CHƯƠNG IV:
CỰU ƯỚC |
KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965
HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA
(tiếp theo)
(Bản dịch của Ủy Ban
Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN)
CHƯƠNG IV:
CỰU ƯỚC
14. Lịch sử cứu độ trong các sách Cựu Ước
Thiên Chúa chí ái, vì ân cần dự định và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại,
nên do một kế hoạch đặc biệt, đã tuyển chọn cho mình một dân tộc để trao gửi các
lời
hứa. Thật vậy, sau khi đã ký kết giao ước với Abraham (x. St 15,18) và với dân
Israel
qua trung gian Môsê (x. Xh 24,8), Ngài đã dùng lời nói và hành động mà mạc khải
chính
mình là Thiên Chúa độc nhất, chân thật và hằng sống cho dân Ngài đã thủ đắc
riêng,
nhờ đó Israel nghiệm thấy đâu là những đường lối Thiên Chúa đối xử với loài
người, và
nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các ngôn sứ, họ ngày càng thấu hiểu các đường
lối ấy cách sâu xa rõ ràng hơn, và đem phổ biến rộng rãi hơn nơi các dân tộc (x.
Tv
21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gr 3,17). Nhiệm cuộc cứu độ mà các thánh sử đã tiên
báo,
thuật lại và giải thích, còn tồn tại trong các sách Cựu Ước với tính cách là lời
thật sự
của Thiên Chúa. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa linh hứng này vẫn giữ một
giá trị
trường cửu: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Thánh Kinh, đều được chép để dạy
dỗ
chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ
đó
chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15,4). 34*
15. Tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các Kitô hữu
Nhiệm cuộc Cựu Ước được bố trí với mục đích chính yếu là để chuẩn bị và loan
báo theo cách ngôn sứ (x. Lc 24,44; Ga 5,39; 1 Pr 1,10) và để chỉ ra bằng những
hình
bóng khác nhau (1 Cr 10,11) ngày quang lâm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài
và của Vương Quốc của Đấng Mêsia. Tùy theo hoàn cảnh nhân loại trước thời Chúa
Kitô thiết lập công cuộc cứu độ, các sách Cựu Ước bày tỏ cho mọi người biết
Thiên
Chúa và con người ta, cùng những cách thế mà Thiên Chúa công bình và nhân từ đối
xử với loài người. Tuy có nhiều bất toàn và tạm bợ, các sách ấy chứng tỏ khoa sư
phạm đích thật của Thiên Chúa 1. Do đó, các Kitô hữu phải thành kính đón nhận các
sách này: chúng diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời
giáo
huấn cao siêu về Ngài, một khoa khôn ngoan hữu ích về đời sống con người, và
những
kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu; sau cùng trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ
chúng ta. 35*
16. Tính duy nhất giữa Cựu và Tân Ước
Vậy Thiên Chúa, Đấng linh hứng và tác giả các sách Cựu và Tân Ước, đã khôn
ngoan xếp đặt cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ hiện
trong Tân Ước 2. Thật vậy, tuy Chúa Kitô đã thiết lập Giao Ước mới trong máu Ngài
(x.
Lc 22,20; 1 Cr 11,25), nhưng các sách Cựu Ước, đã được thâu dụng trọn vẹn trong
lời
rao giảng Phúc Âm 3, thì đạt được và giãi bày đầy đủ ý nghĩa của mình trong Tân
Ước
(x. Mt 5,17; Lc 24,27; Rm 16,25-26; 2 Cr 3,14-16), và ngược lại, làm sáng tỏ và
giải
nghĩa Tân Ước. 36*
---------------
chú thích
35*– Số này bàn về việc Kitô hữu đọc Cựu Ước. Ba ý tưởng: tương quan giữa Cựu và
Tân Ước, bản tính các sách Cựu Ước, giá trị của Cựu Ước đối với các Kitô hữu.
