Mục Tiêu Phải Ðạt Tới
|
Thánh Công Ðồng Chung
Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương II:
Mục Tiêu Phải Ðạt Tới
5*
5. Nhập đề.
Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô cốt yếu nhằm việc cứu rỗi nhân loại, nhưng
cũng bao hàm việc canh tân tất cả trật tự trần thế. Do đó sứ mệnh của Giáo Hội
không những là đem Phúc Âm của Chúa Kitô và ân sủng của Người cho nhân loại, mà
còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế. Bởi
vậy, trong khi thi hành sứ mệnh này của Giáo Hội, người giáo dân làm việc tông
đồ trong Giáo Hội cũng như giữa đời, trong phạm vi thiêng liêng cũng như trong
phạm vi trần thế. Hai phạm vi tuy khác biệt, nhưng trong ý định duy nhất của
Thiên Chúa, chúng được liên kết với nhau đến nỗi chính Thiên Chúa muốn thâu tóm
vũ trụ lại trong Chúa Kitô thành một tạo vật mới, khởi sự ở trần gian và hoàn
tất trong ngày sau hết. Trong cả hai phạm vi, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa
là công dân, phải được hướng dẫn liên tục bằng một lương tâm Kitô giáo duy nhất.
6. Việc Tông
đồ nhằm rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Sứ mệnh của Giáo Hội nhằm
cứu độ con người, sự cứu độ thành đạt được nhờ đức tin vào Chúa Kitô và nhờ ân
sủng Người. Vậy việc tông đồ của Giáo Hội và của tất cả các chi thể trong Giáo
Hội trước hết nhằm loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói, việc làm và nhằm
chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian. Công việc này được thực hiện chính
là do tác vụ giảng lời Chúa và ban các bí tích, đặc biệt được trao phó cho hàng
giáo sĩ, trong tác vụ đó, cả giáo dân cũng phải hoàn tất phần quan trọng của
mình để trở nên "những kẻ hợp tác với chân lý" (3 Gio 8). Nhất là trong lãnh vực
này, việc tông đồ giáo dân và tác vụ chủ chăn bổ túc cho nhau.
Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm
việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô
và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến
đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng các con phải soi trước mắt
người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở
trên trời" (Mt 5,16).
Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại
việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền
Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho
tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn "vì tình yêu
Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang
lời Thánh Tông Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" (1Cor
9,16) 1.
Ở thời đại chúng ta phát sinh nhiều vấn đề
mới và nhiều sai lầm trầm trọng đang hoành hành nhằm khuynh đảo tận gốc tôn
giáo, trật tự luân lý và chính xã hội nhân loại, nên Thánh Công Ðồng này hết
lòng khuyên nhủ giáo dân mỗi người tùy tài năng và vốn liếng giáo lý, phải theo
tinh thần của Giáo Hội mà ân cần chu toàn phận vụ của mình trong việc làm sáng
tỏ, bảo vệ các nguyên tắc Kitô giáo và áp dụng đúng đắn những nguyên tắc đó vào
những vấn đề của thời đại này.
7. Canh tân
trật tự trần thế theo tinh thần Kitô giáo. Hẳn thật ý định Thiên
Chúa về thế giới là loài người đồng tâm canh tân và liên tục làm cho trật tự
trần thế thêm tốt đẹp.
Tất cả những gì tạo nên trật tự trần thế
như giá trị của cuộc sống và của gia đình, văn hóa, kinh tế, nghệ thuật và nghề
nghiệp, tổ chức cộng đồng chính trị, bang giao quốc tế, và những thực tại tương
tự khác, cũng như sự biến chuyển và tiến bộ của chúng, tất cả những thực tại đó,
hoặc xét ngay trong chính bản tính của chúng, hoặc xét chúng như thành phần của
toàn thể trật tự trần thế, chẳng những chúng là phương thế giúp con người đạt
tới mục đích tối hậu, mà chúng còn có giá trị riêng do Thiên Chúa phú bẩm: "Vì
Thiên Chúa nhìn thấy vạn vật Ngài đã tạo thành thảy đều rất tốt đẹp" (Stk 1,31).
Sự thiện hảo tự nhiên ấy của vạn vật còn có thêm một giá trị đặc biệt do sự liên
lạc của chúng với con người, vì chúng được tạo dưng để phục vụ con người. Sau
cùng, Thiên Chúa đã vui lòng qui tụ mọi loài, tự nhiên cũng như siêu nhiên, nên
một trong Chúa Giêsu Kitô "để Người được nắm quyền tối cao trên hết thảy" (Col
1,18). Nhưng sự đặt định này chẳng những không làm cho trật tự trần thế mất sự
tự lập, mất cứu cánh riêng cũng như các định luật và những phương tiện riêng,
hay mất tầm quan trọng đối với ích lợi của con người, mà trái lại còn làm cho
sức mạnh và giá trị riêng của trật tự đó thêm hoàn hảo, đồng thời nâng cao cho
hợp với thiên chức toàn vẹn của con người trên trái đất.
Qua dòng lịch sử, việc sử dụng những sự
vật trần thế mắc phải những sai lạc trầm trọng, bởi vì loài người đã bị nhiễm
tội nguyên tổ, thường sa vào nhiều lầm lẫn về Thiên Chúa đích thực, về bản tính
con người và về những nguyên tắc của luật luân lý: do đó, phong hóa và những
định chế của loài người bị hư hỏng, và chính nhân vị đôi khi cũng bị chà đạp.
Ngày nay cũng vậy, nhiều người vì quá tin tưởng vào tiến bộ khoa học và kỹ
thuật, nên dường như muốn tôn thờ sự vật trần thế, đến nỗi trở thành nô lệ sự
vật hơn là làm chủ chúng.
Công cuộc hoạt động của toàn thể Giáo Hội
là phải làm cho con người có khả năng xây dựng đúng đắn toàn thể trật tự sự vật
trần thế và qui hướng chúng về Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô. Các vị chủ chăn có
nhiệm vụ trình bày rõ ràng các nguyên tắc về mục đích việc tạo dựng và việc xử
dụng sự vật trần thế được canh tân trong Chúa Kitô. 6*
Còn giáo dân phải đảm nhận việc canh tân
trật tự trần thế như là nhiệm vụ riêng, và trong nhiệm vụ đó, nhờ được ánh sáng
Phúc Âm soi chiếu tinh thần của Giáo Hội hướng dẫn, và bác ái Kitô giáo thúc
đẩy, họ phải trực tiếp và cương quyết hành động. Với tư cách là công dân, họ
phải đem khả năng chuyên môn cùng tinh thần trách nhiệm để cộng tác với các công
dân khác. Họ phải tìm sự công chính nước Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi sự.
Phải canh tân trật tự trần thế cách nào để vẫn tôn trọng toàn vẹn các định luật
riêng của nó mà vẫn làm cho trật tự đó phù hợp với các nguyên tắc cao cả của đời
sống Kitô giáo, cùng thích nghi với các hoàn cảnh khác nhau của các địa phương,
các thời đại và các dân tộc. Trong những công cuộc của việc tông đồ này nổi bật
hơn cả là hoạt động xã hội của người Kitô hữu. Thánh Công Ðồng ước ao hoạt động
đó lan đến mọi lãnh vực trần thế kể cả lãnh vực văn hóa
2.
8. Công cuộc
bác ái dấu hiệu của việc tông đồ. Mọi hoạt động tông đồ phải bắt
nguồn và lấy sức mạnh từ đức ái 7*. Nhưng một
vài công việc tự bản chất của chúng có thể biểu lộ tình yêu cách sống động. Chúa
Kitô đã muốn những việc đó là dấu chỉ của sứ mệnh cứu độ (x. Mt 11,4-5).
Giới răn quan trọng nhất trong lề luật là
yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn và yêu tha nhân như chính mình (x. Mt 22,37-40).
Thật vậy, Chúa Kitô đã làm cho giới răn bác ái đối với tha nhân thành một giới
răn riêng của Người và mặc cho nó một ý nghĩa mới phong phú hơn, khi Người muốn
đồng hóa mình với anh em như chính đối tượng của bác ái, Người nói: "Bao nhiêu
lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người hèn mọn là anh em Ta
đây, tức là các ngươi làm cho Ta vậy" (Mt 25,40). Bởi vì khi nhận lấy bản tính
nhân loại chính Người đã nối kết toàn thể nhân loại với Người thành một gia đình
bằng một tình liên đới siêu nhiên, và Người đã dùng đức ái làm dấu chỉ của các
môn đệ Người, khi Người nói: "Nếu các con yêu thương nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà
nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Gio 13,35).
Trong thời sơ khai, Giáo Hội thánh đặt bữa
ăn thân tình "agapê" đi liền với bữa tiệc Thánh Thể để biểu lộ sự hiệp nhất hoàn
toàn trong tình yêu thương chung quanh Chúa Kitô. Như vậy, bất cứ thời đại nào,
người ta cũng nhận ra Giáo Hội nhờ dấu chỉ tình yêu này, và Giáo Hội đã tự đảm
nhận những công cuộc bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của
mình, dấu Giáo Hội vẫn hân hoan trước những sáng kiến của người khác. Vì thế,
Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng xót thương đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng
như những công cuộc mệnh danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống
khổ của nhân loại 3.
Thời nay nhờ những phương tiện giao thông
dễ dàng và nhanh chóng hơn, khoảng cách giữa loài người hầu như không còn nữa,
và dân chúng trên hoàn cầu được coi như những người cùng sống trong một gia
đình, nên những hoạt động và những công cuộc bác ái càng trở nên khẩn thiết và
cần được tổ chức rộng lớn hơn. Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải nhắm
tới tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu
mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những
phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người, ở đâu có người bị đau khổ vì
nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đày, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải
tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng. Thi
hành bổn phận này trước hết là bổn phận của những người giàu và các dân tộc giàu
4.
Ðể thực thi bác ái mà không bị chỉ trích
và để tỏ ra là bác ái đích thực, cần phải nhìn nhận nơi tha nhân hình ảnh Thiên
Chúa vì họ đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài và nhìn nhận nơi họ chính Chúa
Kitô, bởi vì bất cứ sự gì được tặng cho người nghèo là đã thực sự được dâng cho
Người. Phải hết sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người được trợ giúp.
Ðừng làm hoen ố ý hướng ngay lành vì mưu cầu tư lợi hay vì một tham vọng thống
trị nào 5. Phải thỏa mãn những đòi hỏi công
bình trước đã kẻo những tặng phẩm đem cho tưởng là vì bác ái, mà thực ra phải
đền trả vì đức công bằng. Phải tổ chức giúp đỡ sao cho những người được trợ giúp
dần dần thoát khỏi sự lệ thuộc người khác và có thể tự túc.
Vậy người giáo dân phải quí trọng và tùy
sức giúp vào các việc từ thiện và những sáng kiến nhằm cứu trợ xã hội của tư
nhân cũng như của quốc gia, kể cả quốc tế. Nhờ những công cuộc đó, người ta mới
trợ giúp hữu hiệu cho mỗi người và mỗi dân tộc đang lâm cảnh khốn cùng. Trong
việc này, giáo dân cần cộng tác với mọi người thiện chí
6.
Chú Thích:
5*
Công đồng nêu lên nguyên tắc hướng dẫn tổng quát cho việc tông đồ này: trật tự
siêu nhiên và tự nhiên, tuy vẫn phân biệt nhau, nhưng cùng hợp nhất trong một ý
định của Thiên Chúa, là Ngài muốn qui tụ toàn thế giới trong Chúa Kitô, và chính
do ý định này mà hoạt động tông đồ giáo dân cần thiết có mặt trong lãnh vực trần
tục.
Ðức Phaolô VI, vào ngày 3 tháng Giêng năm
1964, đã nói với những người tốt nghiệp khóa "Công Giáo Tiến Hành": "Chúng con
phải ý thức về hai xã hội khác biệt nhau này, chúng luôn đi đôi với nhau và liên
hệ với nhau. Và chính khi chúng con nhìn nhận cả hai quyền hành này, quyền của
Giáo Hội và quyền của trần gian, mà chức vụ của chúng con được phát triển...
chúng con trở nên chứng nhân Kitô giáo trong lãnh vực nghề nghiệp của chúng con
và là công dân gương mẫu trong đời sống công giáo".
1 Xem
Piô XI. Tđ Ubi arcano, 23-12-1922: AAS 14 (1922) trg 659. - Piô XII, Tđ Summi
pontificatus, 20-10-1939: AAS 31 (1939), trg 442-443.
6* Ðể
bảo đảm giá trị ơn gọi trần thế của người giáo dân, Công Ðồng đã nhắc lại những
nguyên tắc nền tảng của giá trị trần thế. Ðã từ lâu, nhiều Kitô hữu và trường
phái tu đức tỏ ra coi thường những giá trị nhân bản, và thường họ chỉ đánh giá
của cải vật chất như những phương tiện giúp cho việc cứu rỗi cũng như cho mục
đích siêu nhiên của người Kitô hữu.
Công Ðồng xác định rằng những tài sản của
đời sống và gia đình, nền văn hóa, kinh tế, chánh trị, hay những liên lạc quốc
tế v.v... đều có những giá trị riêng của chúng do ý muốn của chính Thiên Chúa
(x. MV 36).
Nhưng bậc thang giá trị đúng đắn đòi hỏi
rằng những tài sản vật chất ấy, thay vì trở nên thần tượng hay những ông chủ độc
tài của con người, phải tùy phục vài lý trí con người cũng như vào những nguyên
tắc của đời sống luân lý. Vì chưng, do sự liên lạc mật thiết với nhân phẩm con
người mà những tài sản vật chất ấy giữ giá trị của chúng.
2 Xem
Leô XIII. Tđ Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 647. - Piô XI, Tđ Quadragesimo
Anno: AAS 23 (1931), trg 190. - Piô XII, Nuntius radiophonicus, 1-6-1941: AAS 33
(1941), trg 207.
7*
Hoạt động bác ái nằm trong lãnh vực siêu nhiên và trần thế, vì thế tự nó, hoạt
động tông đồ giáo dân luôn bao hàm hoạt động bác ái. Tuy nhiên hoạt động bác ái
này vẫn luôn có đặc tính thúc đẩy tự nhiên trong mọi lãnh vực, và điều này chứng
tỏ cách đặc biệt tinh thần của Chúa Kitô.
3 Xem
Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 402.
4 Xem
n.v.t. trg 440-441.
5 Xem
n.v.t. trg 442-443.
6 Xem
Piô XII, Huấn từ ad Pax Romana MIIC, 25-4-1957: AAS 49 (1957), trg 298-299. Và
nhất là Gioan XXIII, ad Conventum Consilii "Food and Agriculture Organisation"
(F.A.O.), 10-11-1959: AAS 51 (1959), trg 856,866.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ MÌNH
|
Suy niệm Lời Chúa CN
23 TN B
Con cái là
niềm vui tuyệt vời của cha mẹ. Sinh được một người con là hồng
ân lớn lao cho cha mẹ, gia đình, dòng tộc.
Nhưng sinh
một đứa con kém may mắn, không hoàn hảo, tật nguyền, dị dạng,
thiểu năng bẩm sinh, câm điếc chẳng hạn, không chỉ là nỗi buồn
mà còn là thử thách lớn lao cho cha mẹ: thử thách tình yêu và
thử thách niềm tin. Thật là cao cả, đáng quí, đáng ca ngợi biết
bao những cha mẹ phải chịu đựng hy sinh cả đời trong tin yêu phó
thác mà không một lời than vãn kêu ca. Tất cả tình thương và
những gì tốt đẹp nhất được dành hết cho đứa con tật nguyền, bệnh
hoạn. Tôi vẫn nghĩ, họ đang mặc lấy trái tim yêu thương nhân hậu
của Chúa mới có thể đối xử với con mình cách đáng trân trọng như
thế. Bằng không, thật là tồi tệ.
Sinh được một
đứa con hoàn hảo, xinh đẹp, niềm vui ấy còn tuyệt vời hơn. Con
khôn ăn chóng lớn, nói chắc, đi vững, là phần thưởng cho những
hy sinh của cha mẹ. Rồi con ngoan ngoãn, nghe tốt, vâng kỹ, học
giỏi, thành người có ích cho gia đình, cho xã hội, thì cha mẹ
hãnh diện biết bao.
Nhưng đối với
những cha mẹ Công Giáo, thì thiết tưởng nên chọn niềm vui thiêng
liêng cao quí nhất là thấy con khôn ngoan biết thờ phượng Chúa,
siêng năng kinh hạt, sốt sắng Thánh Lễ, viếng Chúa, đọc học Lời
Chúa và nên người con của Chúa cách xứng đáng: biết mến Chúa yêu
người trong gia đình và ngoài xã hội.
Nếu trong nhà
bạn, trong nhà tôi có những đứa con hình dáng xinh đẹp, trí khôn
thông minh, học hành giỏi giang, kinh tế vững vàng… mà không
thuộc kinh nào, hoặc là hồi nhỏ đọc kinh với cha mẹ thuộc làu
làu, lớn lên bỏ đọc dần rồi quên hẳn, thì chẳng phải là con mình
đang bị câm đó sao ?
Hồi nhỏ nghe
lời cha mẹ, nghe Lời Chúa, lớn lên rồi có được ít chữ, ít kinh
nghiệm, ít tiền rủng rỉnh trong túi, thì coi cha mẹ là tụt hậu,
là “đồ cổ”, và không buồn nghe cha mẹ bảo ban nhắc nhở nữa, cũng
không nghe Lời Chúa, không giữ luật Chúa nữa… thì chẳng phải là
con mình bị điếc đó sao ?
Con
không nói được một lời cảm ơn, một lời xin lỗi, huống chi nói
được một lời ủi an cha mẹ trong lúc tuổi già, huống chi nói được
một lời yêu thương, tri ân hay hiếu kính, chẳng phải là nó đã bị
bệnh câm rồi đó sao ?
Con không
nghe được tiếng lòng của cha, không nghe được nỗi đau của mẹ thì
làm gì nghe được nỗi xót xa của tha nhân, chẳng phải nó bị điếc
rồi đó sao ?
Thật bi đát !
Bệnh câm điếc của con, đã đành, lại thêm bệnh câm điếc của vợ,
của chồng, của cha mẹ.
Ông B buồn
uống rượu cả ngày chỉ vì bà B chưa bao giờ chịu nhún nhường xin
lỗi ông B trong suốt 40 năm làm vợ. Bà X cả ngày không nói gì
nếu ông X không hỏi. Bà A chưa bao giờ hỏi ông A câu “Ông có
khỏe không ?” Có vợ chồng chưa bao giờ đọc kinh chung với nhau
kể từ sau ngày cưới ! Đến ngày cưới vợ cho con, mướn một tay MC
đọc kinh luôn, hoành tráng hơn, bài bản hơn ! Vợ chồng chẳng ai
chịu nghe ai, chẳng ai hiểu ai, trong khi hai người đều nói
tiếng Việt ! Chẳng phải là bệnh câm điếc đang hoành hành ngay
trong nhà mình đó sao ?
Nếu vợ chồng,
con cái trong gia đình mà không nói nhau nghe, không nghe nhau
nói, thì còn gì là một tổ ấm yêu thương ? Cả nhà chúng ta cùng
câm điếc mãi vậy được sao ? Ra đường, đến Nhà Thờ, làm công tác
tông đồ, làm ông kia bà nọ, nói và nghe khá lắm, mà về nhà thì
lại câm và điếc với nhau. Thật vô lý ! Đã thế, lại không có ước
muốn chữa lành bệnh câm điếc trong nhà mình !
Sống với nhau
bằng xương bằng thịt hữu hình, sờ tận tay, thấy tận mắt mà còn
câm điếc thì nói gì đến việc sống với Thiên Chúa, Đấng Vô Hình ?
Khi đã mang bệnh câm điếc trong gia đình như thế thì rõ ràng là
không có dấu chỉ nào cho thấy sự trưởng thành cần có về Đức Tin
và đời sống nội tâm với Thiên Chúa.
Từ gia đình
ruột thịt, đến gia đình thiêng liêng, gia đình Hội Thánh, bệnh
câm điếc cũng tràn lan:
- Cấp trên
cấp dưới trong Hội Thánh chưa thực sự trân trọng việc nói và
nghe nhau. Có khi lại còn xu nịnh phường gian ác, nạt nộ kẻ lòng
ngay. Tiếng nói của con chiên vẫn luôn là thấp bé, kém giá trị,
nhất là những con chiên nghèo, con chiên tội lỗi, con chiên bị
áp bức, con chiên ít học lại hay nói thật mất lòng, con chiên bị
kết án chống đối. Con chiên bị phân biệt đối xử đúng như khuyến
cáo của Thánh Giacôbê trong bài đọc 2 hôm nay ( x. Gc 2, 1 – 5
). Câm điếc thật nguy hại !
- Gương xấu
câm điếc trịch thượng ấy cũng lây lan sang cho kẻ lớn người nhỏ
trong các Giáo Xứ, các Hội Đoàn chẳng ai muốn nghe ai. Câm điếc
thật đáng sợ !
Thế nhưng,
được mấy người biết mình đang câm điếc ? Được mấy người biết sợ
bệnh câm điếc ? Được mấy người “xao xuyến”, quan tâm đến chuyện
nạn câm điếc đang hoành hành nơi chính mình, trong nhà, ngoài
cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội ? Và được mấy người có ước
muốn chữa lành bệnh câm điếc cho bản thân và cho mọi người trong
thời đại hôm nay ?
Trong khi có
quá nhiều người không biết mình đang mắc bệnh câm điếc thì Lời
Chúa hôm nay mời gọi mọi người hãy biết “xao xuyến”, biết sợ
bệnh, có ước muốn được điều trị bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt
tay chữa lành.
Có “biết mình
đang mắc bệnh” rồi xao xuyến, và sợ bệnh thì mới cảm được lòng
lo của Thiên Chúa qua lời mời gọi của Ngôn Sứ Isaia:
“Hãy nói với những tâm hồn xao
xuyến: Can đảm lên, đừng sợ ! … Tai người điếc sẽ mở ra và người
câm sẽ nói được" ( x. Is 35, 4 – 7a ).
Có ước muốn
chữa bệnh và tin tưởng khẩn xin Thiên Chúa chữa cho thì mới được
chữa khỏi. Tin Mừng kể rõ:
“Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt
tay trên kẻ ấy”. Người câm điếc ấy hẳn có đủ các
yếu tố: biết bệnh, sợ bệnh, muốn được chữa khỏi và bằng lòng xin
Chúa Giêsu đặt tay chữa bệnh… ( x. Mc 7, 31 – 37 ).
