng, bác ái, huynh đệ trong cộng đồng xã hội, khi các giá
trị nầy đang bị bôi bác, đặc biệt là Thông điệp Rerum Novarum
của Đức Giáo hoàng Lêô XIII (tháng 5.1891) và tiến trình phát
triển Học thuyết xã hội Công giáo.
Một
vài nét lịch sử chính yếu đó giúp chúng ta thấy dần dà xuất hiện
cái nhìn mới và khác của các phong trào xã hội
Công giáo (thường là do giáo dân chủ xướng trong các thế kỷ
có sự xung đụng đạo - đời trong hai thế kỷ vừa qua) cũng như
đường hướng của Học thuyết Xã hội Công giáo và Công đồng
Vaticanô II. Cái nhìn mới và khác ấy vượt
lên sự đồng hoá đạo - đời và sau đó là tách biệt hoặc xung đột
đạo - đời trong quá khứ lịch sử Tây Âu.
* Trong một giai đoạn khá dài của
lịch sử, và nơi tâm thức của văn hoá tân kỳ, Giáo hội được đánh
giá là một cộng đồng dựa trên tiêu chuẩn quyền lực. Đồng
hoá hay đối kháng thì cũng lấy quyền lực làm thước để đo. Vì
thế, Giáo hội được nhìn là một quyền và quyền ấy ở trong tay
hàng giáo sĩ.
Ngày nay, dư luận bên ngoài (và điều đáng tiếc là rất đông
những trào lưu khi thì bảo thủ, khi thì tiến bộ trong Giáo hội
thường được báo chí nhắc đến hơn cả) mỗi lần nói đến sinh
hoạt của người Công giáo, thì vẫn lấy tiêu chuẩn thuần trần
tục tiêu cực nầy để lên tiếng phê phán hay đấu tranh.
* Cuộc thay đổi tâm thức nơi Giáo hội
Công giáo trong một vài thế kỷ gần đây, và được biểu lộ rõ nét
nơi Công đồng Vaticanô II là nhìn cao hơn, đào sâu hơn để thấy
gần với Mẫu-mực Cộng đồng huynh đệ: Cộng dồng ấy có ơn gọi và sứ
mệnh là phục vụ và truyền bá Tin Mừng yêu thương của
Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Các yếu tố đạo - đời, tương quan
Giáo sĩ - Giáo dân không lấy tiêu chuẩn thuần trần tục là quyền
hành trần thế để thiết định và đánh giá. Chuẩn mực Giáo hội
không phải là quyền uy, lấn đất, dành dân theo tiêu chuẩn đời,
nhưng là Đức Giêsu Kitô làm hoà Thiên Chúa và con người
trong công việc phục vụ nhân loại, thực hiện và cổ suý cộng đồng
huynh đệ.
* Giáo hội khám phá lại mẫu mực Phúc
âm dẫn đến những canh tân sâu rộng trong nếp sinh hoạt của Cộng
đồng dân Chúa. Thoát dần khỏi vướng mắc văn hoá nhị nguyên theo
lối Tân-Platon, Công đồng nhận ra nơi Mầu nhiệm Nhập thể của
Đức Kitô ánh sáng chỉ đường : Thân xác mà Thiên Chúa mặc lấy bảo
chứng nét cao cả của vật chất hữu hình và cuộc sống thể lý. Cái
xấu, cái bất cập, tội lỗi và sa sẩy do từ bên trong tâm hồn con
người. Người ta hiểu được chữ "thế gian" trong các bản Phúc âm,
đối kháng với Cộng đồng con cái Thiên Chúa, không phải là thế
giới vật chất, xã hội dân sự, nhưng là điều mà ngày nay ta
thường gọi là tội lỗi và cơ cấu tội lỗi, nghĩa là cuộc
sống con người tự-mãn và ích kỷ từ khước các giá trị siêu nhiên
và đóng kín không mở ra với tình huynh đệ nhân loại. "Thế gian
ma quái" đó không phải là giáo sĩ hay giáo dân, tôn giáo hay thế
giới dân sự, nhưng là khung cảnh của tự mãn và hận thù nơi bất
cứ ai trong bất cứ hoàn cảnh, bậc sống nào. Lối hiểu về "trần
tục" mới nầy rất quan trọng, vì việc không phân biệt các nội
dung nầy có thể tạo hiểu lầm khi đọc các tài liệu giáo huấn của
Giáo hội, đặc biệt là của Công đồng Vaticanô II. Và từ hiểu
lầm đến áp dụng lầm, vô tình nhiều thiện chí canh tân lại
vấp phạm lại những đoạn đường bất cập của quá khứ. Một trong
những nội dung có tính cách tranh cãi và hiểu trăm nghìn kiểu
khác nhau đó là hội nhập, dấn thân vào đời. Chúng tôi
không nêu lên đây quan điểm mới, tích cực, bám rễ vào Mầu nhiệm
Nhập thể của Đức Giêsu Kitô mà Công đồng nêu lên qua các tài
liệu Công đồng về nội dung nầy (xem Hiến chế Vui mừng và Hy
vọng), nhưng chỉ lưu ý đến một tình trạng mập mờ trong lối
hiểu về chữ "dấn thân", mà chúng ta lấy làm mục tiêu công tác.