Chúa
Kitô là ý nghĩa của Cựu Ước: của cả các biến cố cũng như các sách. Tất cả những
gì
xảy ra trước Chúa Kitô đều có mục đích chuẩn bị. Việc tuyển chọn dân Do-thái,
lịch sử,
văn hoá của dân này v.v… đều chuẩn bị chính con người, ngôn ngữ và tôn giáo của
Chúa Kitô v.v… Bản văn nói đến những “khuôn mẫu”: không nên hiểu theo nghĩa kỹ
thuật, nhưng theo ý là những biến cố quá khứ trở thành những “mẫu”, những “hình”
của
một biến cố tương lai nhờ đó những biến cố kia được trọn nghĩa. Việc liệt kê giá
trị của
Cựu Ước hơi lộn xộn. Bản văn nhắc đến tính cách tạm thời của Cựu Ước để đề phòng
chống lại nền luân lý tiền Kitô giáo của dân Do -thái. Người ta nói đến “kho
tàng kinh
nguyện” để bênh vực các thánh vịnh, chống lại những người muốn loại bỏ thánh
vịnh ra
khỏi phụng vụ.
34*– Số này bàn về lịch sử cứu độ trong Cựu Ước, xét như là cuốn sách và kế
hoạch
cứu dộ. Thiên Chúa đã phán qua các biến cố trong lịch sử dân Do-thái và qua các
Ngôn
sứ (nghĩa rộng): đã có Lời Chúa trước khi có sách, nhưng bây giờ Lời Chúa được
tồn
trữ trong sách. Nên lưu ý tới ý hướng của việc tuyển chọn dân Do-thái: phổ quát
tính
của ơn cứu độ. Cựu Ước gồm nhiều giai đoạn: giai đoạn các Tổ Phụ đánh dấu bằng
lời
hứa, giai đoạn Môsê thiết lập dân Chúa trong Giao Ước, giai đoạn Ngôn sứ trong
đó
Mạc khải được khai triển.
36*– Sự duy nhất của Cựu Ước và Tân Ước. Đoạn này bàn cách lẫn lộn về các sách
vừa Tân Ước vừa Cựu Ước. Tân Ước đã thu gồm toàn thể Cựu Ước, ngoại trừ tính
cách
bất toàn và tạm thời. Như thế nghĩa là các sách Cựu Ước được sát nhập vào lời
rao
giảng Phúc Âm như thành phần của một Mạc khải duy nhất. Do đó, chúng hiện ở
trong
một ngữ cảnh mới, chúng đã được biến đổi vì đã đạt được ý nghĩa tối hậu. Nên lưu
ý
rằng không những Tân Ước soi sáng Cựu Ước, mà Cựu Ước còn giúp giải nghĩa Tân
Ước, chẳng hạn phải hiểu II Isaia dưới ánh sáng của thánh Phaolô và ngược lại.
(còn tiếp) |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI TỪ
NHIỆM: TÂM TÌNH CỦA DÂN CHÚA TẠI VIỆT NAM
|
Ngày 11-02-2013 vừa qua, trong cuộc gặp gỡ với một số hồng y,
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố một quyết định gây chấn
động trên toàn thế giới. Ngài nói: “Sau khi liên lỉ xét mình
trước nhan Thiên Chúa, tôi chắc chắn rằng sức khỏe của tôi, do
tuổi cao, không còn phù hợp với việc thi hành sứ vụ thánh Phêrô…
sứ vụ đòi hỏi sức khỏe cả tinh thần lẫn thể xác, và trong ít
tháng qua, tôi thấy sức khỏe sa sút đến mức không thể chu toàn
sứ vụ được trao phó cho tôi cách cân xứng. Vì lý do đó, với ý
thức rất rõ về tính nghiêm trọng của quyếtđịnh này, cùng với tất
cả tự do, tôi từ nhiệm sứ vụ Giám mục Rôma, Người kế vịthánh
Phêrô, sứ vụ mà các hồng y đã trao cho tôi từ ngày 19 tháng 4
năm 2005. Do đó, kể từ 20g00 ngày 28 tháng 2 năm 2013, Tòa Rôma,
Tòa thánh Phêrô, sẽ trống, và Mật tuyển viện sẽ được triệu tập
do các vị có thẩm quyền.”
Ngỡ ngàng, tiếc nuối, cùng với khâm phục và ca ngợi sự can đảm,
khiêm tốn của Đức Thánh Cha. Có thể tóm kết như thế về phản ứng
của các nhà lãnh đạo xã hội cũng nhưtôn giáo trên toàn thế giới
trước quyết định này.