Lạy Chúa Giêsu, mỗi
chúng con đều ít nhiều đang bị bệnh câm điếc trong nhà ngoài
cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội. Xin cho chúng con biết sợ
bệnh, biết ước muốn lành bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay để
mở tai chúng con nghe Lời Chân Lý, nghe được tiếng than khóc của
tha nhân, mở miệng chúng con để ca tụng Tình Yêu Chúa, bênh vực
kẻ bị áp bức, nói lời nhân ái trong gia đình và giữa cuộc đời.
Amen.
PM. CAO
HUY HOÀNG, 6.9.2012 |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CHÚA ĐƯỢC NHÂN CÁCH HOÁ CÁCH TIỆM
TIẾN |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình
một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn
Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng
sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời
Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư
Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina
Lecdiv@gmail.com để
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".
Đan viện Xitô Thánh Mẫu
Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai
trung thành thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh,
O.Cist fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ
THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ
mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à
l’homme?
Chương
5: LỜI CHÚA ĐƯỢC NHÂN CÁCH HOÁ CÁCH
TIỆM TIẾN
Mầu nhiệm Lời Chúa được mạc khải dần
dần
Chúng ta đã thấy rằng “lịch sử tính” của Lời Chúa, cùng với việc
linh hứng, là một khái niệm then chốt để hiểu việc mạc khải dần
dần của Chúa, Người dùng tất cả thời gian cần thiết của mình để
tinh luyện lương tâm con người. Vì vậy mà trải qua bao thế kỷ,
người ta đã có những biểu tượng khá thất vọng về Thiên Chúa, từ
một Thiên Chúa “thiện chiến”, bảo vệ chi tộc, rồi đến một ý niệm
thiêng liêng hơn.
Thí dụ hiển nhiên nhất là việc biến đổi chậm chạp của các
tác giả được linh hứng, qua dòng thời gian, họ càng ngày càng
“nhân cách hoá” Lời, được mô tả như một “sứ giả sống động”, như
kẻ vén mở và chấp hành những chỉ thị của Thiên Chúa.
“Người tống
đạt lệnh truyền xuống đất,
lời phán ra hỏa tốc chạy đi”
(Tv 147, 15).
Một sứ giả lao mình từ không gian thiêng thánh đến với con
người:
“Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường
chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của
Người đã rời bỏ ngôi báu...”
(Kn 18, 14-15).
Một sứ giả có quyền năng chữa trị cho con người:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người ra tay cứu họ thoát ngàn nỗi gian truân.
Sai lời
Người đến, chữa cho lành mạnh,
cứu họ khỏi sa vào hố sâu”
(Tv 107, 19-20).
Và trong một vài bản văn, Lời còn được diễn tả như một ngôi vị
khác với Thiên Chúa, dấn thân vào trong lịch sử, mang một sứ vụ
và đã hoàn tất sứ vụ đó cách hiệu quả. Phải chăng Thần Khí đã
chuẩn bị tâm hồn con người như thế cho mầu nhiệm nhập thể của
Đức Ki-tô?
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời
nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi
nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì
lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về
với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý
muốn của Ta, chưa chu toàn sứ
mạng Ta giao phó”
(Is 55,
10-11).
Lời Chúa được đồng nhất hoá với sự Khôn
Ngoan
Còn về loại văn chương khôn ngoan, nó cũng từ từ đi đến việc
đồng nhất hóa Lời và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Và càng
ngày nó cũng càng được mô tả như một ngôi vị riêng, khác biệt
với Thiên Chúa. Sự Khôn Ngoan này, vì cùng có những thuộc tính
như Lời, nên được biểu hiện như kẻ thừa tự của Lời, Khôn Ngoan
chứng giám sự tạo thành vũ trụ, kêu gọi con người, thực thi
những kế hoạch của Thiên Chúa, Khôn Ngoan soi sáng trí thông
minh và tư cách của người khôn, để họ yêu thích và đón nhận lời
chỉ giáo:
“Hỏi rằng Ðức Khôn Ngoan đã không mời gọi, và Hiểu Biết đã
chẳng lên tiếng đó sao? Trên đỉnh cao bên đường phố, tại các
giao lộ, Ðức Khôn Ngoan đứng đó; bên cổng dẫn vào thành, nơi lối
đi tới cửa thành, Ðức Khôn Ngoan kêu to: "Phàm nhân hỡi, ta mời
gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài
người. Hỡi những kẻ ngây thơ, hãy học cho biết điều khôn khéo;
hỡi những người ngu xuẩn, hãy học cho biết lẽ phải chăng. Nghe
đây, ta sẽ công bố những lời cao quý, môi ta sẽ thốt lên những
điều ngay thẳng. Miệng ta nói sự thật, môi ta ghê tởm chuyện
gian tà. Mọi lời ta nói ra đều ngay chính, không có chi sai lạc,
chẳng có gì quanh co...”
(Cn 8, 1-11).
Một cách lạ lùng hơn nữa, Khôn Ngoan còn mở tiệc mời con người
đến dự để cùng đồng bàn với họ:
“Ðức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình... hạ thú vật, pha chế
rượu, dọn bàn ăn ... Ðức Khôn Ngoan còn kêu gọi: "Hỡi người ngây
thơ, hãy lại đây!...Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta
pha chế!...
(Cn 9, 1-6).
Đối với tác giả Kinh Thánh, Khôn Ngoan như là một “ngôi vị”
của Thiên Chúa. Đó là một điều không thể tưởng được, đối với một
tôn giáo triệt để độc thần của dân Do Thái. Nhưng dù sao thì sự
Khôn Ngoan cũng đã hiện hữu bên cạnh Thiên Chúa, ngay cả trước
khi tạo thành vũ trụ:
“Ðức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,
trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất. Ta đã được
tấn phong từ đời đời, từ nguyên thuỷ, trước khi có mặt đất. Khi
chưa có các vực thẳm, ta đã được sinh ra... Ta hiện diện bên
Người như tay thợ cả”
(Cn 8, 22-30).
Sự Khôn Ngoan này cũng được Thần Khí ngự trị và biểu lộ những
sắc thái càng ngày càng thánh thiêng hơn:
“Quả vậy, nơi Ðức Khôn Ngoan, có một thần khí tinh tường và
thánh thiện, duy nhất và đa năng, tinh tế và mau lẹ, minh mẫn và
tinh tuyền, trong sáng và thản nhiên, lanh lợi và chuộng điều
lành... bất khuất, từ bi và nhân ái, cương quyết, vững vàng và
điềm tĩnh, làm được mọi sự và quan tâm đến mọi điều... Ðức Khôn
Ngoan toả ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngần từ
vinh hiển Ðấng Toàn Năng... Ðức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng
vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của Người... Ðức Khôn Ngoan đổi mới
muôn loài. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, Ðức Khôn Ngoan ngự vào
những tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa,
nên ngôn sứ của Người”
(Kn 7, 22-27).
“Nguồn gốc cao sang của mình, Ðức Khôn Ngoan làm rạng ngời
vinh hiển, bởi Ðức Khôn Ngoan luôn sống cùng Thiên Chúa... hỏi
có ai hơn được Ðức Khôn Ngoan là tay thợ đã làm nên tất cả?”
(Kn 8,
3.6).
Sự Khôn Ngoan còn được đồng nhất hoá, vừa với Lời Tác Tạo, vừa
với Thần Khí của Thiên Chúa:
“Lạy Thượng Ðế của bậc tổ tiên, lạy Ðức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật, dùng sự khôn ngoan Chúa
mà cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài Chúa dựng
nên, và sống sao cho thánh thiện công chính mà chỉ huy cả vũ trụ
này, ... Xin rộng ban cho con Ðức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà
Chúa. Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,
chính Người chẳng ban Ðức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh”
(Kn
9, 1-4.17)?
Sự Khôn Ngoan có khi cũng đồng nhất hoá với tinh hoa của Lời
Chúa như: Lề Luật, Sách Giao Ước:
“Ðức Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh diện ở giữa dân mình.
Khôn ngoan lên tiếng trong đại hội của Ðấng Tối Cao và hãnh diện
trước quyền uy của Người. Ta phát xuất từ miệng Ðấng Tối Cao và
như mây mù,
Ta bao phủ cõi đất. Người đã dựng nên Ta trước muôn đời, từ khởi
thuỷ, và Ta sẽ tồn tại mãi đến muôn đời”
(Hc 24 ,
1-3.9).
Ta thấy rõ một xu hướng kỳ diệu nghiêng hẳn về sự tương đương
hoàn toàn giữa Lời Chúa, sự Khôn Ngoan và Thần Khí. Chúng ta
đang đứng trước mầu nhiệm linh hứng, nhờ đó mà Thần Khí Chúa
chuẩn bị cho đỉnh điểm của Mạc Khải, để được kiện toàn bởi việc
nhập thể của Đức Giê-su Ki-tô, Lời và Khôn Ngoan. Chính Thầy
Giê-su khẳng định rằng toàn thể Kinh Thánh nói về Thầy.
Làm sao có thể không nghĩ đến những đoạn văn ghi lại lời Thầy
Giê-su nói: “Ta là đường”, con Đường dẫn đến Thiên Chúa, Lề Luật
mới. Lời tiên báo được linh hứng về mầu nhiệm Ba Ngôi Cực Thánh
mà Đức Ki-tô sẽ vén mở cho chúng ta. Trong những bản văn ấy đã
hé mở cho ta thấy tác động của Ngôi Lời Thiên Chúa trong tạo vật
và trong lòng người.
Với sự giao thoa giữa văn hoá Kinh Thánh với văn hoá cổ
Hy-lạp (Sách Khôn Ngoan được viết bằng tiếng Hy-lạp), chúng ta
được chứng kiến một sự đồng hoá dần dần của “Lời” davar
theo tiếng Do-thái và logos của Hy-lạp. Sau này, nhờ ánh
sáng Đức Ki-tô, thánh Gio-an đã dám gọi Ngôi Lời của Thiên Chúa
là Logos.
1. Hypostase
có nghĩa:
“một người, ngôi vị riêng biệt”. Theo mạc khải
Ki-tô giáo, có trong Thiên Chúa, ba ngôi vị: Cha,
Con và Thánh Thần. Một bản tính Thiên Chúa trong
ba ngôi vị khác biệt
2. Tác giả nghĩ tới sự hiện diện của Thần Khí,
trong trình thuật sáng thế, bay lượn trên mặt
nước.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BẬT GỐC
|
Nguồn:
http://hdgmvietnam.org/bat-goc/4181.95.5.aspx
Gần đây, một
loạt liên tiếp những vụ việc xảy ra, được nhận định như những
“thiên tai” và “nhân tai” trong xã hội Việt Nam. Những sự kiện
ấy khiến chúng ta suy nghĩ về đời sống con người, với hy vọng
mỗi người sẽ đóng góp phần mình để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
Xin trích dẫn một vài trường hợp:
“Chiều nay
17-8-2012, khi cơn giông kèm
theo gió
lớn xảy
ra do ảnh hưởng của cơn bão số 5, một vụ việc thương tâm đã xảy
ra trên phố Lò Đúc (Hà Nội), một cây lớn bật rễ đã đè bẹp một
chiếc xe taxi đậu trước số nhà 95F, phố Lò Đúc, làm tài xế tử
vong ngay say đó”
(Trang điện tử “Tin Mới”, 17-8-2012).
“Lúc gần 10g
sáng ngày 22-8-2012, cây xà cừ cổ thụ trên đường Trần Nhân Tông,
gần cổng chính của Công viên Thống Nhất (Hà Nội), có đường kính
thân hai người ôm đã bật gốc, dù thời tiết bình thường, trời
nắng ráo, gió nhẹ”
(Vietnamnet 22-8-2012).
“Một vụ sạt lở xảy ra vào khoảng 7g30 phút sáng ngày 19-8-2012
khiến đoạn đường Lê Văn Lương kéo dài, đoạn qua khu đô thị Dương
Nội bị xẻ đôi, xuất hiện hố tử thần giữa đường” (Vietnamnet
19-8-2012).
“Cơ quan CSĐT
công an huyện Bình Chánh đang phối hợp cùng các đơn vị nghiệp vụ
công an TP.HCM truy bắt hung thủ gây ra vụ cướp tiệm vàng táo
tợn giữa ban ngày tại tiệm vàng Minh Mẫn đóng tại xã Bình Chánh,
huyện Bình Chánh, TPHCM ngày 4-8-2012”
(Trang điện tử “Pháp Luật” ngày 7-8-2012).
“Nguồn tin riêng của Dân trí từ Cơ quan CSĐT Công an TP. Hà Nội
cho biết: Công an Hà Nội đã có Quyết định truy nã đặc biệt đối
với Nguyễn Tuấn Minh sinh năm 1973 tại Hà Nội, Chủ tịch HĐQT
Công ty Cổ phần Đào tạo Mua bán trực tuyến (Muaban24)”
(Dân trí 29-8-2012).
Nếu trích dẫn
tiếp thì những thông tin sẽ còn rất dài, tưởng như vô tận.
Để trả lời
cho câu hỏi tại sao cây bật gốc, người ta đưa ra câu trả lời vừa
nhanh vừa đơn giản: “Tại bão”. Nhưng: “Tại sao không có bão mà
một cây cổ thụ lớn đến hai người ôm vẫn đổ?” Không có câu trả
lời. Thật là khôi hài khi cây cổ thụ trăm tuổi “bỗng dưng muốn
nằm” vào lúc thời tiết rất đẹp. Người ta không thể đổ cho trời,
vì trời hoàn toàn “vô tội” trong vụ này.
Để trả lời
cho câu hỏi tại sao đường sụt lún gây nên “hố tử thần”, vị Chánh
thanh tra giao thông vận tải Hà Nội lý luận là do tác động của
ngoại cảnh (!?). Sau đó, vị Chánh thanh tra này lại khẳng định:
“Đường lún là
do các rãnh cao su bong tróc, đứt gãy, kết hợp với mưa to làm
nước lún sâu vào nền đường” (Trang
tin điện tử “Dân trí”, ngày 19-8-2012).
Thế là “thủ phạm” vụ này đã rõ: đó là mấy cái rãnh cao su. Mà
mấy cái rãnh cao su lợi hại thật, đến nỗi làm cho đường há ra,
nuốt gọn cả cái cổng chào kiên cố được dựng nhân sự kiện ngàn
năm Thăng Long – Hà Nội!
Để trả lời
cho câu hỏi tại sao bây giờ xảy ra nhiều vụ lừa đảo và cướp bóc
giết người như vậy, người ta đổ cho cái nghèo. Vì nghèo mà làm
bậy. Nhưng trong thực tế, khá nhiều thủ phạm gây tội ác không
phải xuất thân từ những gia đình nghèo. Họ là con nhà giàu, được
gọi bằng những danh xưng rất truyền thống và cũng rất hiện đại:
“con quan”, “thiếu gia”, “cậu ấm, cô chiêu”… Họ thường ỷ thế bố
mẹ, cậy có ô dù bảo vệ, liều lĩnh đâm chém, gây rối mà vẫn nhởn
nhơ ngoài vòng pháp luật, thách thức công luận, coi thường đạo
lý.
Quy tội và đổ
trách nhiệm cho người khác, đó là một nết xấu thường có nơi con
người. Ngay từ ban đầu lịch sử, trong vườn Địa đàng, vừa khi
nghe tiếng Chúa hỏi về việc ăn trái cây giữa vườn, ông Ađam đã
trả lời tỉnh queo:
“Người đàn bà
Chúa cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây ấy và
con đã ăn” (St 3,12). Ađam
đã đổ lỗi cho người đàn bà, đồng thời đổ lỗi cho Chúa, vì khi
nói “người
đàn bà Chúa cho làm bạn với con”,
ông ngụ ý rằng Chúa cho ông điều không tốt, Chúa là nguyên nhân
dẫn đến việc ông phạm tội, vậy thì trách nhiệm phần nào cũng
thuộc về Chúa. Ađam vô tư thản nhiên khi đưa ra cách lập luận
như vậy.
Vậy là, theo
lý luận của những người có trách nhiệm, cây đổ là do bão, bão là
do trời; đường lún là do mưa, mưa là hiện tượng thiên nhiên, chỉ
có ông Trời mới làm được. Những người thi công đường bộ và những
người quản lý cây xanh đô thị chẳng có lỗi gì.
Thực ra, có
một lý do chính thường bị người ta lảng tránh, đó là
lương tâm con
người đã bị bật gốc. Trời
đang nắng và gió nhẹ, bỗng cây đổ, là do con người chặt hết rễ
cây để xây nhà và làm đường. Trời vừa mưa, mọi tuyến phố ngập là
do con người lấp hết ao hồ và hệ thống tiêu nước. Đường sụt lún,
là do con người làm ẩu, thất thoát vật liệu xây dựng và rút ruột
công trình. Tất cả những lỗi ấy đều do con người gây nên. Lòng
tham của con người là nguyên nhân dẫn tới bao tai hại. Con người
phải lãnh trách nhiệm về mình. Gần đây, một vài tác giả nói về
một loại hình văn hóa mới, đó là “văn hóa nhận lỗi”. Đây là
phương thuốc căn bản, tối ưu để chữa căn bệnh tạm gọi là “bệnh
bật gốc” này. Thật là hài hước khi nhìn những hình ảnh đăng trên
internet cho thấy một cây rất cao rất lớn mà rễ chỉ còn chút
xíu. Những cụm rễ như chòm râu lởm chởm, bên cạnh vết nứt toác,
nom như nụ cười nham nhở giễu cợt sự vô tâm của con người.
Từ sự kiện
cây bị bật gốc, đường bị xẻ ngang, chúng ta liên tưởng đến những
vấn đề nhân cách và đạo đức trong xã hội: tham nhũng hối lộ,
cướp bóc giết người, thi cử gian lận, thực phẩm nhiễm độc, sa
đọa luân lý, tan vỡ gia đình… Trước những sự việc xảy ra, người
ta thường đổ lỗi cho môi trường xã hội. Nhưng xã hội là một khái
niệm rất rộng và rất mơ hồ. Xã hội là tất cả mọi người và xã hội
cũng chẳng là ai cả. Đổ thừa cho xã hội là đổ thừa cho hết mọi
người. Quy hết trách nhiệm cho xã hội chẳng khác gì đánh bùn
sang ao. Ai cũng có trách nhiệm cả mà cuối cùng chẳng ai có
trách nhiệm.
Muốn giải
quyết được những vấn đề gây nhức nhối trong thời đại chúng ta,
thiết tưởng phải chữa căn bệnh này từ gốc. Sức sống của cây nằm
ở chỗ mà nó không hiển lộ ra cho mọi người có thể thấy được. Nó
ở tại bộ rễ sâu dưới mặt đất. Nếu không chăm sóc cho những rễ
này thì hoa và lá sẽ tàn lụi và cây sẽ mất dần sự sống, đến chỗ
khô héo và chết.
Cây bật gốc
là vì mất hết rễ, con người gian ác vì vô giáo dục. Đây là cái
giá phải trả cho những quan niệm lệch lạc một thời về giáo dục,
khi người ta chú trọng đến tuyên truyền “lập trường giai cấp”
hơn là huấn luyện đạo đức con người. Phương châm giáo dục từ xa
xưa
“tiên học lễ hậu học văn”
có thời đã bị quên lãng, nhường chỗ cho một thứ giáo dục bát
nháo, thi đua bằng cấp, ồn ào về số lượng. Truyền thống tốt đẹp
của người Việt Nam “tôn sư trọng đạo” đã bị thay thế bằng bạo
lực học đường, dẫn tới tình trạng học sinh đâm chém thày cô
giáo. Điều kỳ lạ là trong lúc người ta lo ngại và thất vọng về
kết quả học tập của học sinh, thì kỳ thi tốt nghiệp năm 2012
này, tỷ lệ tốt nghiệp lại cao ngất ngưởng, tạo ra những “con số
đẹp như mơ”. Trang tin điện tử Giadinh.net ngày 18-6-2012 đăng
thông tin từ ông Nguyễn Hoài Chương, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và
Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. Theo ông, tỷ lệ tốt nghiệp của
thành phố năm nay đạt 98,18% . Hà Nội, một trong những địa
phương có số lượng thí sinh dự thi cao nhất nước, năm nay có tỉ
lệ đỗ 98,24% ở bậc Trung học phổ thông. Tại Hải Phòng, năm nay
toàn thành phố chỉ có 55 học sinh trượt tốt nghiệp, học sinh các
trường Trung học phổ thông đỗ tốt nghiệp đạt 99,82%. Cứ dựa vào
những thông tin này, thì chúng ta phải ăn mừng, vì con cháu
chúng ta càng ngày càng giỏi. Chả thế mà cuối năm 2011 Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã “ra chỉ tiêu” đến năm học
2019-2020, nước ta sẽ có 29.000 tiến sĩ dạy đại học (x.Trang tin
điện tử trường Trung học Phổ thông Amsterdam Hà Nội, 4-1-2012).
Nhưng hỡi ôi, số các vụ trộm cắp, lừa đảo, giết người mà thủ
phạm ở tuổi học sinh cũng tăng tỷ lệ thuận với tỷ lệ thi tốt
nghiệp. Phải chăng phần “rễ” của xã hội quá mỏng không đủ sức
nâng đỡ và giữ vững con người trước cơn lốc hưởng thụ hôm nay?
Cũng giống như người ta cắt rễ cây để xây cao ốc, hiện nay phần
rễ đạo đức của xã hội cũng bị cắt hết để chạy theo phần nổi hào
nhoáng của một cuộc sống đua chen hằng ngày.
Trước những
vấn đề nóng bỏng của gia đình và xã hội, nhiều người thốt lên:
“xã hội này mất gốc rồi!”. Thật vậy, chúng ta đang đánh mất
truyền thống tốt đẹp của người Việt được in đậm nét trong những
câu ca dao thuở nào “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”. Chúng ta cũng đang đánh mất truyền
thống “nhất tự vi sư bán tự vi sư” nơi nhà trường, đánh mất lòng
hiếu thảo, thủy chung trong gia đình. Những nét đẹp này của nền
văn hóa Việt, xem ra ngày càng hiếm thấy giữa một xã hội đầy bon
chen và đậm mùi bạo lực hôm nay. Một khi “mất gốc” thì tội ác sẽ
lên ngôi và thống trị xã hội.
Làm thế nào
để chữa được căn bệnh này? Tương lai dân tộc sẽ đi về đâu? Nhiều
người đã đặt ra câu hỏi. Để giải bài toán hóc búa này, muộn còn
hơn không, chúng ta phải xây dựng một nền giáo dục dựa trên
lương tâm và đạo đức của con người. Đó là cái “gốc” cho cây Việt
Nam được vững vàng. Những người lãnh đạo cũng cần nhận ra giá
trị đạo đức và vai trò quan trọng của các tôn giáo. Khi không
còn tin vào những giá trị siêu nhiên, con người sẽ bị chệch
hướng cuộc đời. Chối bỏ Thượng Đế là nguyên nhân của bạo lực.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhiều lần quả quyết như thế. “Sự
chối bỏ Thiên Chúa làm băng hoại con người, khiến con người
không còn mẫu mực nữa, và dẫn họ đến bạo lực”
(Diễn từ tại Assisi, nhân ngày các đại diện tôn giáo cùng cầu
nguyện cho hòa bình 27-11-2011). Công bằng là một yếu tố không
thể thiếu để có một xã hội văn minh và phát triển, vì
“một Nhà nước,
nếu không được tổ chức theo sự công bằng sẽ chỉ là một băng đảng
trộm cướp” (Thông điệp
Thiên Chúa là Tình yêu, số 28).