Vì đã từng hiểu một chiều và theo nghĩa trần tục về "dấn thân",
mà có một thời Giáo hội đã tự đồng hoá với thế quyền; vì không
thiết định rõ sứ mạng rao truyền Đức Kitô là Đường, là Sự thật
và là Sự sống, mà "hội nhập văn hoá" một thời ưu đãi các học
thuyết triết học Tây phương trên chính giáo huấn của Phúc âm.
Ngày nay những phê phán, đòi hỏi Giáo hội phải chạy kịp và đồng
hoá với các trào lưu nhất thời của thế giới, thái độ và tâm thức
đó là vết tích của một quá khứ tiêu cực mà Giáo hội, qua Công
đồng Vaticanô II, đã vượt qua. Giáo hội không cổ võ dấn thân
trần thế để hiện diện trong xã hội ngày nay như một lực lượng xã
hội ưu thắng theo tiêu chuẩn xã hội dân sự. Nhưng bằng mọi cách
và trong mọi lúc, toàn thể các thành phần của Cộng đồng dân Chúa
phải hiện diện giữa cuộc sống xã hội như dấu chỉ của Đức Kitô,
nghĩa là Tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Sự hiện diện đó
phong phú, đa diện, nhưng khó khăn hơn, đòi hỏi sự trưởng thành
của tất cả các thành phần trong Giáo hội .
Song song với ý thức Giáo hội không phải là sở hữu riêng của
Hàng giáo sĩ dựa theo lối đánh giá theo tiêu chuẩn quyền lực,
thì tâm thức Kitô hữu cũng ý thức được yếu tố hữu hình, nhân
loại và lịch sử của cộng đồng những con người làm nên Giáo hội.
Giáo hội cảm nhận tính - thời - gian của mình như
thân phận còn hữu hạn, với những bất cập của con người, ý thức
bổn phận của mình là phải mãi lớn lên và hoàn thành với tất cả
những vốn liếng mà Chúa Thánh Thần đã thực hiện với sự cộng tác
của con người qua các nền văn hoá khác nhau từ cổ chí kim và
khắp nơi trên thế giới.
Trong khung cảnh của một Giáo hội như thế, không có sự tôn vinh
hàng giáo sĩ như một giống người đặc biệt khác với khối quần
chúng giáo dân được xem là thụ động, không am tường giáo lý, và
được đánh giá là không cần phải sống thánh thiện như các bậc
sống khác. Chữ ơn gọi và hành đạo (nghĩa là sứ
mệnh truyền bá Tin Mừng) không còn là ngôn ngữ hạn chế để
chỉ cuộc sống giáo sĩ và tu sĩ. Mọi thành phần của Giáo hội, tuỳ
lời mời của Chúa và do sự đáp trả tự do của mỗi người, đều có ơn
gọi và sứ mệnh chung là làm nên Giáo hội, như Phúc âm đã nói
"Tất cả anh em đều là anh em với nhau" (Mt. 23, 8), trong
những phận vụ riêng của mình tuỳ nhu cầu phục vụ của cộng đồng
và hoàn cảnh cá biệt của mỗi bậc sống.
3.