Tại Mật tuyển viện năm 2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger đã nói
với các hồng y hiện diện rằng:“Chúa gọi chúng ta là bạn hữu,
Người làm cho chúng ta nên bạn hữu của Người, và trao cho ta
tình bạn của Người. Dù chúng ta yếu kém về tâm trí cũng như
hànhđộng, Chúa đã trao cho chúng ta chân lý của Người – mầu
nhiệm Thiên Chúa là Cha, Con, và Thánh Thần, mầu nhiệm Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi hiến ban Con Một mình”. Rồi
hồng y Ratzinger đặt câu hỏi: “Chúng ta phải đáp lại nhưthế nào?”
Sau đó, khi các hồng y bầu ngài làm giáo hoàng và hồng y niên
trưởng hỏi ngài có chấp nhận hay không, hồng y Ratzinger đã đáp
lại lời mời gọi của Chúa bằng tiếng “Xin vâng” của Đức Trinh Nữ
Maria.
Cách đặt câu hỏi của hồng y Ratzinger cho thấy ngài tha thiết
với Đức Kitô như thế nào, chỉmong mọi người nhận biết và yêu mến
Đức Kitô, và ngài đã nỗ lực biến ước mongđó thành hiện thực.
Lãnh nhận sứ vụ thánh Phêrô khi đã bước vào tuổi 78, Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI vẫn đáp lại tiếng gọi của Chúa bằng tất cả
nhiệt tình và sức lực, thể hiện vai trò người đại diện của Đức
Kitô trên trần gian. Những chuyến viếng thăm mục vụ tại nhiều
quốc gia trên nhiều châu lục. Những cuộc gặp gỡ quan trọng với
các nhà lãnh đạo xã hội cũng như tôn giáo trên thế giới. Những
buổi triều yết của các thành phần Dân Chúa đến từ khắp mọi miền
trên thếgiới. Những quyết định quan trọng liên quan đến đời sống
của Dân Chúa trên nhiều miền đất của thế giới. Ai cũng biết công
việc của vị giáo hoàng nặng nề đến thế nào. Dù tuổi cao sức yếu,
Đức Bênêđictô XVI vẫn cố gắng thi hành trọn vẹn sứ vụ của mình.
Là vị mục tửnhiệt thành và tận tụy, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
còn làm nổi bật vai trò giáo huấn của Đấng kế vị thánh Phêrô.
Không chỉ người Công giáo nhưng cả người ngoài Công giáo cũng
nhìn nhận ngài là nhà tư tưởng lỗi lạc của thời đại, với tầm
nhìn sâu rộng về nhiều lãnh vực, những lập luận sắc bén và được
trình bày cách rõ ràng, đầy sức thuyết phục. Ít có vị giáo hoàng
nào, dù bận rộn đến thế,vẫn dành thời giờ viết những tác phẩm đồ
sộ và có giá trị nghiên cứu cao như bộsách
Đức Giêsu Nazareth
của Đức Bênêđictô XVI. Ngoài ra, những thông điệp và bài giảng
của ngài luôn thu hút người đọc và người nghe vì sự phong phú
của nội dung, chiều sâu của suy tư đức tin đồng hành với chiều
rộng của đời sống.
Với cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam, trong những năm qua, Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với Chính
phủ Việt Nam, đem đến kết quả là sự hiện diện của vị đại diện
Đức Thánh Cha tại Việt Nam, tuy vẫn còn giới hạn ở mức độ không
thường trú. Qua vị đại diện, ngài bày tỏ tình yêu chăm sóc của
vị mục tử đối với đoàn chiên ở xa ngài về không gian nhưng luôn
gần gũi trong tâm tưởng. Cũng chính Đức Bênêđictô XVI vạch ra
cho cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam một hướng sống đức tin, để
trở thành người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, đồng thời là
người công dân tốt, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và
huynh đệ, xứng với phẩm giá con người được tạo dựng theo hình
ảnh Thiên Chúa.
Năm 2005, khi hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm giáo hoàng,
nhiều người đã vẽ ra chân dung của một giáo hoàng sắt thép. Năm
2013, khi ngài tuyên bố từ nhiệm, cả thế giới nhìn nhận ngài là
vị mục tử hiền lành và khiêm nhường theo gương Thầy chí thánh.
Chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội vị mục tử như lòng Chúa
ước mong và Dân Chúa trông chờ. Chúng ta cảm tạ Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI vì công trình lớn lao ngài làm cho Giáo hội và
gương sống thánh thiện ngài nêu cao.
Đồng thời, chúng ta cầu nguyện cho Giáo hội, cách riêng trong
những ngày sắp tới. Sau ngày 28 tháng 2, Đức Bênêđictô XVI sẽ
lui về Castel Gandolfo để nghỉ ngơi và cầu nguyện ít ngày, rồi
ngài sẽ về lại Vatican, ở trong một tu viện nhỏ.Đức hồng y
Giovanni Battista Re, niên trưởng hồng y đoàn, sẽ triệu tập Mật
tuyển viện để bầu chọn vị giáo hoàng kế tiếp. Xin Chúa ban cho
Hội Thánh vị mục tử như lòng Chúa ước mong, theo gương các vị
tiền nhiệm đáng kính trong những thập niên qua, để Hội Thánh
tiếp tục công cuộc Tân Phúc âm hóa và thông truyềnđức tin Kitô
giáo trong thời đại đầy biến động ngày nay.
13-02-2013
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Văn phòng Thư ký HĐGMVN
Nguồn: WHĐ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH CƯỚP GIỰT
|
CN 1 Mùa Chay (Lc 4:1-13)
Ăn cướp thì có
nhiều dạng, nhưng càng tinh vi thì càng nguy hiểm, nguy hiểm
nhất là kiểu ăn cướp trong đó người bị cướp không biết mình đang
bị cướp.
Tin Mừng hôm nay kể
cho ta về dạng ăn cướp như vậy của Satan. Satan thử không phải
một lần mà đến ba lần. Kiểu ăn cướp xảo quyệt này có một cái tên
nghe chẳng có gì giật gân cả: tách một lời nói hay sự việc ra
khỏi ngữ cảnh của nó.
- Vụ cướp thử thứ
nhất: Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì
truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!" Tất nhiên Giêsu là Con Thiên
Chúa. Đây là sự thật hiển nhiên. Giêsu có toàn quyền và khả năng
làm điều ấy không có gì khó khăn. Satan cũng biết rõ điều ấy,
nhưng hắn đang dùng một kĩ thuật để lợi dụng sự thật này.
- Vụ cướp thử thứ
hai: Quỷ lại nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị
cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã
được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy
tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông". Một lần nữa, Satan đang cố đưa
Giêsu ra khỏi ngữ cảnh. Ngữ cảnh nào? Ngữ cảnh sau đây: Tất cả
mọi quyền năng và vinh quang thuộc về Thiên Chúa và chỉ có Thiên
Chúa mới xứng đáng được thờ lạy.
- Vụ cướp thử thứ ba: nói với Người:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!
Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho
bạn, để luôn luôn gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ
tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá". Satan đang cám
dỗ Đức Giêsu rời khỏi ngữ cảnh nhân tính của Người và thử thách
Thiên Chúa thay vì sống niềm tin.
Ai cũng biết ba cơn
cám dỗ này của Satan nhắm thẳng vào các nhu cầu phổ biến nhất
của con người. Ta có thể mổ xẻ nhiều điều về nội dung của những
cám dỗ này. Nhưng ở đây, ta chỉ ưu tiên tập trung vào ‘kĩ thuật
cám dỗ’. Satan nổi tiếng là một kẻ chuyên “ném đá giấu tay” nên
nó thường xuyên ẩn núp đàng sau cuộc sống của con người và áp
dụng các kĩ thuật cám dỗ tinh vi xảo quyệt nhất để cướp giựt đi
của họ sự bình an hòa hợp. Ta cùng lấy vài ví dụ trong đời
thường như sau:
Có những trường hợp
hiểu sai, sống sai ý nghĩa của Lời Kinh Thánh vì người ta tách
Lời ấy ra khỏi ngữ cảnh lịch sử, văn hóa, thần học cụ thể của
bản văn.
Lý do của những lục
đục, chán ngán, cãi vã, ích kỉ, bội tín,… xảy ra ở nhiều cặp vợ
chồng nằm ở chỗ họ bị cám dỗ quên mất rằng cuộc sống hôn nhân
hiện tại với những thách đố là ngữ cảnh cụ thể rất tốt để thực
hiện lời thề hứa họ đã trao hôm nào. Nhiều vụ ghen tuông vô lý
cũng bắt nguồn từ việc kết luận vội vàng cẩu thả về người bạn
đời mà không bình tĩnh tìm hiểu cho kĩ càng.