Nhận định về
vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng một xã hội dân chủ
và bền vững, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng, thuộc Viện Nghiên cứu
Tôn giáo đã viết:
“Sự khủng
hoảng đạo đức Việt Nam hiện nay do nhiều nguyên nhân, trong đó
có việc truyền bá chủ nghĩa duy vật và vô thần, hạ thấp vai trò
của tôn giáo, nhất là thời kỳ trước Đổi mới. Việc phủ nhận các
giá trị tôn giáo, đề cao chủ nghĩa duy vật vô thần tới mức cực
đoan vô hình trung cổ vũ cho cái “văn hóa” tiêu dùng phàm tục”.
Rồi tác giả kết luận:
“Khủng hoảng đạo đức xã hội ở Việt Nam đã tới mức báo động và có
thể còn kéo dài, đòi hỏi nỗ lực của các cấp chính quyền, các tổ
chức tôn giáo và từng người dân để khắc phục”
(x. Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 211, tr. 29 và 33). Hy
vọng ước mong của một trí thức ngoài công giáo được nhiều người
để ý quan tâm.
Một căn nhà
vững chắc là nhờ mọi bộ phận của căn nhà ấy đều được gắn kết
chặt chẽ với nhau. Một gia đình hạnh phúc được thể hiện qua tình
yêu thương của mọi thành viên trong gia đình ấy. Căn nhà Việt
Nam, muốn được vững chắc, cần có sự chung sức chung lòng của mọi
người, nơi đó, các tôn giáo được phát huy chức năng của mình,
nhằm cộng tác xây dựng một cuộc sống an bình và phát triển.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẢI HIỂU THẾ NÀO VỂ SỰ THƯỞNG
PHẠT CỦA THIÊN CHÚA ?
|
Hỏi : Chúa là
tình thương sao lại có thể đánh phạt con người ?
Trả lời : Đúng,
Chúa là tình thương như Thánh Gioan đã quả quyết. ( cf 1 Ga
4:8).Yêu thương là bản tính của Thiên Chúa và không một định
nghĩa nào chí lý hơn định nghĩa Thiên Chúa là Tinh thương. Chính
vì tình thương vô vị lợi này mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên con
người và mong muốn cho hết thảy mọi người
“được cứu độ và nhận biết chân lý”
( 1 Tm 2: 4) để sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời
mai sau.
Thiên Chúa
tuyệt đối không có lợi gì mà phải tạo dựng con người và mong
muốn cho con người sống tốt lành để được hạnh phúc .Ngài tạo
dựng và mong muốn như vậy chỉ vì lợi ich của chính con người và
vì muốn chia sẻ đời sống và hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài cho con
cái loài người mà thôi.Chúng ta phải tin chắc như vậy để không
bao giờ lầm tưởng rằng Thiên Chúa được lợi lộc gì mà phải tạo
dựng cũng như mong muốn cho con người sống theo đường lối của
Người.
Nhưng vì Thiên
Chúa chỉ ban riêng cho con người hai quà tăng quí giá là lý trí
và ý muốn tự do ( Free will) nên vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra
cho con người mà thôi.Nghĩa là Thiên Chúa không phán đoán một
tạo vật nào khác mà chỉ phán đoán riêng con người , vì con người
có trí hiểu để nhận biết sự lành, sự dữ, sự xấu, và nhất là có
tự do để chọn lựa giữa sự lành, sự thiện hảo hay sự dữ, điều
gian ác khi sống trên trần thế này. Thiên Chúa hoàn toàn tôn
trọng tự do của con người. Nghĩa là Ngài không áp đặt và bắt
buộc con người phải sống theo ý Ngài . Vì thế, mới có vấn đề
thưởng phạt con người về những việc mình làm khi sống trên
đời này ..Và đó cũng là lý do tại sao Chúa Kitô đã đến trong
trần gian để đền tội cho nhân loại qua khổ hình thập giá, vì
Thiên Chúa còn yêu thương con người, mặc dù con người đã phạm
tội , tự tách mình ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên ,
đôi khi Thiên Chúa đã bất đắc dĩ phải sửa phạt con cái loài
người như ta thấy trong suốt lịch sử sáng tạo và cứu độ.
Thật vậy, nếu
con người không được tự do chọn lựa khi hành động thì Thiên
Chúa đã không nói với dân Do Thái xưa kia qua miệng ông Mô-sê
như sau :
“Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho
anh em chọn : hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em
sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay.Anh
em sẽ bị nguyền rủa nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC
CHÚA,Thiên Chúa của anh em…”
( Đnl 12: 26-28)
Mệnh lệnh của
Thiên Chúa truyền cho dân Do Thái trước tiên phải tuân giữ là
Mười Điều Răn mà ông Mô- sê đã lãnh nhận từ Thiên Chúa trên núi
Si Nại đem xuống cho dân thi hành, sau khi họ được giải phóng
khỏi ách nô lệ trên đất Ai Cập và được ông Mô-Sê dẫn về quê
hương an toàn . Nhưng họ chưa được vào ngay Đất Hứa, “tràn đầy
sữa và mật ong” mà còn phải tạm trú trong hoang địa suốt 40 năm
để được thử thách về lòng tin và lòng yêu mến, trung thành của
họ đối với Thiên Chúa đã thương giải phóng họ qua tay ông Mô-sê.
Nhưng trong
thời gian họ sống nơi hoang địa thiếu thốn mọi sự, từ đồ ăn cho
đến nước uống, họ đã kêu trách Chúa và trách cả ông Mô-sê đã
dẫn đưa họ đến nơi thiếu thốn này. Dầu vậy, vì lòng xót thương,
Thiên Chúa vẫn nuôi sống họ với thần lương là bánh “ man-na”
rơi từ trời xuống mỗi ngày cho họ ăn và truyền cho ông Mô-sê lấy
gậy đập vào tảng đá để có nước chảy ra cho dân uống. ( x.Xh 16
&17).
Vậy mà họ vẫn
không biết ơn và còn tiếp tục than phiền kêu trách ông Mô – sê
và trách Chúa.
Tệ hại hơn nữa,
họ đã dùng tự do để đi trệch con đường Chúa muốn họ đi, việc tốt
Chúa muốn họ làm, sự dữ Chúa muốn họ xa tránh, khi họ xin ông
A-ha-ron đúc cho họ con bê bằng vàng để họ thờ lậy thay vì
thờ lậy một mình Thiên Chúa mà thôi. ( x.Xh 32: 1-6) Do đó,
ngay từ khi họ còn ở trong sa mạc, chưa được vào Đất Hứa,
Thiên Chúa đã nổi giận với dân tại Ca-đê và thề rằng :
“không
một người nào thuộc thế hệ gian ác này sẽ được thấy miền đất tốt
tươi Ta đã thề sẽ ban cho cha ông các ngươi, ngoại trừ Ca-lếp
con của Giơ-phun-ne : nó sẽ được thấy đất ấy và đất nó đã giẫm
lên. Ta sẽ ban cho nó và các con nó, vì nó đã một lòng theo ĐỨC
CHÚA..” ( Đnl 1: 35-36)
Thiên Chúa không những nổi giận với dân mà cả với ông Mô-sê là
người lãnh đạo dân, nên cũng nói với ông là
“
Cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không được vào đó.”(
Sđd : 1: 37)
Như thế, đủ cho thấy là nếu con người dùng tự do của mình để
quay lưng lại với Thiên Chúa, làm những sự dữ như giết người,
trộm cướp , gian ác, bất công, dâm ô, thở ngẫu tượng ( Idolatry)
và của cải vật chất, thay vì tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất là
Đấng đã tạo dựng muôn loài muôn vật –trong đó đặc biệt có con
người được tạo dựng “
theo hình ảnh
Thiên Chúa”
( St 1 : 27) thì Thiên Chúa sẽ không dung tha cho những sự dữ
con người làm với tự do chọn lựa khi sống trên trần gian này.
Lịch sử Cứu Độ đã cho thấy nhiều lần Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ
và đánh phạt dân chỉ vì họ cố tình sống xa lìa đường lối của
Người, làm những điều gian ác mà không hề biết sám hối, ăn năn
để xin tha thứ .
Chúa là Đấng nhân từ “
Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương thương
suốt cả đời.” ( Tv 30 (29) : 6).
Tuy nhiên, dù yêu thương con người đến đâu thì Thiên Chúa cũng
không thể chấp nhận, hay làm ngơ trước những sự dữ , sự gian
ác và ô uế mà con người đã và đang làm ở khắp nơi trên thế
giới từ xưa đến nay.
Trước hết với những người mà Thiên Chúa đã tạo dựng trong
thời Cựu Ước, Ngài đã đánh phạt họ vì những tội lớn lao họ đã
phạm , sự dữ họ đã làm mà không biết ăn năn sám hối để xin tha
thứ, nên trước hết Thiên Chúa đã hủy diệt toàn bộ loài người
trên mặt đất với hình phạt “
Đại Hồng Thủy”
trừ gia đình ông Nô-E và những sinh vật ông đem lên tầu trước
khi mưa tuôn đổ xuống, cuốn đi mọi loài mọi vật bên ngoài con
tầu của ông vào lòng đại dương. ( x St 6 & 7)
Tiếp theo là hình phạt Thiên Chúa giáng xuống hai thành Xô-đôm
và Gô-mô-ra, vì ông Ap-ra-ham đã không tìm được một người lành
nào trong các thành đó để xin Thiên Chúa nguôn cơn thinh nộ tha
trừng phạt dân tội lỗi sống trong hai thành này..Cho nên, cuối
cùngThiên Chúa đã cho lửa và diêm sinh từ trời xuống thiêu rụi
tất cà người và mọi sinh vật sống trong hai thành đó, trừ gia
đình ông Lót, cháu ông Ap-ra ham, đã ra khỏi thành . Riêng
vợ ông Lot đã biến thành cột muối vì đã “ ngoái cổ lại đằng
sau ”
( cf St. 19).
Thiên Chúa giáng tai họa Hồng thủy và lửa thiêu đốt hai thành
Xô-đôm và Gô-mô-ra vì tội lỗi lớn lao của con người sống
trên trần gian và riêng trong các thành đó.
Nhưng nếu con người làm sự dữ, sự tội mà biết ăn năn thống hối
, xin Chúa tha thứ, thì Người lại thứ tha như trường hợp dân
thành Ni-ni-vê đã bị Thiên Chúa toan hủy diệt vì tội lỗi của họ.
,Nhưng vì họ đã nghe lời Chúa cảnh cáo họ qua ngôn sứ Giô-na,
nên Chúa đã tha không trừng phạt.
Thật vậy, ngôn sứ Giô-na đã rao giảng sự thống hối cho họ , nên
Vua thành Ni-ni vê đã ra lệnh cho mọi người từ các quan lớn
nhỏ trong Triều cho đến thường dân kể cả
trẻ con phải “
ăn chay và mắc áo vải thô”
và hết sức kêu cầu Thiên Chúa thứ
tha tội lỗi của họ. Thấy lòng ăn năn sám hối của dân,
Thiên Chúa đã “ hối tiếc về tai họa
Người đã tuyên bố sẽ giáng xuống trên họ. Người đã không giáng
xuống nữa.”
( Giona 3: 10)
Như thế đủ cho thấy là Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng thương xót
. Nhưng nếu con người ngoan cố, cứ bỏ ngoài tai tiếng nói của
lương tâm phản ảnh tiếng nói của Thiên Chúa trong tâm hồn của
mỗi người để ngày một lún sâu vào con đường tội lỗi, gian ác ,
ô uế, thì chắc chắn Chũa sẽ không thể dung tha được. Và hình
phạt là hậu quả tất nhiên của tội lỗi như Thiên Chúa đã phán
bảo con rắn sau khi nó đã quyến rũ bà Eva ăn trái cấm :
“Mi đã làm điều đó,
Nên mi đáng bị nguyền rủa nhất
Trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú
Mi phải bò bằng bụng , phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.”
(
St 3: 14)
Chúa Giêsu cũng đã nói rõ là nếu kẻ làm sự dữ không sám hối thì
sẽ chết như những người Gali-lê bị Tổng Trấn Phi-la-tô giết
chết lấy máu hòa lẫn với máu tế vật xưa kia :
“
Các ông tưởng mấy người Galilê tội lỗi hơn hết mọi người Galilê
khác bởi lẽ họ bị đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông
biết : không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối
thì các ông cũng sẽ chết như vậy.
“ Lc 13 : 2-3)
Đặc biệt , Chúa Giê su cũng lên án dân thành Giêrusalem về tội
đã giết các ngôn sứ như sau :
“ Giêrusalem, Giê ru salem !
Ngươi đã giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng
ngươi
Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp
gà con dưới cánh mà các ngươi không chịu.
Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Ta nói cho
các ngươi hay : các ngươi sẽ
Không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói : Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Chúa .”
( Lc 13: 34-35)
Là Thiên Chúa cực tốt cực lành, nhưng Người không thể dung
tha được những sự dữ và ô uế như giết người, và dâm ô. Sự dữ
lớn lao nhất là sự thâm độc, gian ác để có thể giết người không
gớm tay như ta thấy xẩy ra hàng ngày ở khắp nơi trên thế giới
hiện nay.
Riêng ở Việt Nam, những kẻ tham tiền và phản bội, tay sai của
quan Thầy ngoại bang, đã sát hại cách vô cùng dã man anh em
T.T NĐD mà sử sách đã ghi chép và phơi bày ra ánh sáng từ mấy
thập niên qua. Đặc biệt thâm độc và tàn ác hơn nữa là bọn vô
thần, vô đạo đã sát hại hàng bao triệu người từ bắc chí nam
trong suốt 60 năm qua. Đây là những bằng chứng hùng hồn tố cáo
sự gian ác , độc dữ của con người Viêt Nam với chính đồng bào
ruột thịt của mình, chỉ vì ngu xuẩn vâng lệnh quan thầy đế quốc
đã bỏ tiền ra thuê mướn, hay vì chủ nghĩa phi nhân, vô luân,
vô đạo mà họ đang cố bám lấy để cai trị bằng bạo lực tàn nhẫn
nhưng lại ngụy trang dưới lớp vỏ “ cánh chung luận” hảo huyền
về một thiên đường hạ giới; nhưng thực chất chỉ là địa ngục trần
gian với muôn vàn tội ác, bất công, gian manh, phi nhân phi
nghĩa. Phải nói đó là sự dữ lớn lao nhất vì nó đi ngược hoàn
toàn với bản chất yêu thương, thiện hảo của Thiên Chúa là Đấng
chê ghét mọi tội lỗi, mọi sự dữ , thâm độc gian ác, của con
người.
Mặt khác, sự ô uế vì thú vui dâm dục, khiến phụ nữ và trẻ em trở
thành những nạn nhân rất đáng thương của những kẻ đã đánh mất
hết lương tri, đi tìm thú vui cực kỳ tội lỗi và khốn nạn
này.Tội dâm ô không những súc phạm nặng nề bản chất thánh thiện
của Thiên Chúa mà còn hạ giá con người xuống hàng thú vật , vô
lương tri, vô luân, vô đạo khi hành hạ thân xác của các trẻ em
bị bán làm trò vui “ấu dâm” vô cùng khốn nạn này.
Như thể thử hỏi: một Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và thánh
thiện, có thể nào chấp nhận thực trạng tội ác , nhơ uế rất
ghê tởm nói trên được không ?
Chắc chắn là
KHÔNG
Thánh Phaolô đã cảnh cáo như sau về mọi nguy cơ của tội lỗi đưa
đến hư mất đời đời :
“ Những việc do tính xác thịt gây
ra thì ai cũng rõ, đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy,
phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, chè chén và những điều
khác giống như vậy. Tôi bảo cho mà biêt , như tôi đã từng bảo:
những kẻ làm những điều ấy sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên
Chúa.” ( Gl 5: 19-21)
Nơi khác, Thánh
Phaolô cũng nói đến hậu quả của tội lỗi như sau:
“
Anh em không biết sao ? khi đem
thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người
anh em vâng phục.: hoặc làm nô lệ tội lỗi thì sẽ chết; hoặc làm
nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính.”
( Rm 6 :16)
Được nên công chính ( justified) có nghĩa là được cứu độ để vào
Nước Trời nơi dành riêng cho những ai thực tâm yêu mến Chúa và
quyết tâm sống theo đường lối của Người để xa tránh mọi sự dữ,
sự tội trong suốt cuộc sống trên trần thế này. Thiên Chúa đầy
yêu thương và rộng lòng tha thứ, nhưng con người phải tỏ thiện
chí muốn sống ngay lành, muốn thi hành ý muốn của Cha trên Trời
là xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ , sự ô uế, bất công vô nhân
đạo mà những kẻ không có niềm tin vào Thiên Chúa đang làm ở khắp
mọi nơi trên thế giới ngày nay.
Đó là tất cả ý nghĩa lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa
như
sau :
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy
: Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, mà chỉ ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà
thôi.” ( Mt 7: 21)
Như thế,
đừng lấy cớ Chúa nhân từ , hay
thương xót và tha thứ để cứ sống buông thả theo tính hư nết xấu
của xác thịt con người và chiều theo những quyến rũ của thế
gian, của xã hội vô luân vô đạo, đầy rẫy tội ác, bất công và
bóc lột, là bộ mặt thật của “văn hóa sự chết”
đang phơi bầy ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.
Đáng buồn thay, nhiều người hiểu biết và có trách nhiệm dạy
dỗ và bảo vệ chân lý, luân thường đạo đức lại không có can
đảm chống lại những bất công , tha hóa của xã hội để cầu an cho
mình hay trục lợi cá nhân, khi tự bịt mắt và giả câm giả điếc
trước mọi sự dữ , sự gian ác và tha hóa của xã hội.
Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, yêu thương con cái loài người
đến mức đã hy sinh chính Con Một Người là Chúa Giêsu-Kitô cho
nhân loại được cứu chuộc và có hy vọng được sống hạnh phúc đời
đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Phải nói là có hy vọng thôi
chứ chưa chắc chắn từ bây giờ là sẽ được cứu rỗi để hưởng
phúc Thiên Đàng, vì lẽ con người còn có tự do để chọn lựa sống
theo Chúa và cho Chúa, hay khước từ Chúa để sống theo bản năng
tội lỗi và thỏa hiệp với thế gian, tay sai đắc lực của ma quỉ để
làm những sự dữ , sự lội trái nghich với sự thiên hảo và thánh
thiên của Thiên Chúa.
Bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày phải
chết này, con người còn phải chiến đấu giữa sự thiện và sự dữ,
giữa sự trong sạch và ô uế, giữa lương thiện và gian ác quỷ
quyệt.
Do đó, sự thưởng phạt của Thiên Chúa cho con người phải được
hiểu là hậu quả tất nhiên của tự do chọn lựa mà Thiên chúa luôn
tôn trọng cho con người sử dụng khi sống trên đời này. Nó cũng
nói lên sự công bằng của Thiên Chúa dành cho những ai quyết tâm
sống theo đường lối của Người, đối nghich với những kẻ lợi dụng
lòng thương xót của Chúa để làm tay sai cho ma quỷ là cha của
mọi gian dối và độc ác luôn chống lai Thiên Chúa là Cha của sự
thật , sự thiện , sự công chính và yêu thương.
Tóm lại, phải có sự thưởng phạt vì con người có tự do để làm
điều thiện hay gian ác. Thiên Chúa yêu thương nhưng không thể
dung thứ cho sự dữ , sự ô uế mà con người đã và đang làm ở
khắp nơi trên thế gian nay. Vì thế, phải có sự thưởng phạt của
Thiên Chúa và điều này không hề mâu thuẫn với tình thương tha
thứ của Người, vì nếu kẻ có tội không chịu nhìn nhận tội lỗi
của mình và ăn năn sám hối , xin Chúa thứ tha thì làm sao Chúa
có thể tha thứ được ?
Đó là sự thật chúng ta cần nắm vững bao lâu còn sống trên trần
thế , đương đầu với với bao dịp tội và nhất là với bao cám
dỗ của ma quỷ ví như “
sư tử gầm thét rao quanh tìm mồi cắc xé.” ( 1 Pr 5: 8)
để lôi kéo chúng tar a khỏi tình thương của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ xưa :
“ Vậy
anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát
khỏi mọi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Lc 21: 36)
Vậy chúng ta, những người có niềm tin nơi Chúa, phải làm gì để
chứng tỏ quyết tâm yêu Chúa và xa lánh mọi sự dữ , tội ác và ô
uế ?
Đó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta hãy tự trả lời.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (4)
|
HIỂU ĐỨA TRẺ
Để cảm thông được đứa trẻ, người
ta cần biết đầy đủ những điều kiện cho sự phát triển của nó. Có
những đặc nét đáng chú ý như đứa trẻ cố gắng để có một chỗ đứng
trong gia đình hoặc tìm cách mang lại nhận thức và chứng tỏ là
có hiệu quả trong bối cảnh đặc biệt của môi trường. Nếu không có
khích lệ và hướng dẫn, đứa trẻ mất thời giờ trong việc tìm những
phương cách được xã hội chấp nhận để đối đầu với những người
khác. Thái độ sai lầm và gặp nhiều rắc rối là một kết quả đương
nhiên.
Bốn đối tượng chính có thể được
xem như động lực thúc đẩy đứa trẻ đến hành động sai lầm. Chúng
ta phải hiểu những mục đích nầy trước khi chúng ta hy vọng có
thể thay đổi nhân cách của đứa trẻ.
Rất thường là đứa trẻ muốn lôi kéo
sự chú ý. Ước muốn đặc biệt nầy rất phổ thông nơi những đứa con
nít. Trong hoàn cảnh các gia đình hôm nay, trẻ con có ít cơ hội
để trở thành hữu ích, để có được nhận thức về xã hội bằng cách
đóng góp vào mục đích chung. Vì thế, chúng tin vào sự quan trọng
của việc nhận những món quà, tình cảm, và ít nhất là sự chú ý.