Giáo dân
trong Giáo hội ngày hôm nay
Tài
liệu mới nhất về giáo huấn của Giáo hội về Giáo dân là Tông huấn
Christi Fideles Laici, do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban
hành ngày 30.12.1988, tiếp theo Thượng Hội đồng Giám mục về Tông
đồ Giáo dân tổ chức vào năm 1987 tại Rôma. Giáo huấn vừa nhắc
lại toàn bộ nội dung của Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân năm
1965 trong Công đồng Vaticanô II, vừa cập nhật hoàn cảnh Giáo
hội lúc bấy gìờ nhưng đi vào chi tiết hơn.
Với
tâm thức cũ, tiền-Công-đồng, nhiều Kitô hữu, giáo sĩ cũng như
giáo dân dường như cảm thấy không cần phải đi vào nội dung giáo
huấn của Giáo hội, nhưng thường có định kiến rằng đây hẳn là bản
văn thúc giục giáo dân, đặc biệt các xứ Tây âu, đi lễ Chủ nhật,
tổ chức sinh hoạt rước kiệu, tham gia vào các chức vụ của Hội
đồng giáo xứ để giúp các linh mục; hoặc trao cho một số giáo dân
có thêm uy quyền trong việc điều hành Cộng đồng giáo xứ.
Những nội dung nầy không phải nằm ngoài ưu tư chung của toàn bộ
giáo huấn của Giáo hội về giáo dân, nhưng lối hiểu tiêu cực, què
quặt nầy (như đóng khung vào sinh hoạt giáo xứ; tương quan
giáo sĩ - giáo dân đặt nền trên ý niệm quyền uy trần tục; sinh
hoạt cộng đồng dân Chúa o ép lại trong một hội đóng kín, tự đủ
cho mình...) đi ngược lại đường hướng canh tân và quan điểm
Giáo hội học mới của Công đồng Vaticanô II.
a- Những nét cá biệt của Giáo hội nêu lên trong
văn kiện
·
Giáo hội là cộng đồng huynh đệ có phận vụ
truyền giáo
Tựa
đề "Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân..."
tưởng chừng đã nói lên hầu hết điều muốn nói. Trước đây khi nói
đến ơn gọi, người ta hiểu đó là phần dành riêng cho giáo
sĩ, tu sĩ làm như chỉ giới sau nầy mới là môn đệ Chúa Giêsu.
Không phải thế. Chữ ơn gọi áp dụng cho bất cứ ai là
người, hướng đến việc thực hiện hoàn toàn nhân tính của mình.
Nhưng chữ ơn gọi ở đây được nêu lên đi liền với sứ
mệnh, nhằm nói đến lý lịch của tất cả những ai đã tin vào
Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống và đã lãnh nhận phép rửa.
Sự kiện sau nầy (sứ mệnh) xác minh sự bất khả phân ly giữa
phép rửa và sứ mệnh rao truyền Phúc âm hay còn gọi là sống đạo.
Bản
văn Christi Fideles Laici đưa ngay vào phần dẫn nhập yếu
tố sứ mệnh nghĩa là phục vụ, hành động qua hình ảnh người
thợ được gọi làm trong vườn nho. Chịu phép rửa là
để làm việc. Câu hỏi đặt cho Giáo hội hôm nay trong cuộc
canh tân của Công đồng Vaticanô II đối với người giáo dân là
"Tại sao ở đấy suốt ngày mà không làm gì hết?" Và nếu giáo
dân trước đây đã trả lời với Giáo hội : "Vì không ai mướn
chúng tôi". Thì hôm nay qua Công đồng Vaticanô II, Giáo hội
lặp lại lời Chúa: "Các ông cũng thế, hãy vào làm vườn nho của
ta" (Mt. 2, 6-7) (xem Christi Fideles Laici,
số 1 và 3).
·
Vườn nho là thế giới: sống đạo mọi nơi, mọi lúc
Cũng ở phần dẫn nhập, Tông huấn nầy nói ngay "Vườn nho đó là
toàn thế giới (Mt. 13, 38), và thế giới nầy phải được
biến đổi theo ý định của Thiên Chúa trong một viễn ảnh của vương
quốc Ngài vào ngày thế mạt" (Christi Fideles Laici).