Nhiều người ngày
nay cảm thấy dễ nhàm chán, buồn nản vì họ quên mất một ngữ cảnh
thực tế của cuộc sống này là: cuộc sống luôn cần có một lý tưởng
tích cực để tròn đầy.
Việc quá sợ hãi
lắng lo cũng thường có nguồn gốc ở việc ta đang để mình bị tách
ra khỏi ngữ cảnh của chân lý rằng Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng
kì diệu và Ngài biết rõ mọi sự.
Nếu ta thấy mình
hay giận hay hờn như mưa như nắng thì đó là dấu hiệu ta đang bị
cám dỗ tách mình ra khỏi ngữ cảnh thật của tình yêu: Tình yêu
không phải là cảm xúc thất thường. Không, tình yêu trưởng thành
là lựa chọn dấn thân đến cùng, cho dù không cảm thấy nồng nàn và
sẵn sàng đón nhận hy sinh, như chính Thiên Chúa Tình Yêu đã minh
chứng trên thập giá.
Việc làm tổn hại sự
sống của chúng ta là một biểu hiện rằng ta đang bị Satan cám dỗ
quên đi ngữ cảnh quan trọng này: sự sống thuộc trọn về quyền của
Đấng Ban Sự Sống là Thiên Chúa chứ không phải sở hữu riêng mình.
Thái độ dễ lên án
người khác nhiều khi bắt nguồn từ việc bị cám dỗ làm ngơ đi ngữ
cảnh: Mọi con người đều mang thân phận mỏng giòn yếu đuối như
chính mình.
Có những người đến
hôm nay vẫn còn sốc hoặc hoang mang bởi biến cố Đức Giáo Hoàng
Biển Đức 16 từ nhiệm vì họ quên đi ngữ cảnh lịch sử Giáo Hội,
một lịch sử được diễn tiến trong sự bảo đảm của ơn Chúa qua mọi
thời đại.
Còn rất nhiều ví dụ
khác ta có thể thấy Tên Lừa Đảo Satan áp dụng kĩ thuật này.
Làm sao để hóa giải
trò nham hiểm này của Satan? Ta chỉ cần làm theo cách của Thầy
Giêsu. Nó muốn tách Thầy ra khỏi ngữ cảnh thì Thầy đẩy nó vào
lại trong ngữ cảnh. Ta cũng sẽ chiến thắng và giải gỡ được rất
nhiều khó khăn, vấn nạn đáng tiếc trong cuộc sống khi biết tỉnh
táo áp dụng phương pháp này. Áp dụng phương pháp này cũng đơn
giản thôi:
1/ Luôn ghi nhớ:
một lời nói, hành động, sự việc gì cũng đều có ngữ cảnh riêng
với nhiều yếu tố liên quan khác.
2/ Tránh tối đa
việc phản ứng vội vàng, cẩu thả.
3/ Thong thả xem
xét suy gẫm trong cầu nguyện để được ơn Chúa soi sáng.
Ngữ cảnh của Thầy
Giêsu có thể là nguyên lý phổ quát soi sáng cho các ngữ cảnh của
ta. Ngữ cảnh ấy là: Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự trong
yêu thương, tôn trọng, nhân hậu và rộng lượng; con người được
Thiên Chúa đối xử như thế nên cũng cần đối xử với nhau giống như
vậy.
Giuse Việt, O.Carm.
[14A+V0213]
Tiếng Anh:
http://only3minutes.wordpress.com/english/avoid-being-robbed/
Tiếng Ý:
http://only3minutes.wordpress.com/evitare-di-essere-derubato/
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LECTIO DIVINA hay ĐỌC LỜI CHÚA TRONG TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương
trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ
võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng
những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo
dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và
suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức
Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày
1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình
Lectio Divina
Lecdiv@gmail.comđể
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".