Cái đồ chơi mà ông bố mang về nhà thì ít được thích thú như là
đồ chơi cho bằng nó là dấu chỉ của tình yêu ông bố. Không có sự
chú ý, đứa bé cảm thấy bị quên lãng. Nếu nó không thể chiếm được
sự chú ý một cách thõa mãn, nó sẽ quay sang cách bất đồng và cố
ý gây nên sự rầy rà và hình phạt. Làm như thế ít ra là có sự chú
ý còn hơn là không được chú ý tới. Không bị phạt là từ khước
hoàn toàn, tệ hại nhất là không được biết tới. Trẻ con cố gắng
cho sự chú ý nên cần phải được dạy rằng chúng có thể nên hữu
dụng, rằng sự nhận thức xã hội không có nghĩa là nhận nhưng đóng
góp.
Đối tượng thứ hai của bất cứ rối
loạn nào là: tỏ uy quyền và thế thượng phong. Trẻ con đã từng bị
bạo lực thích học cách phản kháng. Người ta càng đòi hỏi chúng,
chúng càng ít có hành động phù hợp. Trẻ con rất có nhiều sáng
kiến trong việc âm mưu làm bố mẹ thất vọng và chiến thắng cách
dễ dàng trong khi đối thủ của chúng thì lúng túng và khờ khạo.
Sự hận thù nầy cuối cùng dẫn đến
đối tượng thứ ba gọi là hình phạt. Được thuyết phục rằng không
ai thích nó, đứa trẻ bỏ mọi cố gắng làm vui lòng. Sự đền bù cho
sự nhục nhã của nó là làm tổn thương người khác như nó bị làm
tổn thương. Một khi không còn cảm giác trách nhiệm về xã hội
người ta không còn muốn cho mình bất cứ điều gì xem ra là thỏa
mãn. Hành vi hung hăng nầy biểu lộ một sự thất vọng hoàn toàn về
mặt xã hội.
Đối tượng thứ tư được cho thấy
trong sự thụ động của đứa trẻ. Nó diễn tả một niềm tin vào sự
bất khả năng cá nhân. Đó là một cố gắng làm vô dụng những tình
cảnh mà ở đó sự thiếu khả năng cá nhân được cho thấy một cách rõ
ràng.
Để hiểu những chức năng sai lầm,
chúng ta phải biết cái nào trong bốn cái nầy nằm đàng sau chúng.
Nhiều người tin rằng họ có thể hiểu được cách hành xử chắc chắn
nào đó nếu họ tìm thấy một lời thích hợp để diễn tả điều đó.
Nhưng lời nói không cắt nghĩa phẩm giá mà chỉ diễn tả. Chẳng hạn
danh từ lười biếng không cắt nghĩa được tư cách xác định vì theo
tâm lý mẫu lười biếng nầy thì khác biệt với những cái khác. Đứa
trẻ nầy lười để được chú ý, bà mẹ phải ngồi gần để nhắc nhở và
giúp đỡ, nếu không, bài tập sẽ không được hoàn thành. Nhưng sự
lười có thể có nghĩa là quyền hành và vị thế của cấp chỉ huy.
Chống lại tất cả mọi đe dọa và hình phạt của bố mẹ và thầy cô,
đứa trẻ bình thản chối từ làm bài. Đôi khi sự lười biếng là một
sự trả thù tệ hại nhất của đứa trẻ muốn chống lại sự tham vọng
quá đáng của bố mẹ cũng như hình phạt của bố mẹ. Trong nhiều
trường hợp có nghĩa là thái độ chán nản của sự đầu hàng. Cố gắng
để làm gì nếu người ta không hy vọng được thăng tiến một cách
nào đó?
Bố mẹ phải học để hiểu những
khuynh hướng như thế. Họ phải biết tại sao đứa trẻ hành động như
nó đang hành động. Nó hướng sự tấn công hoặc khiếm khuyết của nó
để chống lại ai hoặc chống cái gì? Bố mẹ nên biết nhiều hơn dầu
họ ít khi biết. Cha mẹ nên thâu thập tin tức về những tư tưởng
và ước muốn của đứa trẻ, về quan niệm của nó về cuộc đời cũng
như về chính nó, về những cố gắng thực hiện và những kết luận mà
nó rút ra từ những kinh nghiệm của nó.
LỐI SỐNG
Dưới ảnh hưởng của những kinh
nghiệm của nó, đứa trẻ phát triển sớm – trong 4 tới 6 năm đầu
của đời nó – một ý tưởng rõ ràng về chính nó và chỗ đứng của nó
trong cuộc đời. Theo sự cắt nghĩa về những quan sát và sự hiểu
biết của nó về cuộc sống xã hội, nó phát triển những phương cách
ứng phó đối với những vấn đề trục trặc của cuộc đời, nhờ những
học hỏi từ sự quan sát những thành công cũng như thất bại của bố
mẹ và anh chị em nó. Mỗi cá nhân phát triển những cách ứng phó
có nét đặc thù khác nhau tạo nên nền tảng của cá tính độc đáo
của nó. Nó có thể thay đổi kỷ thuật theo tình thế mà nó đối phó,
nhưng ý tưởng căn bản về chính mình vẫn như thế. Nếu đứa trẻ đi
đến kết luận rằng nó luôn cần đến người khác để dựa vào, bấy giờ
nó sẽ hành động cách khác khi nó tìm được sự nâng đỡ. Trong lúc
đầu, nó có thể rất cộng tác và rõ ràng là thích nghi rất tốt
đẹp, nhưng nó sẽ bỏ hoặc rút lui nếu nó tìm được nguồn nâng đỡ
và muốn phó mặc. Lý do đằng sau hai mẫu hành vi trái ngược nầy
thì giống nhau.
Đứa trẻ không ý thức về những quan
niệm riêng của nó nhưng đáp trả lại sự mạc khải của những quan
niệm đó. Nếu chúng không được làm sáng tỏ đối với nó, nó mang
những quan niệm sai lầm vào cuộc đời và chỉ có thể thay đổi
chúng để có một hướng đi tốt đẹp hơn nhờ tâm lý trị liệu. Bố mẹ
được huấn luyện để nhận ra ý tưởng căn bản của đứa trẻ sẽ giúp
rất nhiều để ngăn ngừa sự tạo thành một quan niệm sai lầm, là
cái có thể đưa đến sự thiếu thích nghi xã hội, thất bại, và bất
hạnh.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thuyết biến hóa, tiến hóa và vận mệnh con người (tiếp theo) |
Gs. Trần Văn
Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
2 – Vị trí
thuyết biến hóa trong các vũ trụ quan khác nhau
Ta thấy thuyết biến hóa làm
cho ta có thể mô tả vũ trụ trong viễn tượng toàn thể như là một hệ thống biến
chuyển trong thời gian, từ những điện tử, những nguyên tử đơn sơ, dần dần kết
cấu lại với nhau thành những những vật có tổ chức càng ngày càng phức tạp, qua
những vật vô cơ thể, đến những vật có cơ thể, như cây cỏ, động vật, rồi đến
con người. Nhưng con người, có ý thức nội tâm, có tự do quyết định và định hướng
cho đời mình và cho đời sống xã hội, cho nên vượt ra ngoài giới hạn của sự kiện
khoa học thiên nhiên. Thực vậy, trong khuôn khổ thuyết biến hóa thì ta coi biến
hóa như là một sự kiện. Nhưng sự kiện (người Pháp gọi là “fait”) là những sự
việc đã làm xong rồi (cũng gọi là “fait”) và có làm xong rồi thì mới quan sát
được. Cho nên nếu khoa học căn cứ vào sự kiện thì không thể nói về những việc
chưa có, những dự định chưa thực hiện, cũng như về những vũ trụ quan tổng quát.
Về việc mô tả theo phương
pháp khoa học như thế thì dù có bất đồng ý kiến về vũ trụ quan triết học hay tôn
giáo, mọi người đều có thể đồng ý được. Cái nhìn nhận căn bản chung đó, mỗi
người đem đặt nó vào trong khuôn khổ vũ trụ quan riêng của mình, làm cho nó có
một ý nghĩa đặc biệt.
Sau khi
phân biệt hai bình diện, khoa học và vũ trụ quan, ta thấy là thuyết biến hóa chỉ
trực tiếp mâu thuẫn với chủ trương là không có biến hóa, chứ tự nó chưa hẳn đã
mâu thuẫn với quan niệm cho rằng có hay là không có vị Chúa tể tạo thiên lập
địa. Nó chỉ mâu thuẫn, khi người chủ trương vũ trụ quan này lại lẫn lộn các bình
diện, mà cho rằng triết học hay tôn giáo của mình đã có sẵn những tri thức khoa
học xác đáng và chắc chắn.
Trong hệ thống triết học của
Hegel, ta thấy ông quan niệm lịch sử thiên nhiên như là một chặng đường phát
triển đưa tới tinh thần tuyệt đối. Oâng gọi thiên nhiên là tinh thần lúc còn ở
trạng thái chưa có tự do. Thế rồi dần dần qua các sinh vật, qua các loại sinh
vật, và cuối cùng thì qua con người, tinh thần phát triển đến chỗ càng ngày càng
tự lập, tự do, cho đến cao điểm là tinh thần tuyệt đối.
Trong sách Thiên nhiên
biện chứng (Dialektik der Natur, viết xong năm 1883, xuất bản tại Nga năm
1925), người bạn đồng hành của Karl Marx là Friedrich Engels đã lấy lại ý
kiến đó, nhưng ông đã chuyển theo quan niệm duy vật, vì ông nghĩ rằng Hegel chủ
trương duy tâm. Thực ra Hegel có quan niệm biện chứng tế nhị hơn, không duy tâm
mà cũng chẳng duy vật : ông tổng hợp tất cả thực tại mà ông gọi chung là tinh
thần. Tinh thần – hiểu theo nghĩa đặc biệt như thế của Hegel – đã đi qua
nhiều chặng đường, từ chỗ còn là vật chất, vô linh, vô tình và vô thức, vận
chuyển một cách cố định theo các luật nhân quả, đi qua chặng sinh vật, cho đến
con người và xã hội có tổ chức lao động, kinh tế, chính trị, nghệ thuật, tôn
giáo và triết học, càng lên cao thì càng tự do và càng ý thức cao. Và chỗ cao
điểm là chỗ mà tinh thần thành ra tuyệt đối, vừa đạt được tự do, vừa ý thức
được tất cả lịch sử của mình, với tất cả các sản phẩm văn hóa mình đã tác tạo
nên. Còn Engels thì chỉ quan niệm duy vật một cách thô sơ, không biện chứng, cho
rằng “vật” sinh ra “tâm”, vật chất vô tri vô giác tự nó biến hóa mà sinh ra tinh
thần vô thể chất .Và thay vì đưa ra phương pháp khoa học để giải thích và kiểm
chứng cái biến hóa vượt bực như thế thì ông chỉ nói gọn rằng cái nhảy vượt bực
đó chính là “biện chứng” ! Nhưng cái từ ngữ triết học khó hiểu đó của Hegel, làm
sao có thể thay được chứng lý khoa học ?
Về điểm này
cũng nên nhắc lại là Marx và Engels tuy là đồng chí, đồng hành, trong phong trào
cộng sản, nhưng không phải là đồng môn, cho nên tư tưởng có nhiều chỗ khác nhau.
Marx đã họïc đại học, lấy bằng tiến sĩ triết học, và hiểu rõ thế nào là « biện
chứng » : đã nhiều lần Marx phê bình gắt gao chủ trương « duy vật thô sơ »,
không biện chứng, của các triết gia Pháp trong thế kỷ XVIII chủ trương vật sinh
ra tâm, tâm do vật định hình. Cho nên chắc rằng Marx không thể nào viết về
« thiên nhiên biện chứng » như Engels đã làm. Còn Engels thì tuy rằng có thông
minh thật, nhưng chỉ học hết trung học, chứ không theo học triết học, cũng không
học khoa học ở cấp đại học, cho nên nếu có thiếu căn bản về triết học, hiểu
trệch Hegel, có thiếu phê bình về các giả thuyết khoa học, thì cũng thật là dễ
hiểu. Có điều là về sau này thì Stalin lấy lại quan niệm của Engels và cho đó
là duy vật biện chứng. Riêng Marx thì có chủ trương nhấn mạnh vào vai trò
chủ động của của con người có lao động sáng tạo.
Cũng trong thế kỷ XIX,
Spencer đi từ quan điểm sinh vật học, đã nới rộng quan niệm của Darwin và chủ
trương thuyết biến hóa trong toàn thể thế giới sinh vật.
Có lẽ quan
niệm tổng quát hơn cả và gần với quan niệm triết học của Hegel hơn cả, là quan
niệm của linh mục công giáo Pierre Teihard de Chardin, nhà cổ vật học người
Pháp. Hệ thống của ông này không những bao trùm lý thuyết khoa học về vạn vật ở
hai chặng đường đã nói trên, là vật chất (có trước sinh vật, ông gọi là
« prévie ») và sinh vật (« vie », trong đó con người đóng vai trò chủ yếu), mà
còn có đề nghị thêm vào cái nhìn khoa học, gợi ý rằng sau chặng đường biến hóa
của sinh vật tùy theo các nguyên nhân ngoại lai, thì còn chặng biến hóa thứ ba
mà con người, linh ư vạn vật, có thể tự mình hướng tới. Oâng gọi chặng này là
« survie », là sự sống cấp trên.
Đại khái
quan niệm này cũng tương tự như Engels, nhưng khác Engels ở một điểm rất quan
trọng. Một đàng thì Engels cho rằng vật chất vô tri đã phát triển và vượt bực
thành ra tinh thần có ý thức, có ý chí, nhưng ông không giải thích những biến
đổi về lượng làm thế nào mà lại vượt bực thành ra biến đổi về phẩm.
Một đàng thì Teilhard đưa ra vũ trụ quan căn cứ vào giả thuyết tiên đề rằng :
tất cả thựïc tại, kể từ nguyên tố đơn sơ như nguyên tử, điện tử, cho đến các
sinh vật và con người, đều có hai mặt đối chiếu với nhau, mặt ngoài và mặt
trong. Mặt ngoài là đối tượng của khoa học, đó là cái có thể đo lường được, còn
mặt trong thuộc về phạm vi tâm lý của nội tâm, ta tự biết là có ở nơi ta và ở
nơi người khác, nhưng ta không thể giơ ra cho người bên ngoài xem hay là đo
lường được. Teilhard cho rằng khi mặt ngoài còn đơn sơ, thì mặt trong cũng đơn
sơ. Khi mặt ngoài phát triển thành ra phiền tạp, thì mặt trong cũng trở thành
phiền tạp. Đối chiếu với thân thể và bộ óc của con người vô cùng phức tạp thì
thế giới bên trong của con người, có tam tư thất tình, cũng rất phiền tạp. Ta
nhận ra là người khác có đời sống nội tâm, tuy ta không biết tường tận mọi chi
tiết ; nhưng ta không nhận ra cái mặt trong của hòn đá hay nguyên tử, vì chúng
còn quá đơn sơ đối với con mắt và cái nhìn của ta.
Nếu về triết học cũng như về
khoa học, người ta đã cố ý tìm ra một hệ thống tổng quát về sự biến hóa, thì
thiết tưởng là vì, tuy quan sát đã nhiều về vạn vật thay đổi và phát triển,
nhưng vẫn thấy là chưa đủ, đồng thời người ta cũng không đành lòng quan niệm vạn
vật trong vũ trụ như một mớ những sự kiện hoàn toàn vô thường, rời rạc với nhau
và thay đổi một cách ngẫu nhiên, vì như thế thì chẳng những không hiểu biết được
gì cả, mà rồi cũng không làm sao sống được. Thực vậy, sống được là vì hành động
mà ta trù tính đều căn cứ vào niềm tin thực tại có trật tự, biến hóa có qui củ,
phía sau thì có luật nhân quả thúc đẩy, phía trước thì đi theo một phương hướng
nào đó mà mình tự do chọn.
Vì chủ trương căn cứ vào sự
kiện đã có đó, cho nên các nhà khoa học, khó mà đồng ý được với nhau về phương
hướng của cuộc biến hóa : vì cái đó thuộc về tương lai, mà tương lai thì một
phần là căn cứ vào dự định của vai chủ động. Dự định trong thiên nhiên thì không
ai biết được là có hay không, vì thiên nhiên không phải là do con người ta tác
tạo ra ; mà dự định tự do của muôn người, của muôn dân, thì ai cũng biết là có
thật, nhưng nó thật là bấp bênh, ta chỉ phỏng đoán mà thôi. Cho nên khoa học chỉ
dùng nguyên lý nhân quả, chứ không dùng nguyên lý cứu cánh hay nguyên lý mục
đích (finalité). Tuy vậy ta không có lý do gì để khẳng định là trong vũ trụ này
tuyệt nhiên không có dự định nào của ai cả. Và khi nói về lịch sử, xã hội con
người, ta lại càng không thể không nói đến cứu cánh và mục đích.
Về điểm này
người ta đưa ra nhiều lập trường.
P.-P. Grassé chủ trương vạn vật biến hóa là có theo một chương trình, một dự
định nào đóù, vì chẳng lẽ cứ nối tiếp vô số những sự kiện ngẫu nhiên mà phát
hiện ra con người : một chuỗi những cái ngẫu nhiên kế tiếp nhau theo một thứ
tự nhất định như thế, phải chăng chỉ là ngẫu nhiên mà thôi ? Câu hỏi đó
không phải là vô lý, nhưng nó nằm ở bên ngoài phạm vi khoa học, cho nên khoa học
không có phương thế để trả lời là có hay không. Trái lại, Jacques Monod
(1910-1976)
và François Jacob thì khẳng định rằng vạn vật có trật tự trong vũ trụ này là do
ngẫu nhiên mà ra. Nói như thế cũng rất là hàm hồ, vì thường thường khi nào người
ta không tìm ra nguyên nhân của các hiện tượng, không tìm ra cách thức hoạt động
của nguyên nhân, cách thức giao thoa của nhiều nguyên nhân, không trù tính hay
đoán trước được hiệu quả, thì lúc đó thay vì nói thẳng ra là mình không biết,
thì người ta lại quen nói rằng đó là do ngẫu nhiên. Người nghe như thế có thể
lầm tưởng rằng cái “ngẫu nhiên” lại chính là nguyên do hay nguyên nhân sinh ra
vạn vật có tổ chức, có trật tự . Tóm lại, khi nói đến ngẫu nhiên thì phải hiểu
là có nguyên nhân, có nhiều nguyên nhân, nhưng ta không biết hay là chưa biết
đích xác được tất cả, cho nên không đoán trước được hiệu quả.
Khi nói chung chung về sự
biến hóa thì ta mặc nhiên chấp nhận giả thuyết rằng vũ trụ biến hóa theo một
phương hướng. Có như thế cái nhìn của ta về vũ trụ mới có tính cách nhất quán,
có mạch lạc.
Ngoài ra, thì bên ngoài phạm
vi khoa học, người ta cũng còn có thể đưa ra một vũ trụ quan duy tâm hay duy
thức, cho rằng tất cả những biến chuyển, biến hóa như thế chỉ là vô thường, chỉ
là ảo ảnh, do cái tâm hay cái bản ngã của ta phóng ra bên ngoài, ấy là chưa nói
thêm rằng cái tâm hay bản ngã cũng có thể chỉ là ảo ảnh nốt. Nếu như thế thì
thật cũng khó mà bàn luận, vì không ai biết đâu là có, đâu là không.
3 – Biến
hóa và vận mệnh của con người
Thiết tưởng cần phải nói
thêm cho rõ là trên đây Teilhard không nói gì nguồn gốc vũ trụ. Oâng bắt đầu từ
sự biến hóa, đưa ra giả thuyết để giải thích. Oâng nhận định rằng vũ trụ đã đi
từ các yếu tố rời rạc, dần dần kết tụ lại thành những đơn vị, những con vật có
tổ chức, có thống nhất, rồi những con vật con người họp lại với nhau thành những
xã hội càng ngày càng rọâng. Tiếp theo đó ông nghĩ rằng nếu cứ nối tiếp cái đà
tiến hóa theo hướng thống nhất như thế thì có thể là sẽ tiến tới một nếp sống
trên nữa. Tuy vậy, tiến hóa không phải là tất nhiên : vũ trụ có thể có thể thối
lui, vì từ nay các thay đổi trong đời người không còn do tự nhiên thúc đẩy,
nhưng là do ý định của con người có muốn hay không, và nếu muốn thì phải có một
lý do khả quan. Như thế là sau khi trình bầy kết quả của khoa học, thì ông đặt
vấn đề vận mệnh con người.
3.1 – Đặt vấn đề vận mệnh
con người
Nếu quả thực con người không
có cảm giác hay tâm tình, không có ý thức, không có ước muốn, không có dự định
gì cả, mà chỉ hoàn toàn biến chuyển như sự vật, thay đổi theo như nguyên lý
nhân quả của vật lý học thúc đẩy, thì dĩ nhiên là không có đặt vấn đề vận mệnh
gì cả.
Nhưng vì đã quá quen với
nguyên lý nhân quả trong cuộc vận hành của thế giới sự vật, cho nên khi nói về
con người, ta cũng thường nghĩ rằng con người cũng như vạn vật là đồng nhất thể,
và vì thế xét khách quan thì mọi sự đều là tất định như nhau.
Các từ ngữ mà người Việt
chúng ta dùng để nói về vận mệnh tương lai của con người, như : vận số, số phận,
số mệnh, số kiếp, v.v., cũng thường ngả về ý nghĩa là định mệnh, không những ở
trong đời này, mà còn lan cả sang kiếp sau nữa. Vận mệnh đã định sẵn, hoặc do
sách trời đã ghi, hoặc là do căn mệnh của mình đã gây ra, cho nên không có thể
thay đổi được, như cụ Nguyễn Du đã kết luận truyện Kiều :
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có
thân,
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao, ....
Đã
mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng
trách lẫn trời gần trời xa..
Nếu coi định mệnh khách quan
như thế là lẽ đương nhiên, thì không có vấn đề gì cả. Có chăng thì là vì về mặt
chủ quan người ta thấy nó làm sao ấy. Nhưng nếu lại cho cái quan điểm của người
trong cuộc chỉ là ảo ảnh không có thực chất, thì là hết, không còn vấn đề gì
nữa.
Trái lại trong văn hóa Aâu
châu, người ta phân biệt ra hai từ ngữ. Để nói về cái “định mệnh” không thay đổi
được, thì người Pháp dùng từ “destin” hay “fatalité” (do tiếng la-tinh là
“fatum”), người Đức dùng từ “Schicksal”. Nhưng ngoài ra họ còn có quan niệm rằng
con người ta có một mục đích phải tới, vì như thế là hoàn toàn thực hiện được
bản thân ; phải tới, nhưng lại không bó buộc phải tới, vì nó tùy thuộc một phần
vào hoàn cảnh, điều kiện và nhất là vào lựa chọn và quyết định tự do của mỗi
người. Người Pháp gọi nó là “destinée” hay “destination”, người Đức thì gọi là
“Bestimmung”. Ta tạm gọi là “vận mệnh”. Vì có tự do, cho nên người ta có thể tùy
ý muốn hay không muốn tới cái vận mệnh đó. Dù sao, vận mệnh của con người có
được đặt ra thành vấn đề thì là vì ý thức được rằng cái định mệnh từ ngoài vào,
nó đi ngược lại cái ước vọng từ trong đi ra. Sau đây ta sẽ nói về định mệnh và
về vận mệnh.