Giáo xứ, giáo phận, dòng tu trước đây là khung cảnh hạn chế cho
sinh hoạt tôn giáo. Trên mặt pháp lý xã hội, chúng ta ngày nay
cũng khó lòng hiểu khác đi được! Nhưng sống đạo có phải chỉ thực
thi các nghi lễ tuy cần thiết nhưng giới hạn trong lãnh vực tôn
giáo hình thức nầy không? Không phải. Vườn nho là toàn thế
giới mà người thợ là Kitô hữu, giáo sĩ cũng như giáo
dân mỗi người một việc phải chu toàn mọi nơi và mọi lúc. Trước
đây ta thấy, mỗi lần Giáo hội đề xuất và thực hiện một công tác
nào, thì thường định chế hoá qua một hình thức xem là có tính
Giáo hội như là cộng đoàn các giáo sĩ hoặc cộng đoàn tu sĩ. Các
thế kỷ trước đây các hội dòng tu nam, nữ là đã "làm", đã "sống
đạo" trong khuôn khổ tổ chức nầy. Tiếp đến, các đoàn thể giáo
dân, hoặc có mục tiêu phục vụ cuộc sống trần tục, như Hội đoàn
Công giáo, các tổ chức từ thiện Công giáo, ngay cả đảng phái
cũng mang tên Kitô giáo... Nhưng từ Công đồng, kinh nghiệm và
sinh hoạt đó tuy vẫn còn tiếp tục nhưng còn được nới rộng hơn
khi Giáo hội thoát dần khỏi tiêu chuẩn trần tục của việc tổ chức
và qui chiếu vào lời Phúc âm: "Các con là Muối đất, là Men
trong bột, là Ánh sáng thế gian...".
Vừa
bứt bỏ được các giới hạn quá hình thức, vừa đi gần hơn tinh thần
của Phúc âm, cuộc sống đạo trải tràn ra trong cuộc sống toàn
diện của con người : từ những người đau yếu đến những khoa học
gia thám hiểm không gian, từ người đấu tranh chính trị cho đến
vị đan sĩ ngày ngày lao tác và cầu nguyện, từ Giáo hoàng đến
người mẹ gia đình... sống đạo làm nên Giáo hội không nhất thiết
phải là giáo sĩ hay giáo dân, vì không phải quyền uy điều
hành là yếu tố then chốt làm nên Giáo hội nhưng "biến đổi thế
giới hay cuộc sống con người theo ý định Thiên Chúa" làm nên
sinh hoạt Giáo hội .
·
Một nhu cầu thực tế cấp bách cần đến vai trò
giáo dân
Vườn nho là thế giới thực tế trước mắt, chúng không phải một
hình ảnh nào đó của một ý hệ. Giáo hội xác minh lại rằng mọi
người chịu phép rửa đều là anh em và phải có sứ mạng rao truyền
Tin Mừng. Nhưng trước mắt Giáo hội chứng kiến gì:
-
Một thế giới đang đi xa dần ý định của Thiên
Chúa, "Một thế giới với hiện tình kinh tế, xã hội, chính trị
và văn hoá đầy dẫy các vấn đề và khó khăn trầm trọng hơn cả
những gì được Công đồng diễn tả trong Hiến chế mục vụ Vui mừng
và Hy vọng" (Christi Fideles Laici số 3). Và thế giới hay
vườn nho đó cần đến thợ gặt.
-
Giáo hội trong hiện tình ngày nay đào sâu khủng
hoảng thế giới, và sự uể oải thụ động, thờ ơ của người giáo dân
như những dấu chỉ thời đại để khám phá được rằng : "Thế giới
trở thành môi trường và phương thế cho ơn gọi Kitô hữu của người
tín hữ giáo dân...họ không được gọi để bỏ mất vị trí của họ
trong thế giới nhưng...được Chúa gọi để làm việc, như ngầm ở bên
trong, nhằm thánh hoá thế giới, như hình ảnh men trong bột,
trong nổ lực thi hành các trách nhiệm riêng của mình dưới ánh
sáng của tinh thần Phúc âm".
Do
đó, khi nêu lên nhu cầu cấp bách phải đưa giáo dân lên tuyến đầu
của công cuộc rao truyền Phúc âm trong thời buổi ngày nay, thì
một mặt Giáo hội nêu lên một lề lối sinh hoạt mới về sống đạo.