Đan
viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài
cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực
hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo
Tịnh, O.Cist
fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 12: LECTIO DIVINA hay ĐỌC LỜI
CHÚA TRONG TÂM TÌNH CẦU NGUYỆN
“Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ
vật, nhưng đã mở tai con” (Tv 40,
7)
Những
giai đoạn của Lectio divina
Hiến chế Mạc Khải của Công Đồng Va-ti-ca-nô II khuyến
khích tất cả các ki-tô hữu: “Thánh Công Ðồng cũng tha
thiết và đặc biệt khuyến khích mọi ki-tô hữu, cách riêng các tu
sĩ hay năng đọc Thánh Kinh để học biết "khoa học siêu việt của
Chúa Giê-su Ki-tô" (Ph 3,8) .
Các Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và Biển Đức XVI đã
khích lệ việc thực hành điều mà truyền thống gọi là
“Lectio divina”. Lectio divina là gì? Đã từ rất lâu
Lectio divina hay đọc Sách Thánh trong tâm tình suy niệm,
nghiền ngẫm, cầu nguyện được dành riêng cho giới đan sĩ,
càng ngày càng lan rộng nơi các ki-tô hữu ao ước tìm
nguồn sống củng cố đức tin của mình.
Việc tập thực hành lắng nghe Lời Chúa không có gì phức
tạp, nhưng đòi hỏi phải kiên trì. Lời này có thể thâm
nhập và sinh hoa kết trái trong lòng chúng ta. Việc đàm
thoại này đòi hỏi phải siêng năng cần mẫn – nhưng người
ta bỏ ra quá nhiều giờ cho những việc không đâu! Bởi vì
chính Thánh Thần là Đấng đã “linh hứng” Lời mà các
tác giả Kinh Thánh, hoặc các tác giả ki-tô giáo viết,
nên khi bắt đầu đọc Kinh Thánh để cầu nguyện cần phải
cầu xin Chúa Thánh Thần mở tâm lòng và trí tuệ chúng
ta để giúp chúng ta có thể nghe được điều Chúa muốn
nói với chúng ta qua bản văn.
Truyền thống ki-tô giáo khi trình bày cho chúng ta diễn
tiến cuộc đàm thoại với Chúa, phân biệt bốn giai đoạn:
Đọc (lectio), suy niệm (meditatio), cầu
nguyện (oratio) và chiêm ngắm (contemplatio). Bốn
giai đoạn này phù hợp với bốn ý nghĩa của Kinh Thánh,
đã được hiểu từ trong Do-thái giáo và được đón nhận
trong Ki-tô giáo: ý nghĩa văn tự (ý nghĩa của chữ đen
trong bối cảnh lịch sử), ý nghĩa ẩn dụ (nhấn mạnh đến
sự liên hệ giữa các biến cố của Giao Ước Thứ Nhất và
của Giao Ước Mới), ý nghĩa luân lý (ràng buộc cuộc
sống đời thường của chúng ta) và ý nghĩa thần bí (trải
nghiệm nội tâm đưa chúng ta vào thông hiệp với Thiên Chúa).
Do vậy luôn phải bắt đầu bằng việc đọc. Ngày lại
ngày, tôi đọc một trong các sách Kinh Thánh – thuộc Giao
Ước Thứ Nhất (Cựu Ước) hay
Tân Ước - đọc liên tục để tránh việc chọn lựa
theo chủ quan. Đôi khi chỉ cần chậm rãi đọc vài câu, đọc
nhiều lần, và nếu được thì cũng nên đọc lớn tiếng.
Người ta cũng có thể ghi chép lại những câu đó, nhất
là những câu quá quen thuộc mà chúng ta có khuynh hướng
đọc lướt qua. Việc đọc lần đầu này nhằm mục đích hiểu
đúng và khách quan về bản văn. Bản văn muốn nói gì?
Cầm bút chì trên tay, tôi có thể gạch dưới những động
từ, những chữ, những câu dường như là
cốt yếu của bản văn,
những nhân vật, những cử điệu, nơi chốn…
Giai đoạn thứ hai là suy niệm. Tôi đào sâu ý nghĩa
của lần đọc thứ nhất qua suy tư và tìm hiểu. Đó là
thời gian “đào bới” bản văn bằng cách dùng tất cả những
khí cụ cần thiết (ghi chú ở cuối trang, sách chú giải,
tài liệu học hỏi Kinh Thánh) để có thể hiểu thấu đáo
bản văn, ý nghĩa của những chữ, bối cảnh lịch sử và
văn hóa của tác giả. Tác giả muốn nói gì? Đức tin
được trình bày trong đó thế nào? Tác giả nói gì về
Thiên Chúa và về con người? Chứng từ đức tin của tác
giả giúp gì cho chính đức tin của tôi hôm nay? Chúa muốn
nói với tôi điều gì qua bản văn này? Suy niệm là thời
gian Kinh Thánh trở thành Lời “nói với tôi”.