3.2 – Ý thức về định mệnh
Người ta có
được ý thức về định mệnh là vì nhiều lý do. Một là quan niệm nhân quả trong thế
giới sự vật, đưa đến quan niệm tất định (déterminisme). Hai là vì cho rằng con
người cũng hoàn toàn ở trong vòng tất định, không khác gì các sự vật tự nhiên.
Ba là người ta thấy mình quả là bé nhỏ yếu ớt trong cái vũ trụ bao la với các
mãnh lực vô tâm vô tình. Lại còn có lý do thứ bốn, là : người ta quan niệm rằng
thời gian của vũ trụ đi vòng tròn, “chung nhi phục thủy”, đi đến hết thì lại trở
về khởi điểm, như ta thấy cây cỏ cứ tuần hoàn đi theo bốn mùa. Cho nên dù bây
giờ con người có tổ chức được xã hội, phát triển được văn minh, nhưng rốt cục
đến khi đã đi hết chu kỳ vòng tròn, thì tất cả vũ trụ sẽ bị hủy diệt, để rồi lại
bắt đầu đi nữa. Người Hi-lạp gọi đó là cuộc xuống dốc “katastrophê”. Dĩ nhiên là
người ta lúc bình sinh nào có ai thấy được hay là tưởng tượng được ra như thế,
cho nên để tránh các vấn nạn, người ta bảo rằng cái chu kỳ của vũ trụ nó phải
lâu dài lắm lắm, và phải có các thần linh thượng trí hở ra cho mới biết được.
Người Aán-độ (trong đó có cả người theo Phật giáo) rất giầu tưởng tượng đã tính
ra những kiếp (kiếp-ba, kalpa) lâu dài đến hàng vạn, hàng triệu năm.
Một khi đã coi thời gian của
vũ trụ là đi theo vòng tròn, hoàn toàn theo luật nhân quả, và nếu lại thấy rằng
tất cả đời người chỉ là khổ, thì thật là bế tắc. Ở trong cảnh huống đó người ta
nghĩ ra nhiều lối thoát.
Lối thứ nhất là đứng trước
định mệnh khắt khe, rất khó chịu, thì chủ trương là đành phải chịu khó vậy : đó
là lập trường của các triết gia Hi-lạp thuộc học phái khắc kỷ (Stoa, stoicisme).
Họ lập luận rằng con người ta chỉ là một cái bánh xe nhỏ bé trong guồng máy lớn
lao của toàn thể vũ trụ, cho nên phải theo cái lẽ đương nhiên như thế.
Lối thứ hai là coi cái thân
phận mỏng manh của con người không phải là do lẽ đương nhiên, nhưng là do các
thần linh gây nên. Cóù nhiều nhà văn Hi-lạp thời Thượng cổ đã sáng tác ra một số
thảm kịch (tragédie) thời danh, nói lên cái mâu thuẫn nan giải, giữa một bên là
các thần linh vô tình hay hữu ý đùa bỡn với vận mệnh của con người, và một bên
là cái bất đắc chí của người trong cuộc. Trong các thảm kịch đó, tuy biết là
không làm chi được trời, nhưng – trái lại lời khuyên của cụ Nguyễn Du – họ vẫn
không đành chịu như thế, và cứ tự do lên tiếng thánh thức các thần linh vô tâm,
vô tình, bất công, hay là oán thán “ông trời không có mắt”.
Lối thoát
khác là tìm cách đi hẳn ra bên ngoài cái vũ trụ mà mình không thay đổi được hay
là không muốn thay đổi, bằng một lập luận duy tâm hay duy thức, như trong văn
hóa Aán độ. Không đổi được thực tại bên ngoài thì người ta tự gán cho mình cái
“tự lực” bên trong, gán cho cái chủ thể – đại ngã hay tiểu ngã cũng vậy – cái
quyền lực vô hạn, cái phép thần thông, là tác tạo ra cái ảo ảnh bên ngoài, tức
là tất cả cái vũ trụ đang có trước mắt.
Coi lập luận đó là chân lý tuyệt đối, rồi tìm phương thế tu luyện tập tành để
coi cái vũ trụ đau khổ đang đập vào giác quan của mình như là không có thực
chất, nhưng chỉ là ảo ảnh, và như thế chỉ còn cái ý thức chủ quan của mình là có
thực. Đi thêm một bước nữa, người ta lại chủ trương rằng chính cái ý thức, cái
bản ngã của con người lại cũng là ảo ảnh nốt, có cũng như không, không cũng như
có. Nếu nhận định rằng tất cả chỉ là ảo ảnh, thì có đau khổ cũng như không có
đau khổ, vì có còn ai đâu nữa mà khổ, và rồi cũng không còn có ai đặt vấn đề gì
nữa hết. Cái đó thực dễ hiểu : trong hai yếu tố mâu thuẫn nhau – thế giới bên
ngoài và bản ngã bên trong – nếu một hay là cả hai yếu tố là không có thực chất,
thì hết không còn vấn đề gì nữa.
Giải pháp tinh thần đó có vẻ
rất là thần tình, nhưng cũng rất là khó hiểu và khó thực hiện, vì đại đa số quần
chúng đang bận rộn chạy cơm áo, không có thì giờ rảnh rỗi để ngồi cả ngày mà suy
nghĩ, nhập định, thì không có lập luận như các nhà tư tưởng duy tâm hay duy
thức, đối với họ thì cái đau khổ trong đời ngườøi là có thực chứ không phải là
ảo ảnh. Và vì định mệnh cay nghiệt quá, tự sức mình không làm gì được – vì cái
“tự lực”duy tâm đã nói trên đây tựu chung cũng chỉ là ảo ảnh mà thôi – cho nên
họ thấy chỉ còn một giải pháp là nhờ vào quyền lực ngoại lai – nhờ vào “tha lực”
– là ước mong rằng có Thần Tiên Trời Phật nào đó cứu cho khỏi hết mọi tai ương.
Ngày nay ở Việt Nam người ta còn thâu lượm được khá nhiều câu thần chú mà thiên
hạ ta tin rằng do Thần Phật dạy cho, và cứ việc đọc lên cho đủ số là có công
hiệu, là linh nghiệm ngay.
Các giải pháp trên đây rất
khác nhau, không dung hòa được với nhau, không có lý thuyết hay tôn giáo nào làm
tổng hợp được cả. Có điều là người ta thường hay thay đổi tùy cơ hội, tiền hậu
bất nhất, cho nên lúc thì nói theo thuyết này, lúc thì đi theo thuyết khác.
Thành ra ta thấy có những người, lúc thì chủ trương một vũ trụ quan rất là thoát
tục, lúc thì dấn thân vào cõi thế tục này, và xông xáo chạy theo những ý thức hệ
của thời đại, nhưng rồi rốt cục trong lúc thực hành vẫn chạy theo đòi hỏi của
người phàm và cũng làm theo lễ bái kỳ đảo thông thường của tôn giáo dân gian.
Thiết tưởng như thế là người ta tùy cơ hội mà thay đổi, chứ không phải là tôn
giáo có khả năng thích nghi ra thiên hình vạn trạng.
3.2 – Ý thức về vận mệnh
Những lối
thoát ra bên ngoài định mệnh kể ra trên đây chứng tỏ rằng người ta không muốn
chấp nhận định mệnh. Chính vì người ta có cái tự do phủ nhận định mệnh, cho nên
mới có cái ước vọng là thay đổi vận mệnh, nghĩa là “cách mệnh”
.
Tuy vậy chính trong khi đặt
vấn đề vận mệnh, thì lúc đầu người ta cũng chỉ mới quan niệm rằng cái định mệnh
không đến nỗi quá ư tất định : nói thế khác, cái vận hay là cái số của ta có
lúc đỏ, có lúc đen, phải chịu khó chờ thời, rồi bĩ cực thái lai, vì máy trời làm
cho có lúc dương thịnh âm suy, có lúc dương suy âm thịnh. Rồi xem bói toán để
biết trước ít lâu và tùy tiện xoay xở. Quan niệm này không đến nỗi bi quan về vụ
trụ, vì có cả vui lẫn buồn, không phải tất cả đều là khổ cả. Nhưng như thế tức
là vẫn còn ở trong quan niệm rằng thời gian và vũ trụ đi theo vòng tròn, và như
thế vẫn không có lối thoát ra ngoài.
Đến đây ta thấy trong tư
tưởng Do-thái có quan niệm làm cho con người ta có thể thoát ra ngoài cái vòng
tròn bế tắc : theo quan niệm đó thì thời gian của con người đi một mạch theo
đường thẳng, từ khởi điểm cho đến cứu cách tối hậu. Đó là một quan niệm tôn
giáo, tin rằng có vị Thiên Chúa, siêu việt, ở ngoài vòng không gian và thời gian
của vũ trụ, đã đề nghị cho loài người một cứu cánh, một vận mệnh, là đi tới tình
thân với Ngài là cha, và với các người khác là anh em. Nhưng cái cứu cánh ấy
không phải là định mệnh mà con người tất nhiên phải tới, vì đồng thời quan niệm
ấy lại nhận rằng con người có tự do, có thể chấp nhận hay là từ chối. Như thế là
con người có vận mệnh, nhưng tới hay không tới cái vận mệnh đó, thì một phần là
tùy vào tự lực và tự do của mình, một phần là do tha lïực phù trợ. Quan niệm ấy
được truyền sang đạo Giê-su Ki-tô.
Khi người Aâu châu, từ thời Phục Hưng, đã dần dần
tục hóa quan niệm đó, thì người ta không muốn nói đến Thiên Chúa nữa, cũng không
tin vào cái cứu cánh đề nghị trên đây, nhưng chỉ còn giữ có một ý kiến, là lịch
sửù của con người và của xã hội thì đi theo đường thẳng, đã đi rồi thì không trở
lại nữa : đó là ý thức hệ « tiến bộ ». Dĩ nhiên là người ta vẫn đồng thời theo
đuổi cái lý tưởng đại đồng « tứ hải giai huynh đệ ».
Sau những chiến tranh huynh
đệ tương tàn trong thế kỷ XX, có hàng chục triệu người bị giam cầm, bị tra tấn,
bị tàn sát, một cách vô nhân đạo, không chút thương tâm, thì người ta bắt đầu
nghi nan cả về ý thức hệ « tiến bộ » lẫn về lý tưởng « tứ hải giai huynh đệ ».
Có người nhân đó mà chủ trương rằng không có thần linh hay Thiên Chúa nào cả.
Nhưng như thế thì loài người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cái thế giới vô
nhân đạo đó.
Thiết tưởng có lẽ là vì hai
lý do sau đây. Một là : nếu không có tiêu chuẩn để định hướng rõ rệt, thì ai
biết được đâu là phải, đâu là trái, đâu là tiến, đâu là thoái. Thực vậy chúng ta
tự nhiên thường « tiến bộ », nghĩa là bước đi về phía trước, có điều là ta quay
mặt về phía nào thì phía đó là phía trước, thành ra cái gì cũng có thể là phía
trước cả, như thế chẳng lẽ đi bất cứ theo hướng nào thì cũng là « tiến bộ » cả ?
Chẳng lẽ hai chữ « tiến bộ » cũng lại không có nội dung gì cả ? Hai là : nếu
không có chung một cha, có chung một mẹ, thì lấy gì làm tiêu chuẩn để nói đến
anh em trong bốn bể ?
Để giải quyết vấn đề, lại có
người chủ trương rằng người ta muốn làm điều phải, muốn tiến bộ, thì cứ việc đi
theo hướng đi của lịch sử. Nhưng lịch sử đi theo hướng nào ? Phải chăng là hướng
do thiên nhiên vô tình đi tới một cách tất định ? Hay là do vua chúa phong kiến
ngày xưa, do các nhà độc tài ngày nay tùy tiện quyết định cho toàn dân phải theo
? Nếu bảo rằng ngày nay chúng ta đã trưởng thành, tự lập, và tự mình định ra
hướng đi cho mình và cho xã hội, thì hướng đi của lịch sử là do ta chủ ý quyết
định : ta làm ra lịch sử, cho nên ta định đi đâu thì đó là hướng đi của lịch sử.
Nói thế khác, cái gọi là hướng đi của lịch sử không phải là tiêu chuẩn khách
quan của hành động, vì nó là do ta quyết định. Nó rất là bấp bênh, vì người ta
khó mà đồng ý để cùng đi về một hướng.
Kết luận
tạm thời
Thuyết biến hóa là một cái nhìn khoa học về vũ trụ
thiên nhiên. Nó có tính cách tổng quát, nhưng cũng là tạm thời. Một đàng thì
người ta dùng luật nhân quả để giải thích nó như thể là một tiến trình
tất định, nhưng đàng khác thì vì thấy rằng mình không biết và không trù tính
được hết, cho nên lại cho rằng tất cả chỉ là ngẫu nhiên mà thôi. Vì thế
đứùng trong quan điểm khoa học ta hiểu vì sao nhà khoa học Jacques Monod
(1910-1976), có giải thưởng Nobel, đã đề tên sách của ông như sau : Ngẫu
nhiên và Tất định. Thử lý luận triết học về thiên nhiên theo quan điểm sinh vật
học (1964). Oâng kết luận cuốn sách rằng : « Rốt cục thì con người biết
rằng mình là cô độc trong cái vụ trụ bao la và vô tình, mà từ đó mình đã ngẫu
nhiên ngóc đầu lên được. Không có đâu viết sẵn định mệnh hay nghĩa vụ của con
người. Cho nên có tới được cõi trời sáng hay phải vào cõi tối tăm, thì hoàn toàn
là do mình lựa chọn ».
Như thế cũng đủ thấy là
trong phạm vi khoa học, thuyết biến hóa không thể nói gì về vận mệnh con người.
Monod cho rằng người ta hoàn toàn tự do sáng tạo ra vận mệnh của mình. Nhưng
thiết tưởng nói như thế là nói quá, vì thực ra con người thật là nhỏ bé, không
tự tạo ra mình, cũng không tạo ra môi trường sinh hoạt. Dù sao, dù có vận mệnh
nào, thì chắc một điều là con người có tự do, có thể lựa chọn, đồng tình hay
không, cho nên không hoàn toàn để cho định mệnh chi phối.
Tuy vậy, trừ phi chọn lấy
lập trường duy tâm chủ quan, tự gán cho mình cái « tự lực » vô hạn và coi vũ trụ
như chỉ là ảo ảnh, thì không ai có thể một mình giải quyết vấn đề vận mệnh của
mình, mà phải tựa vào « tha lực », là sức của ai đó.
Nhưng có « ai đó » không ?
và « ai đó » là ai ? Dĩ nhiên không thể là thế giới thiên nhiên vô tình và tất
định. Cho nên nếu có « ai đó », thì chắc chắn là « ai đó » có tự do, cho nên
không thể là một dụng cụ cho ta. Có người thì cho rằng « tha lực » đó là
Thần, Tiên, Trời, Phật, hay là Thiên Chúa. Có người thì không
chịu như thế, lại cho rằng đó là nhân loại, như ông tổ học thuyết vô thần
là Feuerbach đã chủ trương, vì ông cho rằng Thiên Chúa cũng chính là nhân loại
này vậy.
Như vậy còn khá nhiều vấn đề
cần phải giải quyết. Ví dụ như : làm thế nào kéo được « tha lực » vào giúp cho
vận mệnh của ta. Phải cầu đảo, cầu khấn ? Phải dùng pháp thuật, dùng thần chú ?
Phải dùng võ lực, hay là thảo luận, dàn xếp ? Thêm vào đó lại còn vấn đề then
chốt : con người ta có thể « duy ngã độc tôn », hay là còn có nghĩa vụ đối với
ai khác nữa, ví dụ như : gia đình, quốc gia hay nhân loại ? Bao lâu những vấn đề
đó chưa giải quyết xong, thì cũng khó mà bàn về vận mệnh cá nhân hay xã hội cho
ổn thỏa.
Về những vấn đề này, xin tạm trưng dẫn ra đây một
câu nhận xét đáng suy nghĩ của triết gia người Nga là N. Berdiaev (1874-1948) :
« Nếu không có Thiên Chúa thì con người hoàn toàn tùy thuộc vào thiên nhiên và
vào xã hội, vào vũ trụ và vào nhà nước. Nếu có Thiên Chúa thì con người là một
vật độc lập về mặt tinh thần, và rồi đối với chính Thiên Chúa con người cũng có
lối cư xử tự do, chứ không phải là tùy thuộc ».
Trên đây bỉ nhân đã nói lên mối nghi ngờ đối với những ai cho rằng tôn
giáo hay vũ trụ quan của mình có những tri thức khoa học, và nói lên
được những điều « có thực ». Nói cho đúng ra, thì những cái « có
thực » có thể nằm ở nhiều bình diện khác nhau, như bình diện cảm xúc của
giác quan, bình diện quan niệm của trí tuệ, bình diện tín ngưỡng của tôn
giáo. Có người cho rằng các hiện tượng trong thế giới này là có thực, ở
bình diện cảm xúc, nhưng xét ở bình diện cao hơn thì cũng chỉ là ảo
ảnh, hay là phản ảnh của một thực tại lý tưởng vốn nằm trong lý giới.
Cho nên khó mà nói cái nào « có thực » hơn cái nào, vì không còn theo
một tiêu chuẩn chung nữa.
Có người dùng ví dụ sau đây để giải thích : cũng là một ít nước là
chất mềm và chảy, nhưng nếu ta đun sôi, làm cho nó tăng nhiệt độ,
tăng nhiệt lượng ca-lô-ri, thì tới độ 100 nó đổi phẩm và biến thành
chất hơi ; và nếu ta rút bỏ nhiệt lượng của nó đi thì khi đến độ
không, nó sẽ đổi phẩm và biến thành chất cứng như chất đá, gọi là
nước đá. Nhưng nói như thế là lẫn lộn hai quan điểm : quan điểm của giác
quan làm cho ta nhận ra chấât hơi, chất cứng và chất chảy, nhưng đối với
quan điểm của nhà khoa hoc, hóa học, thì cả ba chất đó cũng đều là một
chất H2O mà thôi. Aáy là không nói đến sự dị biệt vượt bực giữa vật chất
vô tri vô giác và ý thức năng giác và có tự do.
Xem trong sách tập thể Le darwinisme aujourd’hui, Paris, Seuil,
Collection Points, Série Sciences, S 18.
Le hasard et la nécessité, Paris, Seuil, 1970.
Xin xem bài về nhân quả, dẫn trong ghi chú số 12 trên đây. Cũng nên chú
ý là cụ Nguyễn Du cho rằng dù định mệnh khách quan có khắt khe, nhưng
cái giá trị của con người là ở chỗ khác. Cụ viết thêm :
“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Xem : chữ “ Kalpa” trong : A dictionary of chinese Mythology của
E.T.C. Werner, New York, 1961, trang 213. Muốn
xem các chi tiết tỉ mỉ, thì xem mục “Cosmologie bouddhique” trong :
Dictionnaire encyclopédique du Bouđdhisme của Philippe Cornu,
Paris, Seuil, 2001, trang 145-149.
Có điều khó hiểu là vì sao cái đại ngã hay tiểu ngã, lại tác tạo a một
vũ trụ đau khổ khó chịu, thay vì phóng ra bên ngoài một thế giới sung
sướng, như thế có phải là dễ chịu hơn không ?
Trong phạm vi chính trị, người Trung Quốc và người Việt Nam dùng chữ
« cách mệnh » để dịch chữ « révolution » của Tây phương, thì có ý nghĩa
hay hơn là chữ gốc bội phần.
Xem khẩu hiệu của chế độ cộng hòa Pháp : Tự-do, Bình-đẳng, Huynh-đệ.
Le hasard et la nécessité. Essai sur la philosophie naturelle de la
biologie moderne, Paris, Ed. du Seuil, Coll. Points-Sciences, N° 43,
1970, trang 224-225.
Essai d’Autobiographie Spirituelle, Paris, Buchet-Chastel, 1958,
trang 222.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ
XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (2).
|
NGUYỄN HỌC TẬP
Lịch sử của phẩm
giá con người.
ĐTC Gioan XXIII
cho biết rõ rằng con
người và tổ chức sống trong xã hội luôn luôn liên hệ với nhau và
các mối tương quan con người được hướng dẫn bằng một mạng
lưới rất phức tạp ( Mater et magistra ( MM) n. 63-64).
Từ đó chúng ta có
thể suy diễn ra rằng tự do con người càng bị lệ thuộc và giới
hạn nhiều hơn bởi các tổ chức xã hội.
Tiến trình tổ chức
xã hội phức tạp có nguy cơ làm mất đi tin tưởng đối với khả năng
con người có thể đảm nhận trách nhiệm đối với cuộc sống mình.
Tiến trình phức tạp
xã hội đó
- đặt thành vấn
đề cho địa vị thượng đẳng của con người,
- có khuynh hướng
đòi buộc con người phải phục tùng cơ chế tổ chức xã hội, chưa
hẵn luôn luôn là những cơ chế chính đáng, chính danh và vô tư
phục vụ con người ( MM n. 65-68).
Trong bối cảnh đó
Thông Điệp Mater et magistra ( MM ) đề nghị giá trị căn
bản của phẩm giá con người như là " nền tảng, nguyên cớ
và cùng đích " của mọi định chế ( doctrina) và cơ
chế ( institutions) tổ chức xã hội.
ĐTC lưu ý rõ rệt
rắng phẩm giá con người chỉ có thể hiện hữu trong bối cảnh được
xác tín rằng con người trong xã hội có liên hệ và liên đới
với nhau. Trong nhãn quang đó, để có thể tránh việc lạm dụng
uy quyền của tổ chức cơ chế làm băng hoại con người, đó là
kiến tạo các cấu trúc làm cho con người liên hệ tùy thuộc
nhau, phải có khả năng kiểm soát tiến trình thành lập và hoạt
động các cơ chế đó ( MM n. 69-72).
Trong ý nghĩa những
gì vừa được đề cập, nhằm đáp ứng lại cho việc phẩm giá con
người phải được tôn trọng, đó là mục đích trên có liên hệ
rõ ràng với việc bảo vệ công ích cho tất cả mọi người ( MM n. 60
)
Và Thông Điệp diễn
tả đặc tính cấu trúc của công ích vừa đề cập: công ích
- " không phải
là tổng số các lợi ích cá nhân, mà là một chuổi các điều kiện xã
hội cho phép cá nhân thực hiện được lợi ích cá nhân của mình " (
MM n.65).