Trong khung cảnh mới nầy không có phân cấp hay loại trừ theo
khuôn khổ tổ chức trần thế : Giáo sĩ không hề bị loại ra khỏi
sinh hoạt trần thế; và giáo dân cũng không có mục tiêu sống đạo
một cách tích cực để có được một vai vế trên trước nào trong
cộng đồng dân Chúa. Đồng thời những tiêu chuẩn bên ngoài, nhãn
hiệu tôn giáo của mình hay uy thế cho một tổ chức cũng không
phải là cùng đích của nổ lực truyền giáo của người giáo dân ngày
nay.
·
Đào tạo
Để
có thể đưa giáo dân, tất cả giáo dân vào tuyến đầu của việc
truyền giáo, hẳn nhiên phải cần có đào tạo. Không ai cho cái mà
mình không có. Đào tạo khó khăn nhất là làm sao thay đổi tâm
thức sống đạo? Bản văn Tông huấn trước hết nêu lên tầm mức phải
đạt đến đó là mức trưởng thành. Tiêu chuẩn ưu tiên của
trưởng thành là sống cho kẻ khác, nhìn nhận kẻ khác, nghĩa là
tinh thần phục vụ một cách đại độ.
Và
đây cũng là điểm mới lạ của tinh thần sống đạo, vì Kitô hữu cần
trút bỏ tâm tình sợ hãi bị trừng phạt trong tâm thức tôn giáo
của mình, hoặc tìm kiếm lợi ích riêng tư cho mình trong Giáo hội
nơi trần thế mỗi khi thi hành các công tác tông đồ. Tiêu chuẩn
quan trọng hơn nữa trong việc đào tạo là hướng đến sinh hoạt
cộng đồng hiệp nhất, từ nơi gia đình, đến hội đoàn, giáo xứ
đến cấp quốc gia, quốc tế, trong giáo hội, đến với các tổ chức,
tôn giáo khác mình...
Sinh hoạt tông đồ không chỉ là hành động cá thể mà hơn hết là
kết hợp thành hành động chung của cộng đồng, nhất là các đoàn
thể hướng đến những cơ cấu rộng lớn điều hành cuộc sống con
người.
b- Những khó khăn
Sự
cách biệt giữa giáo huấn của Giáo hội và nếp sống của đa số
người giáo dân như một thực tế trước mắt làm nhiều người nêu lên
những nhận định bi quan. Giáo huấn được xem là một yêu sách của
mẫu mực Phúc âm đòi hỏi phải thực hiện cấp bách trong thực tế,
tiếc thay lại đi kèm với một sự thiếu vắng các yếu tố thiết yếu
để có thể thực hiện! Chẳng hạn:
·
Khuôn khổ tổ chức tối thiểu
Trước đây một dòng tu được lập ra thường đi theo những điều kiện
tinh thần, vật chất, tổ chức để có thể tồn tại : một số công tác
phục vụ cụ thể để thi hành, để kiểm điểm công tác; một sự nhìn
nhận của giáo phẩm, và sự hỗ trợ của cộng đồng; tiêu chuẩn, thời
gian huấn luyện; kỹ thuật và tổ chức nội bộ...
Ngày nay, khi nói đến tông đồ giáo dân, không khác gì đọc một
bản Phúc âm; công tác mênh mông vượt lên mọi hình thức tổ chức,
đòi hỏi một sự uyển chuyển của một tâm thức hết sức trưởng thành
như đã có sẳn tự bao giờ! Và vì yêu sách quá rộng, quá cao, kỳ
cùng giáo huấn dễ bị xem là một lý thuyết dành cho ai khác chứ
không phải cho mình và cộng đồng mình ! Và thực tế đã xảy ra khi
những gì đã nêu lên trong Tông huấn Christi Fideles Laici
thường được chính Giáo hoàng, Giáo triều Rôma qua các thánh bộ
và hội đồng giáo hoàng : Công lý Hoà bình, Đối thoại Tôn giáo,
Di dân,Văn hoá, Giáo dục, Gia đình...thực hiện; càng xuống các
cấp gần với chính cuộc sống hằng ngày của giáo dân như gia đình,
xứ đạo... thì ảnh hưởng hầu như chưa có tác dụng gì mấy (những
phê phán cho rằng Giáo triều Rôma không lưu ý đến sinh hoạt trần
thế, xa cuộc sống cụ thể... là lối nói thuộc lòng do báo chí
quảng cáo hơn là một nhận định bám trên thực tế).
·
Đào tạo
Công việc đào tạo giáo dân quá phức tạp và khó khăn. Yêu sách
đòi hỏi phải có sáng kiến truyền giáo xây dựng Giáo hội, canh
tân xã hội, phải đi tuyến đầu, phải trưởng thành phân biệt những
nguy cơ tinh vi của chủ nghĩa thế tục và đường hướng Phúc âm,
phải uyển chuyển chọn lựa phương thức tổ chức và hành động...,
lắm lúc cho chúng ta có cảm tưởng rằng một cán bộ giáo dân như
thế hẳn phải được đào tạo 3 lần hơn một giáo sĩ ! Thế mà, ý chí
và phương tiện để thực hiện giáo huấn của Giáo hội về Giáo dân,
khởi đầu bằng công tác đào tạo lại èo uột. Có những vùng, những
xứ..., dường như chưa tùng có kế hoạch hay một dự án, ngân sách
nào hướng đến nổ lực nầy. Về phía tổ chức Giáo hội trên mặt hỗ
trợ, sự hiệp thông giữa giáo sĩ - giáo dân trong mục tiêu đào
tạo giáo dân lại càng hiếm hoi. Trong công tác mục vụ, việc đào
tạo gìáo sĩ hướng đến công tác nầy ít được thực hiện, chẳng hạn
không mấy giáo sĩ am tường về phương cách hoạt động tông đồ giáo
dân, các đoàn thể, theo từng bộ môn, lứa tuổi...; các đoàn thể
hay các sinh hoạt giáo dân thường đành chấp nhận sự hiện diện
một giáo sĩ bất chừng nào đó ở cạnh mình như một chuyện tự phát,
đã rồi.
·
Tâm thức
Tâm
thức xã hội - và ngay cả Kitô hữu , giáo sĩ cũng như giáo dân
- như còn xa lạ với tinh thần Công đồng Vaticanô II về ý nghĩa
sống đạo. Hãy thử làm một bản trắc nghiệm đa số giáo sĩ và giáo
dân tại cơ sở để xem khi nói đến việc trả thuế, đi bầu cử, đóng
góp giúp người nghèo, dạy con, giúp vợ, săn sóc chồng, thăm
viếng bạn bè, tham gia cổ võ nhân quyền .v.v...có nằm trong
khung cảnh sinh hoạt cuộc sống đạo không, thì rõ. Phải chăng dư
luận và tâm thức nơi nơi vẫn chỉ lấy việc dự lễ chủ nhật
làm thước đo hành đạo ! Và như thế giáo huấn Giáo hội dạy phải
dấn thân vào bất cứ sinh hoạt nào của trần thế : chính trị, bác
ái, xã hội, văn hoá, tu đức đặc loại của giáo dân... có giá trị
như thế nào trong cuộc sống hằng ngày của việc điều hành Cộng
đồng và sống đạo? Giáo huấn Giáo hội còn xa lạ trong tâm thức,
điều đó còn có thể hiểu vì cần thì giờ thích ứng; nhưng ngay cả
trong giáo huấn chính thức của cộng đồng cấp quốc gia, giáo
phận, giáo xứ, trong các cơ sở truyền thông của Giáo hội địa
phương, trong nội dung đào tạo giáo sĩ, giáo dân ..., việc mạnh
dạn truyền đạt giáo huấn của Giáo hội và áp dụng vào cuộc sống
mục vụ thiết thực, tất cả còn ngập ngừng như có vẽ hoài nghi !
c- Niềm hy vọng
Những khó khăn nêu lên có những cơ sở giải thích của chúng. Tuy
nhiên chúng ta biết việc cổ võ Công việc tông đồ giáo dân, nêu
cao sứ mạng và ơn gọì của người tín hữu nầy nằm trong khuôn khổ
một cuộc canh tân Giáo hội học, nghĩa là toàn bộ sinh hoạt Giáo
hội chiếu theo Mẫu mực Phúc âm. Cuộc canh tân đó luôn luôn khởi
đầu lại, trường kỳ vì gắn với bản tính luôn sinh động mà luôn
phải canh cải để kiện toàn Giáo hội .