Các điều kiện đó là
những thực thể văn hoá và tổ chức cuộc sống xã hội.
Như vậy ĐTC hướng về
định nghĩa phẩm giá con người, hàm chứa những điều kiện cấu
trúc xã hội.
Dựa vào đó chúng ta
có thể rút ra được những yếu tố:
1) phẩm giá con
người luôn luôn được nâng đỡ và bảo vệ bởi các phương thức cuộc
sống xã hội, trong đó con người hiện diện;
2) các suy luận
về nền tảng luân lý cần đặc tâm lưu ý đến bối cảnh xã hội trong
đó phẩm giá con người đang hiện diện;
3) đáp ứng lại
các quyền của con người sẽ luôn luôn bị lệ thuộc vào định chế và
nhứt là vào cấu trúc cơ chế xã hội.
Kế đến tầm quan
trọng của Thông Điệp Pacem in terris ( PT) được coi là
những đề cập có hệ thống các hậu quả luật luân lý nầy, nhứt
trong các xã hội có tầm vóc tổ chức cao độ.
Thông Điệp xác nhận
một cách rõ ràng
- những đòi buộc
phải có của phẩm giá con người giữa con người đối với con
người;
- giữa cá nhân
đối với quyền lực công cộng trong lòng Quốc Gia;
- giữa các Quốc
Gia trong Cộng đồng Quốc Tế.
Phẩm giá con người
chịu ảnh hưởng nội bộ trong mối liên hệ con người với nhau,
trong ranh giới Quốc Gia và cả ở bên ngoài các lằn mức đó.
Vấn đề then chốt đó
là mối liên quan giữa phẩm giá con người và các cấu trúc xã hội
phức tạp và liên hệ ảnh hưởng đến nhau.: phận vụ bảo vệ phẩm giá
con người trong bối cảnh xã hội phải được nói lên bằng một tiến
trình ai cũng thấy rõ được. Các văn bản liên hệ trong tương lai
được thể hiện bằng bản sắc của một lương tâm tăng trưởng
của lịch sử nhân loại.
Trong viễn ảnh vừa
kể Công Đồng Vatican II được khai triển, khi Công Đồng
cho rằng những đòi buộc của phẩm giá con người bị đặt dưới nhiều
điều kiện lịch sử.
Việc hiểu biết mối
tương quan giữa giá trị tối thượng của con người và sự thực hiện
được trong dòng lịch sử giá trị đó, khiến chúng ta kết luận
rằng:
- những điều liên
hệ đầy đủ về phẩm giá con người không thể hiểu được và xác
quyết riêng rẽ tách biệt khỏi các hoàn cảnh hiện thực của một
thời đại lịch sử.
Nếu con người có một
giá trị tối thượng, thì các cấu trúc của tổ chức xã hội phải
phải là những cấu trúc đối chiếu với các quyền cần thiết để
phục vụ và bảo vệ phẩm giá đó.
Nói cách khác, định
chế tổ chức Quốc Gia xã hội, không thể chỉ tuyên bố trên lý
thuyết:
- " Phẩm giá
con người bất khả xâm phạm " ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949
Cộng Hoà Liên bang Đức), mà còn tuyên bố và tiên liệu và quy
trách cho cơ chế nào là chủ thể phải đứng ra trực tiếp chịu
trách nhiệm, nếu những giá trị về phẩm giá con người bị vi
phạm:
- " Các quyền
căn bản sẽ được kể sau đây là những quyền có giá trị bắt buộc
đòi với lập pháp, hành pháp và tư pháp, là những quyền có giá
trị bắt buộc trực tiếp " ( id., đoạn 2).
Dĩ nhiên nội dung
xác thực của các quyền đó chịu ảnh hưởng các điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử xác định trong việc áp dụng, thi hành.
Như vậy không ai có
thể tự nhiên tiên nghiệm ( a priori ) xác định rõ rệt
phẩm giá con người là gì..
Mỗi biện chứng dựa
vào bản tính con người cần phải lưu ý rằng bản tính đó được cấu
tạo nên và chịu ảnh hưởng của dòng lịch sử.
Tuy nhiên nhìn nhận
tính cách lịch sử như là những gì liên quan đến đặc tính thiết
yếu của con người , chúng ta có cai nguy là làm tương đối hoá
phẩm giá con người và trói buộc phẩm giá đó vào những gì
được nói lên bởi các khuynh hướng văn hoá và ý thức hệ.
Công Đồng Vatican II
nhìn nhận mối thử thách của tính cách lịch sử và giải thích giá
trị vững chắc của truyền thống, theo đó thì tính cách bắt
buộc của luân lý không phải chỉ là những vấn đề khuynh hướng văn
hoá hay định kiến.
Sự hiện diện cùng
lúc nơi con người tư tưởng
- bị giới hạn
theo dòng lịch sử
- và khuynh hướng
tối thượng của bản thể mình trở thành tâm điểm của nhãn quang
luân lý về phẩm giá con người.
Bởi đó cần tránh
tuyệt đối hóa một giá trị lịch sử giới hạn hay buông thả mình ẩn
náo vào tính cách thuần tối thượng của phẩm giá ( GS nn.
13.44).
Tầm độ căng thẳng
vừa được đề cập là động lực tích cực cho sự khéo léo của con
người để tổ chức và thực hiện chính trị và như vậy tổ chức xã
hội, chính trị phải là kết quả của mức độ khéo léo đó.
Con nguời hiện diện
trong lịch sử bị đặt mình trước hai thái cực vừa kể:
- như vậy phải
chuyên cần để trong các giới hạn và các điều kiện bị đặt mà mình
gặp phải,
- nhưng đồng thời
tự bản thể của mình, con người luôn hướng về những gì cao cả tối
thượng cho phẩm giá của mình.
Phẩm giá con người
được xác định trên nền tảng đó.
Tạo vật con ngưòi
thấy được nơi mình mối căng thẳng đó là:
- con người không
phải là những mảnh vụn, yếu tố, bù lon, đinh, ốc của một bộ máy
xã hội,
- nhưng con người
cũng không phải là những vị thần thánh thuần túy.
Hiểu được tình trạng
cấu trúc của con người như vậy, chúng ta ý thức được các giới
hạn, các điều kiện và hoàn cảnh sống lịch sử không phải là kẻ
thù của phẩm giá con người.
Cấu trúc để thực
hiện phẩm giá con người gồm có hai loai:
- một loại gồm
những mối liên hệ trực tiếp với bản thể nội tại của con người,
- một loại khác
gồm những yếu tố thay đổi theo lịch sử, như là kết quả của những
quyết định cá nhân và cộng đồng xã hội ( GS n. 25).
a) Trong những
mối liên hệ thứ nhứt gồm cả gia đình và cộng đồng chính trị.
Khước từ quyền đươc quyết định hay tham gia vào chính trị, một
cách nào đó là khước từ tầm mức thiết yếu của con người.
Hình thức chính xác
của các quyền nầy trên thực tế là có thể được quyền xác định
chính xác, đùng hay sai, chinh đáng hay lạm dụng , bằng cách
phân tích bối cảnh lịch sử các ý thức hệ khuôn mẫu và cơ chế
của cuộc sống xã hội.
Tuyên Ngôn
Dignitatis humanae
cũng đặc tâm lưu ý
đến con người và quyền tự do của con người trong xã hội như là
trọng tâm của ý thức hệ và cơ chế tổ chức phải có để tôn trọng
phẩm giá con người.
Quốc Gia không thể
thay thế cá nhân con người, các tổ chức xã hội trung gian, mà
chỉ có thể thiết định và phối hợp các động tác liên hệ của con
người, liên hệ với nhau cũng như liên hệ với tổ chức Quốc Gia vì
công ích: nhưng suy nghĩ cho cùng, dầu cho Quốc Gia có ra lệnh,
chỉ thị bắt buộc, các lệnh truyền đó của Quốc Gia chỉ có tính
cách chính đáng, nếu là lệnh truyền để nhằm bảo vệ tự do của
người dân và lợi công ích.
Chỉ có như vậy,
chúng ta mới hiểu được nguyên cội các quyền của cá nhân và xã
hội, thấy đuợc mối tương quan thiết yếu lẫn nhau giữa họ với
nhau.
Tuyên Ngôn
Dignitatis humanae
nhắc cho chúng ta
nhớ rằng không thể nhân danh giáo lý hay thực hành tôn giáo để
xoá bỏ hay áp đặt nguyên cội đó của các quyền con người. Nói
cách khác,, không có tôn giáo nào có thể xóa bỏ được tự do lương
tâm tôn giáo, nếu tôn giáo đó vẫn còn tôn trọng bổn phận phải
tìm kiếm chân lý của mỗi người.
Hành động như vậy,
một đàng không phân tách được sự khác biệt
- giữa định chế
luật pháp ( tức là định chế các điều kiện vật chất thích hợp để
uốn nắn và tạo được cuộc chung sống giữa các cá nhân con người
và chính căn tính tôn giáo của con người)
- và lãnh vực
thiện hảo của tôn giáo -luân lý.
Đó là lãnh vực định
chuẩn cá biệt của tự do và chỉ từ tự do đó, với tư cách là
phương thức tối thượng và căn bản của hành động con người, chúng
ta mới chuẩn định được hành động chính đáng của con người.
Bởi đó Công Đồng
Vatican II, trong Tuyên Ngôn vừa đề cập, xắc nhận rằng:
- " Chân lý
phải được tìm ra trong thể thức đáp ứng được phẩm giá và xã hội
tính của con người , có nghĩa là bằng một cuộc tìm kiếm tự do ".
Cũng với tầm quan
trọng đó nhãn quang lịch sử cũng được đặt liền " bên cạnh
" quan niệm truyền thống " khách quan " trong ý nghĩa
bản thể phổ quát của con người được Chúa ban cho có phẩm giá,
bởi lẽ bản thể đó được thiết định trên trật tự được Chúa dựng
nên hay trên thực tại con người giống hình ảnh chính Thiên
Chúa, nguyên cội từ đó thoát xuất ra hình thức hữu lý - cần
thiết cho các quyền con người.
Đặt tầm quan trọng
đến quyền tự nhiên của con người, không phải chỉ là kết quả của
một xác tín được khai triển, có vẽ như để đáp ứng lại nhu cầu
phổ quát và truyền thông đối với xã hội ngày nay . Giáo Hội cũng
đáp ứng lại bằng cách dựa lên trên bản tính phổ quát của con
người ( có giá trị đối với mọi người và ở mọi thời đại ).
Tuy nhiên phẩm giá
và các quyền của con người là những đòi buộc " khách quan,
bất khả xâm phạm và bất khả nhượng ", không tùy thuộc vào
lượng số nội dung và bối cảnh lịch sử trong đó các quyền của con
người được tuyên bố.
Dĩ nhiên các quyền
của con người, không phải tất cả đều tuyệt đối. Bởi lẽ ngoài một
số quyền bất di dịch và bất khả nhượng, như những gì Tuyên Ngôn
Độc Lập 1776 Hoa Kỳ tuyên bố:
- " Mọi người
được dựng nên bình đẳng như nhau. Trong các quyền nầy, quyền
được bảo toàn mạng sống, quyền toàn vẹn thân thể và quyền được
tìm kiếm hạnh phúc là những quyền thượng đẳng " ( Tiền Đề Tuyên
Ngôn Độc Lập Hoa Ký 1776), nhiều quyền khác của con người
bị " tương đối hoá " trong cuộc sống xã hội với nhau:
quyền tự do di chuyển trước ngã tư đèn xanh, đền đỏ chẳng
hạn.Quyền tự do di chuyển của người gặp đèn đỏ bị tương đối hoá
đối với người có đèn xanh. Một quyền căn bản của ccon người bị
tuơng đối hoá ví lợi ích cho các cá nhân khác, cũng như vì công
ích.
Nhưng tương đối hoá,
không có nghĩa là bị vi phạm, đàn áp, bị tước bỏ, coi không ra
gì.
Và đó là những gì
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đã xác nhận và tiên liệu,
trong phương thức tổ chức xã hội của họ:
- " Không có
bất cứ một trường hợp nào, trong đó một quyền căn bản của con
người bị vi phạm đến nội dung thiết yếu của nó " ( Điều 19, đoạn
3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Nói cách khác, từ
ngữ " bản thể con người " phải được hiểu như là "
nguyên lý luật pháp ",một chỉ thị luân lý.
Hiểu như vậy, chúng
ta hiểu được từ ngữ " bản thể " ( natura ) không
có chỉ định một thực thể cố định, bất di dịch, mà là một sơ
đồ luân lý năng động, được ấn dấu bằng một " đinh ý mặc
nhiên hàm chứa " mở rộng cho những gì thiện hảo đối với con
người.
Như vậy, quan niệm "
bản thể " gồm một yếu tố vĩnh viễn cố định và một yếu tố
lịch sử - năng động. Con người được Thiên Chúa dựng nên "
giống hình ảnh Người " ( Gen 1, 26-27), nhưng " giống
hình ảnh Người " , con nguời không phải chỉ là một bức
tranh, một pho tượng bất động chết đứng, mà là có trí khôn ngoan
và lòng ước muốn hạnh phúc, phản ảnh lại trí khôn ngoan vô tận
và hạnh phúc bất diệt của Thiên Chúa.
Với những gì được
Chúa ban cho, con người sống giữa trần thế, giữa dòng lịch sử,
cùng chung với anh em, hoạt động để luôn luôn trở nên thiện hảo
hơn và làm cho thể giới trở nên tốt đẹp hơn, tiếp tục công trình
tạo dựng của Thiên Chúa, như mục đích Chúa muốn, khi Người đặt
tổ phụ chúng ta trong vườn địa đàng:
- " Chúa là
Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Địa Đàng, để trồng trọt và
canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15).
Phẩm giá con
người trong viễn ảnh thần học.
Dưới nhãn quang thần
học, ĐTC Gioan Phaolồ II tìm hiểu sâu hơn về phẩm giá con
người và đặt câu hỏi Giáo Hội có thể làm gì để " cộng tác vào
việc thăng tiến con người tự do trong một xã hội tự do ".
Câu hỏi được đặt ra
thoát xuất từ những nền tảng thần học về con người:
- " Con người
là con đường tiên khởi và là con đường nền tảng của Giáo Hội " (
ĐTC Gioan Phaolồ II, Redemptor hominis).
Bơi đó
- " Cần phải
luồn luôn trở lại không ngừng trên con đường nầy và tiếp tục đi
theo con đường đó " ( id., Laborem excercens).
Và ĐTC đã đưa ra một
câu trả lời bằng cách tặng cho chúng ta một bài suy niệm dài về
- " tình yêu
thương và lòng khoan dung nhân hậu cho phép con người có thể gặp
nhau trong giá trị của chính con người, với phẩm giá mà chính
con người có " ( Dives in misericordia n.14).
Mầu nhiệm lòng khoan
dung nhân hậu của Chúa soi sáng cho chúng ta biết được lòng
khoan dung nhân hậu được con người thực hiện và ban tặng cho họ
danh nghĩa là những người hạnh phúc " được chúc lành " ( Mt
5, 7):
- " Phúc cho
ai thương xót người, vì họ được Thiên Chúa xót thương " .
Lòng nhân hậu của
Thiên Chúa là nền tảng cuối cùng của bình đẳng và tình thân hữu
giữa con người với con người.
ĐTC Gioan Phaolồ
II đã nói
lên tầm quan trọng của những nhu cầu ngoài kinh tế của con
người, trong đó Giáo Hội có một vai trò và trách nhiệm đặc biệt.
Nhãn quang chính
đáng đối với con người và giá trị độc đáo của mình là nguyên lý
định hướng cho Thông Điệp Centesimus annus của ngài, bởi
vì con người hiện diện trên mặt đất là
- " tạo vật
duy nhứt mà Thiên Chúa muốn cho chính mình " ( chính tạo vật con
người ) ( CA n.10).
Chính trên chân lý
về con người mà hệ thống đẳng cấp các quyền của con người được
thiết định và được giẳi thích, Bởi đó cần có được một sự hiểu
biết cá biệt tổng thể về nội dung các quyền của con người.
Tất cả các quyền của
con người, gộp chung lại với nhau, cần phải được đặt liên hệ với
bản thể của phẩm giá con người, kể cả ý nghĩa " con người
toàn vẹn hoàn hảo " ( homo integralis), chớ không thể chỉ
hạn hẹp vào những mục đích vật chất, cá nhân hay ý thức hệ độc
tôn, đảng phái. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Không chỗ nào thánh thiêng hơn |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : TÔN GIÁO
(tiếp theo)
61. Không chỗ nào thánh
thiêng hơn
Có hai anh em, một độc thân, một lập gia đình,
cả hai là chủ một nông trại mà đất đai màu mỡ đem lại bao hoa
màu. Phần thu hoạch được chia hai, mỗi người một nữa.
Lúc đầu mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng đôi khi, người
anh có gia đình bắt đầu thức giấc về đêm và nghĩ ngợi: “Thật
không công bằng. Em ta không lập gia đình, chú ấy ở một mình và
chỉ nhận phân nửa hoa màu. Mình có vợ và năm con; vậy là an tâm
khi về già. Nhưng ai sẽ chăm sóc cho chú khi chú ấy già cả. Chú
ấy cần dành dụm nhiều cho tương lai hơn là cho hiện tại. Cho
nên, rõ ràng chú ấy cần nhiều hơn mình”.
Suy nghĩ như thế, người anh chỗi dậy lẽn đến chỗ
người em, đổ vào kho của cậu một bao lúa đầy.
Cậu em độc thân cũng bắt đầu có những trăn trở
tương tự. Mỗi khi thức giấc, cậu tự nhủ: “Rõ ràng là không công
bằng. Anh mình có vợ và năm con vậy mà chỉ nhận một nửa hoa mầu.
Còn ta, không phải nuôi ai cả ngoài thân mình. Vậy sẽ công bằng
khi ông anh rõ ràng với nhiều nhu cầu hơn mình lại chỉ nhận như
mình nhận? Vậy là cậu chỗi dậy mang một bao lúa đầy đổ vào kho
của người anh.
Một đêm kia, cả hai cùng dậy một lúc và đâm sầm
vào nhau khi mỗi người vác trên vai một bao lúa.
Nhiều năm sau, hai anh em qua đời và câu chuyện
mới được kể lại. Thế rồi, khi dân làng có ý định xây một nhà
thờ, họ chọn ngay điểm mà hai anh em ấy gặp nhau vì họ không thể
nghĩ đến một chỗ nào khác thánh thiêng hơn.
Khác biệt quan trọng của việc giữ đạo không ở
chỗ đi nhà thờ hay không đi nhà thờ nhưng ở chỗ yêu thương hay
không yêu thương.
ڰ
62. Đấng Mêsia
Ngày kia, một người chủ trại giàu có đột ngột về
nhà và la lớn với vẻ lo lắng, “Rebecca, chuyện thật kinh khủng
cho thị trấn chúng ta. Đấng Mêsia đang ở đây”.
Vợ ông hỏi, “Có gì mà kinh khủng? Tuyệt vời chứ.
Sao ông hoảng hốt đến thế?”.
Người đàn ông lại la lên, “Tôi hoảng hốt ư? Sau
bao năm đổ mồ hôi sôi nước mắt, chúng ta mới có được như ngày
hôm nay. Chúng ta có hàng ngàn bê bò, kho lẫm đầy ắp và cây cối
trĩu quả. Giờ đây chúng ta phải bỏ hết và đi theo ngài”.
Bà vợ ôn tồn bảo, “Thôi, bình tĩnh đi. Chúa là
Thiên Chúa tốt lành. Ngài biết người Do Thái chúng ta luôn phải
chịu đựng. Chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler -
nghĩa là luôn luôn với một ai đó. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta
luôn có cách đối phó với họ, phải không? Ngài cũng có cách đối
phó với Đấng Mêsia chứ?”.
ڰ
63. Dân Chúa chọn
Goldstein, chín mươi hai tuổi, người đã trải qua
những cuộc tàn sát ở Ba Lan, những trại tập trung ở Đức và hàng
chục cuộc bách hại khác chống lại người Do Thái.
Ông nói, “Ôi lạy Chúa! Liệu chúng con có thật là
dân Chúa chọn không?”.
Có tiếng đáp lại từ trời, “Đúng thế, Goldstein,
người Do Thái đúng là dân Ta tuyển chọn”.
“Vậy thì chưa đến
lúc Chúa chọn một ai khác hay sao?”.
ڰ
64. Buông tay ra!
Một người vô thần rơi xuống từ một vách đá. Đang
khi rơi xuống, ông víu được một cành cây nhỏ. Treo lơ lửng giữa
trời và vực thẳm đầy những mỏm đá, ông biết chắc không thể nào
níu lâu mãi như thế.
Rồi một ý tưởng chợt đến, ông kêu lớn tiếng,
“Lạy Chúa”. Im ắng! Không tiếng đáp lại.
Ông lại kêu lên, “Lạy Chúa! Nếu có Chúa thì xin
cứu tôi. Tôi hứa sẽ tin Ngài và dạy cho người khác cùng tin”.
Vẫn im ắng!
Thế rồi khi sắp buông tay, ông nghe một tiếng
oai nghi vang dội khắp vách núi, “Gặp gian truân, ai ai cũng
thốt lên như thế”.
“Không, lạy Ngài, không”. Ông kêu lên với vẻ hy
vọng hơn. “Tôi không như những người khác đâu. Tại sao Ngài
không thấy, đó, tôi đã bắt đầu tin. Chính tôi đã nghe tiếng
Ngài. Giờ đây, những gì Ngài cần làm là hãy cứu tôi, tôi sẽ loan
truyền danh Ngài tới tận cùng trái đất”.
Tiếng nói đáp lại, “Tốt, Ta sẽ cứu ngươi. Nào!
Buông tay ra!”.
Ông thất vọng kêu lớn, “Buông tay ra!”. Chúa
nghĩ tôi điên rồi sao?”.
Người ta nói, khi Môisen ném gậy xuống Biển
Đỏ, phép lạ đã không xảy ra. Chỉ khi người đầu tiên lao mình
xuống biển thì sóng mới rút xuống và nước rẽ đôi, tạo nên một
lối khô ráo cho người Do Thái đi qua.
ڰ
65. Tôi không tin ai cả
Ngôi nhà của tu sĩ Hồi giáo Nasruddin bốc cháy.
Ông vội chạy lên mái để thoát thân. Ở đó, khi đang cheo leo trên
mái thì các bạn ông tụ lại bên dưới, căng một chiếc mền cho ông
và la lớn, “Nhảy, thầy nhảy xuống đi!”.
Thầy Nasruddin nói, “Không! Không đâu. Tôi biết
các người, nếu tôi nhảy, các người sẽ rút tấm mền và đánh lừa
tôi”.
“Ôi! Thầy ơi! Đừng dại dột thế, không đùa đâu,
nghiêm túc đấy. Nhảy đi!”.
“Không! Tôi không tin ai cả. Cứ trải tấm mền
xuống đất, tôi sẽ nhảy”.
ڰ
(còn tiếp nhiều
kỳ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục giáo phận sống sứ vụ Hoà giải |
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN
C. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA
LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
(tiếp theo)
C.12. Linh mục
giáo phận sống sứ vụ Hoà giải
C.12a. Tầm quan trọng và nhu cầu cấp bách của Bí tích Hòa Giải
Tin Mừng cho thấy hình ảnh Chúa
Giêsu không ngừng tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất, đến độ Ngài tự nguyện
đến dùng bữa tại nhà Lêvi và Zakêu, dù bị tiếng là thường giao du với những
người tội lỗi và những người thu thuế.
Ngay cả trong cơn đau quằn quại trên Thập Giá, Ngài cũng đã giao hòa người trộm
lành qua việc bảo đảm thiên đàng cho anh ta.
Chúa Kitô đã đến để giải
hòa con người với Chúa Cha và với nhau. Ngài là sự giao hòa và là sự bình an, vì
“trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài…”
Ngài đã hàn gắn tất cả những gì đổ vỡ, qui tụ tất cả những gì tản mác, hiệp nhất
những gì phân rẽ. Ngài đã chịu chết để thu họp tất cả các con cái Thiên Chúa
đang tản mác khắp nơi.
Ngài đã mang lấy gánh nặng
lỗi lầm của chúng ta và trở thành giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội
lỗi.
Là nhà hòa giải, Chúa Giêsu là nhịp cầu nối kết không chỉ những ai đang chia rẽ
nhau, mà nhất là hiệp nhất lại những gì đã phân rẽ bên trong mỗi người.
Cái gì gây phân rẽ giữa người với
người? Và phân rẽ ngay bên trong mỗi người? Chính là tội lỗi và sự dữ. Tội lỗi
chia cắt và làm con người phân rẽ. Tội lỗi không chỉ làm cho người ta đoạn tuyệt
mình khỏi Thiên Chúa, mà còn đoạn tuyệt mình khỏi người khác, đoạn tuyệt với
chính mình nữa. Sự xung đột giữa người với người chỉ chấm dứt khi sự xung đột
bên trong bản thân mỗi người chấm dứt. Kinh nghiệm bản thân cho biết cõi lòng
mình là một bãi chiến trường của những xung đột này: chúng ta muốn tránh sự dữ,
nhưng lại sa vào làm mồi cho sự dữ; muốn làm điều tốt, nhưng lại bị kéo lôi bởi
điều xấu. Quả thật chúng ta có thể thốt lên như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi!
Ai sẽ kéo tôi ra khỏi tấm thân hay chết này? Xin tạ ơn Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu
Kitô Chúa chúng ta!”
Chúng ta vẫn thường nói về những
cơ chế của tội lỗi, những cơ chế của bất công, của sự phân biệt đối xử trên thế
giới, nhưng những cơ chế ấy phát xuất từ đâu? Chúng ta dễ quên những cơ sở hạ
tầng của tội lỗi bên trong chính mình. Những cơ chế bên ngoài của tội lỗi sẽ chỉ
biến mất nếu những cơ chế tội lỗi đồn trú bên trong bản thân mỗi người bị giải
thể. Có lẽ tội lớn nhất của thời đại chính là việc con người đánh mất cảm thức
về tội lỗi. Đây là căn bệnh cần được giúp đỡ và chữa trị khẩn cấp. Chúa Giêsu
cung ứng cho chúng ta sự chữa trị đó khi Ngài giải hòa chúng ta với chính mình,
với nhau, và với Thiên Chúa. Linh mục là thừa tác viên và là sứ giả của sự hòa
giải này, nối lại các nhịp cầu và kiến tạo hòa bình. Linh mục cũng cần biết nhìn
nhận rằng trong sâu thẳm con người mình, linh mục vẫn mang những mầm mống của
tội lỗi và ích kỷ, rằng linh mục cũng cần được hòa giải ngay cả khi linh mục đem
lại sự hòa giải cho người khác.
Mẹ Giáo Hội cung cấp cho chúng ta
một phương thế để đón nhận sự hòa giải và niềm bình an ấy: đó là Bí Tích Hòa
Giải. Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi và sự dữ ở bên trong chúng ta và đặt mình
qui phục lòng thương xót và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao
Giáo Hội hết sức nhấn mạnh tầm quan trọng của Bí Tích Hòa Giải. Nhờ bí tích này,
chúng ta nhận lãnh không chỉ sự thứ tha tội lỗi, mà còn nhận lãnh sức mạnh của
ơn Chúa để có thể phá tan những cơ chế tội lỗi bên trong mình.
C.12b. Thừa tác
viên và việc cử hành Bí tích Hòa Giải
Linh mục, nhất là linh mục giáo
phận không những phải thực thi vai trò thừa tác viên của Bí Tích Hòa Giải, mà
còn phải là người ân cần và đều đặn lãnh nhận bí tích này, để chính linh mục trở
nên chứng nhân của lòng thương xót mà Thiên Chúa dành cho tội nhân, thành thật
nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và mở lòng ra đón nhận lòng thương xót của
Thiên Chúa, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ và cứu độ. Linh mục giáo phận phải là một
hối nhân mẫu mực thì mới có thể làm một cha giải tội mẫu mực được.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II,
trong Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia đã trình bày một cách sắc
bén như sau: “Đời sống tu đức và mục vụ của linh mục muốn thực sự có chất
lượng và sinh động, cần phải là một đời sống lãnh nhận Bí tích Hòa Giải thường
xuyên và đầy ý thức. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể của linh mục và vai trò của
ngài trong các bí tích khác, nhiệt tâm mục vụ của ngài, mối quan hệ của ngài đối
với các tín hữu, mối hiệp thông của ngài đối với các anh em linh mục khác, sự
cộng tác của ngài với Giám mục, đời sống cầu nguyện của ngài, nói tắt một lời là
tất cả cuộc sống linh mục của ngài sẽ lụn bại thảm khốc, nếu do cẩu thả hay do
một lý do nào khác mà ngài không lãnh nhận Bí tích Hòa Giải một cách đều đặn với
lòng tin và lòng sốt mến chân thành. Nếu một linh mục không còn bước đến tòa
giải tội nữa hay không còn xưng thú tội lỗi của mình một cách nghiêm túc nữa,
thì con người linh mục và sứ vụ linh mục của ngài chẳng mấy chốc sẽ gánh lấy hậu
quả thê thảm, và hậu quả này sẽ tác động rõ ràng trên chính cộng đoàn mà ngài
phụ trách.”
Việc cử hành Bí tích Hối Sám luôn
là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành bí
tích sám hối là một yếu tố trong đời sống cầu nguyện của cả hai người, người
xưng thú lẫn người nghe xưng thú. Linh mục là thừa tác viên thường xuyên của Bí
tích Giải Tội. Ngài không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu
biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là một tập luyện tuyệt
vời về nhân đức, đền tội…, là trường tu đức không thể thay thế, là một sự trợ
giúp thực sự trên con đường đổi mới và thánh hóa.
Bí tích Hòa giải là một quà tặng,
một khí cụ quan trọng để tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng,
đặc biệt nếu nó không chỉ được coi là một nghi thức, một cơ hội không chỉ để
xưng tội, song để trao đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm
từng trải, nhờ đó đạt tới một kinh nghiệm chữa lành và vui sống. Việc linh hướng
đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định hướng, tăng trưởng và phát triển
đời sống thiêng liêng trưởng thành.
Thường chỉ xưng tội mà thôi không
đủ, hối nhân cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ
sâu xa hơn của lỗi phạm, cùng là cơ hội mở ra các viễn ảnh tương lai. Lối xưng
tội chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên cả
chiều kích nhân bản và thiêng liêng. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất
nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người
khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự. Bí tích hòa giải là một trong những
quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài,
nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng
liêng và bác ái mục tử.
C.12c. Giá trị sư phạm của Bí tích Hoà
giải
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày
25/3/2011 dành cho 800 tham dự viên khóa học về bí tích giải tội do Tòa Ân Giải
Tối Cao tổ chức từ 21/3-11/4/2011, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh giá trị sư phạm
của Bí tích Giải Tội đối với cha giải tội, cũng như đối với hối nhân:
Đối với Cha
Giải Tội, Ngài nói: “Các linh mục thân mến,
anh em đừng lơ là trong việc dành thời giờ cho việc ban bí tích giải tội. Chúng
ta đừng quên rằng bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện
thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội! Linh mục có thể chứng kiến những phép
lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa.
Việc nhận biết chiều sâu của tâm hồn, kể cả những khía cạnh đen tối, có thể là
một thử thách đức tin cho chính linh mục, nhưng cũng có thể nuôi dưỡng nơi linh
mục xác tín rằng lời nói cuối cùng trên sự ác của con người và của lịch sử chính
là của Thiên Chúa, và lòng từ bi của Ngài có thể đổi mới mọi sự. Cha giải tội có
thể học được nơi các hối nhân gương mẫu về đời sống thiêng liêng của họ: sự xét
mình nghiêm túc, sự minh bạch trong việc nhận lỗi và ngoan ngoãn đối với giáo
huấn của Giáo Hội, cũng như những chỉ dẫn của cha giải tội. Qua việc giải tội,
linh mục có thể nhận được những bài học sâu xa về lòng khiêm nhường và đức tin,
là lời nhắc nhở mạnh mẽ cho linh mục ý thức căn tính của mình.”
Đối với hối
nhân, ĐTC dạy: “Việc xét mình giúp hối nhân
chân thành cứu xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá
nó không chỉ theo các tiêu chuẩn con người, mà nhất là theo các tiêu chuẩn của
Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là
với giới luật yêu thương chính là một trường học lớn của bí tích giải tội. Trong
thời đại ồn ào ngày nay, với sự chia trí và cô đơn, cuộc nói chuyện của hối nhân
với cha giải tội cũng có thể là một trong những cơ hội, nếu không muốn nói là cơ
hội duy nhất, để được thực sự lắng nghe trong chiều sâu. Sự kiện được lắng nghe
và đón nhận là một dấu chỉ về sự đón nhận và lòng từ nhân của Thiên Chúa đối với
con cái của Ngài. Sự xưng thú trọn vẹn các tội lỗi cũng dạy hối nhân về sự khiêm
tốn, nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình, và đồng thời ý thức về sự cần ơn
tha thứ của Thiên Chúa, xác tín rằng Ơn thánh của Chúa có thể biến cải cuộc
sống. Việc lắng nghe những lời nhắn nhủ và khuyên bảo của cha giải tội là điều
quan trọng giúp hối nhân phán đoán về hành vi của mình để tiến bước trên đường
thiêng liêng và được chữa lành trong nội tâm.”
C.12d. Giá trị của việc xưng tội cá nhân
Trong cuộc tiếp
kiến ngày 11/3/2010, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một
cuộc “đối thoại cứu độ” cho những ai tìm kiếm ơn tha thứ. Nhắc tới thánh
Gioan Maria Vianney, người đã thực thi sứ vụ hòa giải một cách anh hùng và hiệu
quả phong phú, Ngài nói rằng các linh mục có thể học “không chỉ một niềm tín
thác vô tận nơi bí tích sám hối, mà còn một phương pháp đối thoại cứu độ phải
được thực hiện trong khi ngồi tòa.”
Cuộc đối thoại giữa
hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với
từng tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây của hối
nhân:
·
Nhu cầu hòa
giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn
đã mất do tội đã phạm;
·
Nhu cầu tìm
kiếm sự tiến bộ thiêng liêng: “hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy
hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu.”
·
Đôi khi cần
một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi.
·
Trong nhiều
trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững
thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có một lối giải quyết, một lối đi mới
trong chính hoàn cảnh cụ thể đang phải sống.
Trong cuộc đối
thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế
nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng,
giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời. Có ba thứ tội tối kỵ
đối với linh mục kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải
tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.
C.12e. Không được
xưng tội và giải tội qua điện thoại
Có một số người gọi
điện thoại trình bày việc lương tâm rồi hỏi “con có thể xưng tội luôn được
không?” Và chắc chắn chúng ta đã làm đúng khi từ chối. Ở bên Mỹ, người ta
vừa giới thiệu một ứng dụng mới dành cho iPhone, iPad và iPod Touch:
Giải tội, một ứng dụng của Giáo Hội Công giáo Rôma.
Chương trình này được Đức cha Kevin Carl Rhoades,
ký imprimatur xác nhận tính hợp pháp về giáo luật cho phép ấn hành “dành cho
những ai năng chịu phép Bí tích và những ai muốn ăn năn trở lại.”
Cha Federico
Lombardi sj, phát ngôn viên Tòa Thánh nói rõ: “Bí tích Hòa giải đòi phải có
cuộc đối thoại cá nhân giữa hối nhân và cha giải tội, đồng thời việc tha tội
được thực hiện bởi cha giải tội đang hiện diện và nghe lời xưng tội...
Không một ứng dụng công nghệ thông tin nào thay thế được việc xưng tội và giải
tội như đã nêu.” Tuy không loại trừ những tiện ích của công nghệ thông tin
giúp cho đời sống thiêng liêng “Trong một thế giới đang có nhiều người
nhờ đến sự giúp đỡ của công nghệ thông tin trong việc đọc và suy nghĩ (như các
bản kinh giúp cầu nguyện), giúp chuẩn bị xưng tội, như ngày xưa đã nhờ các bản
xét mình, các câu hỏi viết trên giấy để xét mình trước khi xưng tội, dựa theo
danh sách các thứ tội,” nhưng chỉ được “coi iPhone như một cẩm nang mục
vụ được thực hiện bằng kỹ thuật số, nhằm đem lại một số lợi ích, mà không thay
thế được việc cử hành Bí tích.” Như vậy, mọi đồn thổi về việc Tòa Thánh chấp
thuận cho cử hành Bí tích Hòa giải qua các phương tiện thông tin hiện đại đã
hoàn toàn bị bác bỏ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
DINH DƯỠNG VỚI VIÊM XƯƠNG KHỚP
|
Trong những năm gần đây, nhiều nhà chuyên
môn đã nghĩ ra và đề nghị áp dụng dinh dưỡng trong việc phòng
chữa bệnh Viêm Xương Khớp. Lý do là, sự thành hình của bệnh chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố liên quan tới nếp sống như là chế độ
dinh dưỡng, sự vận động cơ thể, công việc làm cũng như những
thương tích xẩy ra cho xương khớp trong quá khứ.Tuy nhiên, chưa
có nghiên cứu nào xác định là một chế độ ăn uống hoặc một món
thực phẩm nào đó có thể trị được bệnh viêm khớp này.
Có một số ý kiến cho rằng nếu ta ăn vài
trăm gram cá mỗi ngày thì có thể giảm cứng khớp mỗi sáng khi
thức dậy.
Bác sĩ Joel M.Kremer của Đại Học Y Khoa Nữu
Ước cho hay, uống dầu cá viên trong hai tuần lễ có thể làm giảm
sưng và đau của viêm khớp. Ta nhớ là cá có loại chất béo Omega-3
fatty acid.
Có người cũng đã thử nghiệm và thấy cà
chua, broccoli cũng làm bớt đau viêm khớp.
Nhiều nghiên cứu cho hay nếu bổ sung các
chất sau đây có thể giảm thiểu rủi ro gây ra viêm xương khớp
cũng như khó khăn đi lại vì đau nhức.
Vitamin C
có thể trì hoãn sự phát triển của viêm xưong khớp, tăng cường
sức bền bỉ của đĩa sụn cũng như giảm thiểu tác dụng lão hóa của
các gốc tự do đối với xương.
Sinh tố C có nhiều trong chanh, cam, dâu,
trái kiwi, rau có mầu xanh xậm, cà chua, dứa…
Nam giới có thể dùng thêm 90 mg mỗi ngày,
nữ giới 75 mg. Với viêm xương khớp, nhiều nhà chuyên môn đề nghị
dùng khoảng 200 mg/ngày.
Vitamin
C có trong |
mg |
|
|
Red
bell pepper, 1 cup |
280 |
Guava,
1 medium |
165 |
Broccoli, 1 cup |
120 |
Orange, 1 medium |
120 |
Green
bell pepper, 1 cup |
120 |
Cauliflower (cooked), 1 cup |
100 |
Papaya, 1 medium |
95 |
Strawberries, 1 cup |
90 |
Beta-caroten
là một chất chống sự oxy hóa có khả năng trì hoãn sự phát triển
của viêm xương khớp, giảm đau.
Chất này có nhiều trong rau trái cây có màu
đỏ, vàng và cam như pumpkin, cantaloupe, ớt, carrot, rau
spinach, rau riếp, cải xoăn kale…
Nhu cầu cho người lớn mỗi ngày là 2200 IU,
nhưng các nhà chuyên môn cho hay có thể dùng tới 9000 IU/ngày để
có tác dụng tốt đối với các khớp bị viêm đau.
Nguồn cung
cấp Beta Caroten |
IU |
Sweet
potato (baked), 1 medium |
28,058 |
Carrots
nấu chín, 1 cup |
26,835 |
Spinach
nấu chín, 1 cup |
22,916 |
Kale chín,
1 cup |
19,116 |
Pumpkin
pie, 1 slice |
12,431 |
Carrot
sống, 1 medium |
8,666 |
Butternut
Squash (boiled), 1 cup |
8,014 |
Spinach
(raw), 1 cup |
2,813 |
Mango, 1
cup sliced |
1,262 |
Vitamin D
được mệnh danh là vitamin ánh nắng mặt trời, vì nếu mỗi ngày ta
phơi nắng khoảng 15 phút là có được một lượng đáng kể sinh tố
này. Tuy nhiên không phải là ai cũng phơi nắng được, cho nên nếu
mỗi ngày tiêu thụ các thực phẩm có sinh tố này thì xương cốt sẽ
vững chắc hơn, khớp sẽ bớt rủi ro thoái hóa viêm đau.
Vitamin D có nhiều trong trứng, dầu cá sữa
tăng cường sinh tố D, các loại hạt ngũ cốc. Một ngày cơ thể cần
khoảng 600-800 IU.
Vitamin D có trong
|
IU |
Cod liver
oil, 1 Tbsp |
1,360 |
Salmon, 3.5
oz |
360 |
Mackerel,
3.5 oz |
345 |
Tuna
(canned), 3 oz |
200 |
Sardines
(canned), 1.75 oz |
250 |
Milk,
D-fortified, 1 cup |
100 |
Egg (or egg
yolk), 1 medium |
41 |
Cereals,
D-fortified, 1 cup |
40 |
Omega-3 fatty
acids có tác dụng giảm viêm và có nhiều trong các loại cá như
salmon, halibut, tuna, sardine, các loại hạt pecans, óc chó
walnuts, đậu nành, dầu olive, dầu canola…
Omega-3
trong |
Grams |
Flaxseeds
(ground), 2 Tbsp |
3.5 |
Walnuts,
1/4 cup |
2.3 |
Atlantic
salmon, 3.5 oz |
2.0 |
Albacore
tuna, 3.5 oz |
1.5 |
Soybeans
(cooked), 1 cup |
1.0 |
Halibut,
3.5 oz |
0.5 |
Tofu
(raw), 4 oz |
0.4 |
Olive oil
(uncooked), 2 Tbsp |
0.2 |
Ngoài ra, trên thị trường, có vài sản phẩm
được giới thiệu là làm thuyên giảm triệu chứng của viêm khớp. Đó
là:
*Chất Glucosamine.
Glucosamine sulfate là chất được lấy ra từ
vỏ sò, vỏ cua và được bán dưới dạng thuốc viên. Theo nhà sản
xuất, mỗi ngày uống 1500mg chia ra làm ba lần. Thuốc chỉ gây ra
một chút khó chịu cho bao tử. Nhiều nghiên cứu cho hay, phải
uống cả tháng mới thấy có công hiệu.
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho hay,
Glucosamine có tính chất chống viêm và kích thích sản xuất sụn.
*Chất Chondroitin.
Đây là chất được lấy ra từ sụn cá mập và
bò và có dưới dạng viên hoặc con nhộng. Cũng như Glucosamine,
món thuốc này được giới thiệu có khả năng chống viêm và tạo sụn.
Một số nghiên cứu khoa học cho hay, chondroitin có tác dụng tốt
hơn thuốc vờ placebo và ít gây ra tác dụng phụ.
Mỗi ngày phải uống khoảng 1200 mg, chia ra
làm ba lần và phải uống khoảng bốn tuần lễ mới thấy công hiệu.
Hai chất vừa kể đã được Thú Y Sĩ dùng từ
nhiều năm để chữa viêm khớp của chó, còn bên Âu châu như là chất
bổ sung chữa trị Viêm Xương Khớp. Tại Hoa Kỳ hai chất được xếp
vào nhóm thực phẩm bổ sung.
Chưa có nghiên cứu khoa học để xác nhận vai
trò trị bệnh của chúng.
*SAMe. Đây là viết tắt của
S-Adenosylmethionine, là một hợp chất thiên nhiên trong mọi tế
bào còn sống và được sản xuất bằng cách nuôi tế bào các loại
men, nấm.
SAMe đã được bán theo toa bác sĩ ở Âu châu
từ năm 1975 để chữa viêm khớp và trầm cảm. Món thuốc này khá đắt
và phải dùng từ 400mg tới 1200mg mỗi ngày. Tác dụng phụ là khó
chịu tiêu hóa, như là tiêu chẩy.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm nhiều người thì
Gừng, khoáng Borom, chất DMSO Dimethyl Sulfoxide từ quả Gỗ Cơm
(pulp) cũng có công dụng ngăn ngừa viêm của xương khớp.
Nói chung, dinh dưỡng có thể giảm thiểu rủi
ro mắc bệnh viêm xương khớp cũng như trì hoãn sự tiến triển của
bệnh. Tuy nhiên, giảm cân nếu quá mập phì vẫn là điều cần áp
dụng, vì sức nặng của cơ thể là một trong những rủi ro chính gây
ra bệnh viêm xương khớp.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Mối phúc dành cho kitô hữu |
Tác Phẩm:
Đạo vào đời
Gs. Nguyễn Đăng
Trúc
Định Hướng Tùng Thư -2012
Chương II: Mối phúc dành cho kitô hữu
Phúc cho các con nếu người ta sỉ nhục các con,
nếu người ta bắt bớ các con mọi cách vì Ta.
Các con hãy ở trong sự vui mừng và hoan hỉ,
vì phần thưởng các con sẽ lớn trên trời.
(Mt 5,11-12)
Các con là muối đất...
(Mt 5,13)
Các con là ánh sáng thế gian.
(Mt 65,14)
Vì thế ánh sáng của các con phải sáng lên
trước mặt mọi người, để, khi thấy các việc làm tốt lành của các
con, họ tôn vinh Cha các con Đấng ở trên trời.