Bên
cạnh những đổi thay còn khó khăn, đôi lúc chậm chạp đến độ như
chết chìm so với vận tốc đổi thay phi mã của cuộc sống văn minh
trần thế, thì cũng phải nhìn nhận rằng chưa một cộng đồng tôn
giáo hay một nền văn hoá nào trong gần 50 năm qua đã thay đổi
nhanh chóng tâm thức và nếp sinh hoạt của mình (dĩ nhiên là đối
chiếu vào kiểu mẫu Phúc âm) hơn là Giáo hội công giáo. Làm sao
trước đây chúng ta có thể tưởng tượng có một hiệp hội như
Focolare do một phụ nữ (trăm phần trăm ở trong đời sống giáo
dân) đứng đầu, với sự tham gia của từng trăm hồng y, giám mục,
hàng ngàn linh mục làm hội viên, để còn qui tụ những thành phần
không phải chỉ là công giáo! Một điển hình, tuy quá chọn lựa,
nhưng không còn gây ngỡ ngàng, thắc mắc bên trong và bên ngoài
Giáo hội, cho phép chúng ta lượng giá một chặng đường rất dài đã
vượt qua được, và tiên liệu những thành quả còn sáng ngời hơn
nữa.
4- Giáo dân trong hoàn cảnh Việt Nam
Cận kề năm 2.000,
có lẽ chúng ta có dịp để kiểm điểm lại nếp sống cá nhân và cộng
đồng đối chiếu với giáo huấn của Giáo hội và tinh thần Phúc âm.
Nếu những khó khăn để cổ võ việc tông đồ giáo dân là tình trạng
chung của Cộng đồng Kitô hữu trong hoàn vũ, thì đối với Giáo hội
Việt Nam chúng ta trong và ngoài nước lại còn có những khó khăn
mười lần hơn.
Khó khăn riêng của
Cộng đồng Kitô hữu chúng ta trước hết phát xuất do tiền kiến lấy
mẫu mực tiền Công đồng để đánh giá cao nếp sống đức tin của
chúng ta. Mỗi lần nêu lên sinh hoạt Giáo hội, chúng ta có sẳn
các con số tham gia Thánh lễ chủ nhật để xí xoá tất cả : chúng
ta cho rằng Giáo hội nêu lên khủng hoảng là chỉ nói đến tình
trạng Giáo hội Tây phương, vì giáo dân không còn "giữ đạo" !
Tiên kiến đó hàm ngụ rằng thực ra giáo huấn của Giáo hội về giáo
dân cũng chỉ để cổ động giáo dân đi lễ; và tiền kiến kế tiếp là
xã hội và cộng đồng Công giáo Việt Nam muôn năm sẽ không bao giờ
thay đổi. Vượt lên trên tâm thức không chịu canh tân nầy chúng
ta cần đọc lại giáo huấn của Giáo hội để đối chiếu với sinh hoạt
của các cộng đồng, các sinh hoạt tôn giáo của chúng ta, và chúng
ta sẽ có được một sự lượng giá chính xác!
Nhưng niềm hy vọng
đang lên đường trong cộng đồng giáo hội Việt Nam
Gần đây, trong công
cuộc chuẩn bị họp Thượng Hội đồng Giám mục cho Á châu (tháng 4
và 5.98 tại Vatican) các giám mục Việt Nam đã xác nhận rằng Giáo
dân là thành phần tích cực truyền giáo trong giai đoạn qua, và
đề nghị một khung cảnh sinh hoạt sống đạo trong tình huynh đệ
gia đình, ăn khớp với tâm thức văn hoá Việt Nam. Hai yếu tố quan
trọng đã được nêu lên nhằm khai triển giáo huấn của Giáo hội áp
dụng cho Kitô hữu Việt Nam.
- Trở lại tinh thần
giáo sĩ - giáo dân sát cánh nhau năng nổ truyền giáo trong giai
đoạn thành lập Giáo hội Việt Nam, khi kẻ sĩ Ignace, chàng thanh
niên André Phú yên cùng với linh mục Alexadre de Rhodes xây dựng
cộng đồng. Ở đây phục vụ, truyền giáo, đi sâu vào văn hoá, ngôn
ngữ, tâm thức người Việt không phải chỉ là lý thuyết mà là nếp
sinh hoạt hằng ngày của cộng đồng những người "yêu thương
nhau".