(Mt 5,16)
Tác giả Matthieu đã viết thành hai phần riêng về
các mối phúc: tám mối phúc đầu dành cho mọi người, ở ngôi thứ ba
số nhiều, và mối phúc thứ chín nầy nhằm chỉ riêng cho những kẻ
đã biết đến Ngài và đi theo Ngài.
Tại sao lại phải chia ra hai phần như thế ?
1 - Mặc khải về Đức
Kitô, Ngài là Nước Trời mà mọi người mong đợi
Matthieu là một tác giả Do-thái, rao giảng Tin Mừng trực tiếp
cho một cộng đoàn hầu hết là gốc Do-thái. Và tâm thức người
Do-thái đương thời, khi nói đến Đấng Thiên sai thì luôn nghĩ đến
một vị giải phóng ch trị cho dân tộc họ mà thôi. Đó là một trong
những yếu tố khách quan thúc đẩy Matthieu nói rõ hơn, nhấn mạnh
về Một Đức Kitô cứu độ toàn nhân loại.
Trong ánh sáng của Thánh giá và sự Phục sinh của Chúa Kitô,
Matthieu soi dọi lại lời hứa của Thiên Chúa sẽ cứu độ toàn nhân
loại được mặc khải trong Cựu ước và trong lịch sử dân Israel,
dân được chọn. Thêm vào đó, từ những sự kiện lạ lùng như ba nhà
đạo sĩ phương Đông đến thờ lạy Chúa Kitô khi Ngài sinh ra, đến
sứ điệp cuối cùng trao cho các môn đệ rao truyền Tin mừng khắp
các dân tộc, cũng như việc các thánh đã chết đi vào thành thánh
khi Chúa sống lại... Matthieu không những nêu lên ơn cứu độ cho
mọi người, mọi dân tộc, mà còn nhấn mạnh đến hiệu năng của ơn
cứu độ vượt không gian và thời gian, các khung cảnh, ranh giới
bên ngoài theo ước lệ xã hội.
Mặc khải đó thấy rất rõ ở trong chính mối phúc nầy. Chữ Nước
Trời, trong tám mối phúc đầu được xác định là Chúa Kitô, và
Thiên Chúa là Cha trên trời của mọi người ở mọi thời đại.
Đức Kitô đến để hoàn thành, để thực hiện lời Thiên Chúa hứa, lời
đó gieo trong lòng mỗi người từ cổ chí kim, và nói rõ thành dấu
chứng lịch sử trong dân Israel.
Thánh Phaolô viết rằng :
Tất cả tạo vật trông đợi khát khao sự mặc khải làm con Thiên
Chúa: nếu nó đã bị mê lầm chế ngự, không phải vì nó đã muốn sự
mê lầm, nhưng vì Đấng đã để nó ở trong sự mê lầm, thì nay với
niềm hy vọng nó cũng được giải thoát khỏi sự nô thuộc của sự hư
nát để đi vào trong sự tự do của vinh quang của các con Thiên
Chúa. (Rom 8,20-21)
Sau hết hởi anh em, tất cả những gì là thật, là cao cả, là
công chính, là thanh khiết, là đáng mến, là đáng kính, tất cả
những gì là tốt lành nơi nhân đức và đạo lý con người, anh em
phải lưu tâm. Những gì anh em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe
nơi ta và nhận thấy nơi ta, anh em phải thực thi...(Phil
4,8-9)
Theo danh từ thần học, ta thấy được rằng,
toàn nhân loại là chi thể Chúa
Kitô, là Giáo hội nhiệm mầu đã được thanh tẩy trong sự chết và
sự sống lại của Chúa Kitô. Nên mọi nỗ lực, thiện chí của bất cứ
ai đều được gọi là tốt trong Con Người Tốt là chính Ngài. Thánh
Thần là sự Sống của Chúa Kitô hành động nơi mọi người, dẫu họ
không biết đến tên Ngài. Vì thế, những gì tốt đẹp nơi họ, môn đệ
của Chúa Kitô, Kitô-hữu, phải chú tâm học hỏi. Đây là nền tảng
thần học về đối thoại tôn giáo và nỗ lực hội nhập văn hóa.
Mầu nhiệm Đức Kitô làm người lịch sử trong nhân loại đi đôi với
mầu nhiệm của những kẻ được Thiên Chúa chọn để biết và nhận mặc
khải lạ lùng nầy. Không ai tự mình có thể hiểu, và cũng không ai
tự hào về công lao riêng gì của mình, trong việc mình được ơn
đặc biệt làm kitô hữu cả. Nên cũng vì thế trong bài giảng được
gọi là “bài giảng về Giáo hội học”, Matthieu nhắc lại lời
Chúa Kitô về chỗ đứng của Kitô-hữu giữa lòng nhân loại :
Bấy giờ các môn đệ đến gần Chúa Giêsu để hỏi Ngài: Ai là
người lớn nhất trong Nước Trời? Ngài gọi một trẻ nhỏ, đem nó đến
giữa họ và nói: Ta nói thật với các con điều nầy, nếu các con
không trở về tình trạng của ấu nhi, các con sẽ không vào được
Nước Trời. Ai trở nên bé nhỏ như trẻ nhỏ ấy, đó là người lớn
nhất trong Nước Trời. (Mt 18, 1-4)
Trở về tình trạng ấu thơ, (Lão tử gọi là “hoàn đồng”) là khiêm
tốn tiếp nhận chân lý, không tranh dành cao thấp, không định giá
mình cao trọng hơn kẻ khác, và đặt niềm tin vào Chúa quan phòng.
Là nơi mặc khải Chúa Cứu độ toàn nhân loại, Kitô-hữu tích cực
nhìn nhận có sự tốt lành trong nỗ lực của mọi người, mọi giới,
vì tất cả sự tốt lành đó không nằm ngoài ơn Cứu độ của Chúa
Kitô. Mặc khải đó không ban cho họ, trên bình diện cá nhân hay
cộng đoàn, một đặc quyền nào để ăn trên ngồi trước, cao hơn
những kẻ khác trên bình diện xã hội loài người.
2 - Phúc của Kitô-hữu và sứ mệnh truyền
bá Tin Mừng
Ơn đặc biệt của Kitô-hữu khi họ nhận biết Nước Trời là Chúa
Kitô, nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình đi kèm những ân phúc
sau đây:
-
Chịu bắt bớ vì công lý nơi Chúa Kitô.
-
Ở trong sự vui mừng và hoan hỉ.
-
Phần thưởng sẽ lớn trong Nước Trời.
-
Làm chứng chân lý Chúa Kitô bằng cả cuộc sống của mình.
Chịu bắt bớ vì Chúa kitô
Những điều ân phúc đó có khác gì với tám ân phúc cho mọi người?
Trước hết, ta xét đến tương quan của chúng qua hình thức hành
văn của đoạn nầy:
- Tám mối phúc đầu là những phương cách biểu lộ của những kẻ “thuộc
về Nước Trời”. Mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám mở ra
với “Nước Trời” và kết thúc với “Nước Trời”.
- Mối phúc thứ chín hầu như lặp lại mối phúc thứ tám: Có thể
nói rằng, tác giả thay vì lặp lại từng mối phúc, đã dùng cách
hành văn tóm gọn nầy.
- Và ngay ở mối phúc thứ chín, phần cuối nêu lên ý tưởng nầy: “người
ta cũng đã ngược đãi các tiên tri, những kẻ đi trước các ngươi.”
(Mt 5,12)
Như thế có sự song song: Nước Trời là Chúa Kitô, thì các mối
phúc của con người nói chung cũng là các mối phúc của môn đệ
Chúa Kitô. Đến đây ta hiểu được rõ ràng hơn nữa, nội dung những
câu dẫn nhập của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”, bản văn
nền tảng của Công đồng Vaticanô II định nghĩa vai trò và tương
quan giữa Kitô-hữu và cộng đồng con người.
Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày
nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và
không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng
trong lòng họ. (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, Lời mở đầu 1)
Nhưng Nước Trời siêu việt, ẩn kín, cứu cánh mọi người trông chờ
và hy vọng, thì nay được mặc khải cho môn đệ Chúa Kitô biết
rằng: “Nước Trời là Ta, Đức Giêsu-Kitô đã làm người, chết
và được sống lại trong lịch sử nhân loại nầy”. “Ta”,
chữ Thiên Chúa siêu việt đã mặc khải cho Maisen và nhân loại
trong Giao ước cũ: “Ta là Đấng Ta là Ta” (Xuất hành
3,14), nay mang thân xác con người phô bày sự hiện diện của
mình, với mình và trước kẻ khác.
Nhưng tại sao nơi tâm thức mỗi
người, nơi các nền văn hóa, chữ Ta lại trở thành vấn đề
gai góc (xem Confessions của thánh Augustinô), và cũng là cớ cho
mê lầm (nơi tư tưởng nhà Phật). Descartes, Kant, những triết gia
nhân bản ngày nay, cũng đã am tường rằng tất cả nỗ lực văn hóa
con người cũng khởi đầu từ thắc mắc về chính cái “tôi”.
Giải đáp trả lời cho vấn nạn nầy rất là đa biệt, đẩy đưa lịch sử
nhân loại phiêu lưu qua nhiều cảnh vực thế giới khác nhau:
tôi trong suy tư, tôi trong lao động, tôi
trong hưởng thụ vật chất, tôi trong quyền lực... Bên trên
những cuộc phiêu lưu đó, vấn đề “cái tôi” như một thắc
mắc nguyên sơ vẫn còn đó, gắn bó với nghiệp con người nơi trần
thế.
Chữ “Ta”, khi Chúa Kitô dùng để nói với các môn đệ Ngài,
không đơn giản chút nào. Tông đồ Gioan mô tả mầu nhiệm của chữ
Ta đó qua cuộc đối thoại của Chúa Kitô và các tông đồ, trước khi
Ngài chịu tử nạn.
Tôma nói với Ngài: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi
đâu. Làm sao chúng con biết đạo (= đường) của Thầy? Chúa nói với
ông: Ta là Đạo (=Đường), là sự Thật và là sự Sống. Không ai đến
với Cha mà không qua Ta. Nếu các con biết Ta, các con cũng sẽ
biết Cha Ta. Ngay từ bây giờ các con biết Ngài và đã thấy Ngài.
(Gioan 14, 5-7)
Nhưng, trước mặc khải ấy, dường như không ai trong các môn đệ
hiểu thật sự Chúa Kitô muốn nói gì. Trước đó Chúa Kitô đã không
nói về Ngài, đã không làm phép lạ, đã không gọi họ đi theo, và
họ đã không theo Ngài hay sao ? Thế mà, ngay sau lời đó,
Philiphê lại hỏi ngay:
Philiphê nói với Ngài: Lạy Thầy, xin Thầy hãy chỉ Cha cho
chúng con, và như thế là đủ cho chúng con rồi. Chúa Giêsu nói
với ông: Nầy, Ta ở với các con lâu như thế, mà con không biết Ta
sao, hởi Philiphê? Ai đã thấy Ta là đã thấy Cha. Làm sao con có
thể nói: Xin Thầy chỉ Cha cho chúng con? Con không tin là Thầy ở
trong Cha và Cha ở trong Thầy sao? Các Lời Ta nói cho các con,
Ta không tự Ta mà nói ra: Cha là Đấng ở trong Ta hoàn tất mọi
việc. Các con hãy tin Ta về những lời ấy! (Gioan 14,8-11)
Cho đến ngày Chúa Kitô lại đến trong ngày tận thế, sẽ không ai
hiểu được đầy đủ chữ “Ta” mà Chúa Kitô dùng. Ngài vẫn luôn nói
với các môn đệ Ngài, đứng đối diện với Ngài,“Các con hãy tin!”
.
“Ta” là đầu mối để có lời nói, để xưng hô và thiết lập
tương quan với anh, chị... . Tương quan đó làm nên cộng đồng con
người, vượt lên trên các sinh vật, cỏ cây trong vũ trụ. Các chữ
ta, các anh, các chị... con người vẫn dùng, nhưng tại sao con
người không những cảm thấy có một cái gì bất ổn, đôi lúc còn vì
chữ nầy mà đâm giết nhau (như ta thường nói “bỉ ngã tương tranh”
). Lão Tử, Đức Phật và ngay cả Khổng Tử cũng cảm nhận một cái gì
mê lầm, giả tạo nơi lời nói con người. Khổng Tử phải chăng đã
dạy con ruột mình phải học Kinh Thi để có được lời nói, Kinh Thi
vốn là hứng khởi đến từ bờ bên kia của thế sự. Nhưng bờ ẩn kín
bên kia là nơi nào đây? Phật ngại ngùng khi nhắc đến “bỉ-ngã”,
tôi và anh, vì tôi đã là giả tạo thì làm sao nhận ra có kẻ khác!
Phải chăng vì lời nói giả tạo nên đành câm nín để đạt chân lý?
Văn hóa Hy lạp qua kịch phẩm Oedipe làm vua của Thi hào
Sophocle cho hay rằng, Oedipe “sáng mắt”, “nói”
nhưng thực ra không thấy sự thật, không biết được chữ “Ta”
ông nói về mình là ai. Khi biết mình mê lầm, ông tự đâm mù hai
mắt. Nhưng mù mắt hay câm nín thì ông không vì thế mà bước đi
trên sự thật, tìm lại được lời nguyên sơ chân thật của mình.
Trang Tử, chân nhận có Đạo, nhưng đồng thời chân nhận tình trạng
bất lực của lời nói, tương quan giữa người với người trong Đạo:
Đạo không phải là cuộc đời, nhưng cuộc đời không phải là sự
chối bỏ tận gốc về Đạo... Cái nhìn tối thượng của Đạo và mọi
vật, lời nói cũng như thinh lặng không chứa nổi. Hãy vượt lên
lời nói cũng như sự thinh lặng nó ở bên trên mọi cách diễn tả
của con người.
Trong áng sáng đức tin, kitô hữu nhận ra Chân lý, Đạo, Công lý
đó là Đức Kitô, Lời Thiên Chúa làm người. Từ Lời nầy, “Ta”
chân thật xuất hiện trong thế giới con người. Con người ở
ngôi thứ ba số nhiều như bao đồ vật khác trong tầm tay và sự
hiểu biết, nay được gọi tên tôi, anh, chị …trọn nghĩa
trong Lời nầy. “Bỉ-Ngã”, Tôi-Anh giả tạo của quyền
lực muốn thống trị của “ngã chấp”, nay được trả lại sự
công chính nguyên sơ của nó trong sự cứu độ của Chúa Kitô.
Phúc cho Kitô-hữu, vì trong đức tin họ biết được “Ta”
chân thật đã xuất hiện trong nhân thế. Tuy nhiên “Ta” đó
vẫn vượt lên mọi ngôn ngữ của con người, cũng như sự thinh lặng
của nó. Cái biết của Kitô-hữu về “Ta” chân thật đó luôn
là cái biết trong đức tin: “Các con hãy tin Ta về những lời
nầy.”
Cuộc vật lộn với Thiên Chúa để biết tên Ngài nơi Giacop, nay là
cuộc vật lộn với Chúa Kitô để thấy Thiên Chúa trong Lời Ngài là
Đức Kitô. Kitô-hữu bị “bắt bớ” vì “Ta” chân thật
nầy, vì “Ta” đó là hiện thân tình yêu thương của Thiên
Chúa đối với con người. Tình yêu đó hiến thân mình cho toàn nhân
loại được Thiên Chúa yêu. Tình yêu đó là “Ta cứu độ”, tôn
trọng kẻ khác trong nhân phẩm chân thực, không tơ vương muốn
biến kẻ khác thành dụng cụ của ý muốn và quyền lực của mình. Con
người chân thật Kitô không làm một việc gì theo ý mình, nhưng
hoàn toàn vâng phục ý Cha Đấng ở trên trời.
Cảnh vực yêu thương, công lý mới nầy, Đức Kitô đã chinh phục
bằng Thánh giá của Ngài. Kitô-hữu nay chịu bắt bớ vì công lý,
khi tuyên xưng niềm tin về yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức
Kitô.
Vui mừng và hoan hỉ
Nơi đây, Matthieu không nhắc lại lời chúc phúc thứ ba: “Phúc
cho những kẻ buồn khổ vì họ sẽ được ủi an.”, nhưng nói rõ
thế nầy: Các con hãy ở trong vui mừng và hoan hỉ. Đức Kitô đã
sống lại, niềm vui thực sự đã xuất hiện trên trái đất, giữa lịch
sử nhân loại. Kitô-hữu làm chứng về Công lý-Tình yêu trong sự
thông dự vào sức mạnh của niềm vui nầy.
Nhưng Matthieu còn ghi thêm “vì phần thưởng các con sẽ lớn ở
trên trời.” Niềm vui sống lại của Chúa đã xuất hiện trong
trần thế, nhưng không phải là niềm vui của trần thế. Làm chứng
về sự toàn thắng của Chúa Kitô, không phải là thực hiện sự thống
trị trên xã hội theo sự hiểu biết và hứng khởi của quyền lực con
người. Khổng tử trong sách Luận ngữ nói: “trên không oán
trời, dưới không hận người” để nói lên thái độ kẻ thực thi
Đạo Nhân. Ở đây Chúa Kitô nói một cách tích cực về niềm vui của
Đạo Nhân đã thực sự hoàn thành nơi Ngài.
Ngay trong đau khổ, chịu tra tấn, sỉ nhục, bỏ rơi bởi bạn bè,
Đức Kitô nơi Phúc âm Matthieu không nói lên một lời oán trách.
Và trước đó, Ngài đã từng dạy kẻ theo Ngài phải tha thứ bảy mươi
bảy lần bảy về những xúc phạm của kẻ khác đã ngược đãi mình (xem
Mt 18,22). Luca, nhắc lại lời Chúa Kitô khi chịu đóng đinh trên
núi sọ: “Lạy Cha, xin tha cho họ; họ không biết việc họ làm.”
(Luca 23,34)
Ơn nhận biết Chúa Kitô là công lý của Thiên Chúa, chính là ơn
nhưng không Kitô-hữu nhận được. Họ sẽ làm chứng niềm vui đó một
cách nhưng không. Chúa Kitô không oán trách, trả thù, phê phán
kẻ bắt bớ, tra tấn, giết hại Ngài. Phản ứng duy nhất của Ngài là
xin Chúa Cha tha cho việc làm đó, vì kẻ làm không biết việc họ
làm. Kitô-hữu làm chứng về Ngài cũng không thể có thái độ nào
khác hơn.
Trong sự chết của Chúa Kitô, xem ra là sự thất bại, nỗi buồn
cùng cực theo công lý con người, nhưng nơi sự thất bại bên ngoài
đó, Thiên Chúa Cha đã vinh thăng Ngài trong Phục sinh. Kitô-hữu
cũng chịu những bước thất bại bên ngoài như Ngài, chứng kiến
những ngày tháng lịch sử của mình, của Giáo hội rất tang thương,
nhưng chính đó là dấu chứng Thiên Chúa Cha đang phục sinh lại
trần thế trong sự cứu độ của Chúa Kitô.
Vui mừng và hoan hỉ vì niềm vui sống lại của Chúa Kitô còn là
niềm hy vọng họ sẽ được sống lại như Ngài, để cùng với cộng đồng
nhân loại đến gặp Ngài, nơi Ngài đã hẹn, bên cạnh Thiên Chúa
Cha.
Sống đạo : muối đất và ánh sáng thế gian
Muối, là chất làm cho sự sống bình thường của sinh vật ngưng
lại. Nó nói lên hình ảnh tiêu cực về tình trạng triệt tiêu sự
đổi thay, chóng qua, đồng thời cũng gợi lên sự trường sinh. Muối
đất hay ánh sáng cũng là một nội dung với hai cách nói. Cuộc
sống Kitô-hữu trong trần thế để làm chứng về Đức Kitô chủ yếu là
làm cho sự chóng qua của lịch sử thấm nhập sự sống trường sinh
từ sự sống lại của Chúa Kitô. Ánh sáng họ nhận được cũng không
phải thứ ánh sáng mê lầm do trí năng tự mãn của con người, nhưng
là Chân lý đến từ Thiên Chúa nơi Chúa Kitô.
Làm chứng, theo Matthieu, không phải chủ yếu nơi việc thuyết
giảng suông, nhưng trước hết do chính cuộc sống của mình, nơi
việc làm ngay lành của mình. Vì Lời Thiên Chúa nói với nhân loại
là Ngôi Hai làm người, hiến thân mình cứu độ.
Không ai làm chứng bằng sự cưỡng bức kẻ khác nhận chân sự thật
bao giờ. Làm chứng là để sự thật hiện diện trong lời nói
của mình, để người nghe tự do trước Chân lý.
Cộng đồng Kitô-hữu hay Giáo hội hữu hình cũng làm chứng Tin
Mừng như thế. Cộng đồng đó khác với cộng đồng xã hội trần thế,
vì không một yếu tố nào của trần thế ràng buộc, chế tài họ, buộc
họ phải gia nhập vào thân thể của Chúa Kitô, ngoài sự tự do của
mỗi người.
Làm chứng cho chân lý tình yêu là thực thi tình yêu của Chúa
Kitô trong hành động của chính mình, thể hiện ra trong xã hội
của mình.
Và như thế, ánh sáng của các con phải sáng lên trước mắt mọi
người để, khi thấy việc làm tốt lành của con, họ thấy được vinh
quang của Cha các con Đấng ở trên trời. (Mt 5,16)
Nói cách khác, làm chứng Công lý-Tình yêu không thể không chân
nhận tự do của kẻ khác. Làm chứng cho Đấng đem lại tự do
toàn vẹn cho con người khởi đầu từ việc tôn trọng
tự do của kẻ khác cạnh mình. Vì Nước Trời của Chúa Kitô
không có ai là tôi tớ của ai theo nghĩa trần thế, nhưng “Các
con là bạn hữu của Ta” (Gioan 14,14)
Tóm lại phúc của Kitô-hữu là bạn Chúa Kitô, chia sẻ sự sống của
Ngài, cộng tác với Ngài hoàn thành Nước của Thiên Chúa.Trong
cuộc sống làm chứng nhân nầy, hơi thở Thiên Chúa, Thánh Thần là
sự sống của Chúa Kitô sẽ chiến thắng yếu hèn của con người họ,
để qua chính cuộc sống của họ, mọi người nhận ra phúc làm người
trọn vẹn, tức là làm con Thiên Chúa, chia sẽ sự sống thần linh
của Con Ngài. Sự sống đó là “yêu
Thiên Chúa và yêu con người trong Đức Kitô.”
Trích trong cuốn Bài Giảng Trên Núi của tác giả
Tchouang Tseu. L’oeuvre complète XXV, Gallimard
Paris, 1980; tr. 293, 294.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|