- Kinh nghiệm sống
Đạo lý làm người của xã hội Việt Nam đã sớm biết một nề
nếp vượt lên các hình thức tôn giáo quá nặng nề hệ thống, cấp
bậc : Đạo lý Khổng-Mạnh đi vào xã hội như một tinh thần sống;
cuộc sống đạo nghĩa trong việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình
và đại gia đình... Đây là những kinh nghiệm quí giá để giúp Cộng
đồng Công giáo Việt Nam trong tương lai thoát dần nét quá
trần-tục-hoá của một tổ chức phẩm cấp trong Giáo hội chịu ảnh
hưởng phần nào sinh hoạt cũ của nền hành chánh La-mã và xã hội
Trung cổ Tây phương. Phải chăng đây là lý do thúc đẩy các Giám
mục hy vọng cho tương lai Cộng đồng huynh đệ Kitô hữu Việt Nam,
muốn lấy mẫu mực thời Tông đồ Công vụ làm điểm qui chiếu.
***
Để kết luận, xin
lấy lại lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong phần cuối Tông
huấn Christi Fideles Laici :
"Trước ngưỡng
cửa Đệ III Thiên niên, toàn thể Giáo hội, Chủ chăn, cũng như Tín
hữu, phải nhận ra một cách mạnh mẽ hơn nữa trách nhiệm của mình
và vâng theo mệnh lệnh của Chúa Kitô: "Các con hãy đi khắp
thế giới mà rao giảng Tin mừng cho muôn dân" (Mc. 16, 15) là
tái tạo một lối truyền giáo mới, Giáo hội được giao phó để thực
hiện một công trình có tầm vóc lớn lao, khó khăn và cao cả:
Đó là việc tiến hành "một lối rao giảng Phúc âm mới mà thế giới
ngày nay đòi hỏi một cách cấp thiết. Tín hữu giáo dân phải thấy
rằng mình là phần tử tích cực trong công cuộc đó: Họ được gọi để
loan báo và sống Phúc âm, bằng công tác phục vụ con người và xã
hội trong tất cả những giá trị và đòi hỏi của chúng" (C.L.
số 64).
_____________
Chú thích
Về thần học
giáo dân, yếu tố trần thế của Giáo hội, có rất nhiều tài liệu để
nghiên cứu, đặc biệt là các bản văn Công đồng và các công trình
thâm cứu sau đó. Một số hướng dẫn căn bản về nội dung nầy đã
được "Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân" xuất bản. Riêng về phần
Việt ngữ, Phong trào Giáo dân Vìệt Nam Hải ngoại đã đóng góp vào
việc hỗ trợ đào tạo giáo dân qua các bản dịch các Thông điệp
Giáo hoàng và một số sách Thần học Giáo dân :
- Người
Tín hữu Giáo dân - Bản dịch Tông huấn Christi Fideles
Laici - Định Hướng xuất bản 1990.
- Thông
điệp Vấn đề Xã hội, Định Hướng xb, 1990
- Giáo
dân vào những thế kỷ đầu của Giáo hội, A. Faivre, Định Hướng
xb, 1992.
-
Đào tạo Giáo dân
- Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân, Định Hướng xb, 1993.
-
Huấn thị Tự do Kitô Giáo và giải
phóng - Định Hướng
xb, 1993.
-
Đường lối tự tin, tụ lực, tự
cường - Roger Heckel,
s.j. Định Hướng xb, 1993.
-
Bài giảng trên núi -
Dấn thân Kitô Giáo, Nguyễn Đăng Trúc, Định Hướng xb, 1996.
-
Đối thoại và rao truyền -
Kitô giáo và các tôn giáo, Định Hướng xb, 1998.
- Giáo
hội và Nhân quyền, Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình,
Định Hướng xb, 1999
- Một
cái nhìn mới về Học thuyết Xã hội Công giáo - Hội đồng Giáo
hoàng Công lý và Hoà bình, Định Hướng xb, 1999.
Walter Kasper, L 'heure
des laïcs
trong tạp chí
Christus số 145, tháng 1.1990, tr. 27 - 28).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|