Từ việc suy niệm này nảy sinh ra cầu nguyện. – đó
chính là việc tôi đáp lời, lời mà tôi thân thưa với
Chúa là Đấng đã nói với tôi điều gì đó qua bản văn
này. Đây không còn là lúc tra cứu sách đối chiếu hay tự
điển. Tôi ở trong tư thái nội tâm hoàn toàn sẵn sàng
tiếp nhận, tin tưởng Lời Chúa có sức mạnh nội tại có
thể biến cải người lắng nghe Lời. Một lời nguyện không
có tính cách giảng, nói hay về Chúa nhưng là nghiền
ngẫm “nhâm nhi” Lời, để cho Lời tác động trong tôi, tiến
triển trong tôi, đi vào trong cái cụ thể của cuộc sống
của tôi. Nhờ có Lời, lời cầu nguyện của tôi không còn
là một cuộc độc thoại hay chỉ quy về mình. Nó trở
thành cuộc đàm thoại, cuộc đối
thoại với Chúa, nó trở
thành lời đáp đối với Lời Chúa mời gọi tôi.
Chính trong giai đoạn này, được Lời Chúa đụng chạm tới,
đôi khi tôi có thể đi vào trong chiêm ngắm, một sự
thông hiệp mật thiết hơn với sự hiện diện của Chúa. Sự
thông hiệp thinh lặng giúp tôi có cái nhìn mới về bản
thân tôi, về các người khác và về các biến cố xảy đến.
“Việc đọc chạm tới vỏ. Suy niệm đi sâu vào trong chữ.
Cầu nguyện diễn tả ước muốn. Và Chiêm ngắm tận hưởng
sự ngọt ngào được cảm nhận”
(Guigues II, le Chartreux).
Những ai hằng ngày chăm chú thực hành việc đọc này – dù
chỉ 15 phút mỗi ngày – đều khám phá ra Lời Chúa hoạt
động trong ta và biến cải ta như thế nào.
Dĩ nhiên là không thiếu những cản trở: Có nhiều sinh
hoạt phải giải quyết ngay, những âu lo về gia đình hay
nghề nghiệp, bức xúc về việc đổi mới. Hơn nữa, sự
thiếu hiểu biết của tín hữu về đức tin thường làm cho
việc suy niệm Lời là nguồn liên hệ cá nhân mình với
Chúa trở nên khó khăn.
Tuy nhiên tất cả chỉ là vấn đề xác tín và lệ thuộc
vào điều mà ta coi là ưu tiên. Nếu tôi xác tín rằng sự
phong phú thực tế của cuộc sống của tôi được bắt nguồn
từ Lời Sự Sống, tôi sẽ có thể thu xếp dành được một
chỗ trong việc tổ chức ngày sống của mình. Chúng ta
luôn tìm được giờ để làm điều chúng ta cho là quan
trọng. Đó quả thực là vấn đề chọn lựa cá nhân.
Xin nhớ rằng Lectio divina có thể được thực hành chung
với nhiều người, hoặc để chuẩn bị phụng vụ Chúa Nhật,
hoặc trong giờ Kinh Đêm áp một Lễ Trọng. Những ai đã
thực hành kiểu Lectio divina cộng đoàn này đều có thể
chứng thực rằng nhiều đoạn văn Kinh Thánh chúng ta không
thể hiểu khi đọc một mình, đôi khi được soi sáng nhờ
các anh chị em mình.
Không là duy thiêng liêng cũng không
phải là theo chủ nghĩa cơ yếu
Những giai đoạn của việc cầu nguyện với Lời Chúa mà
chúng tôi vừa phác thảo trên đây cũng có thể giúp chúng
ta tránh được hai sai lệch thường gặp phải: chủ nghĩa
duy thiêng liêng là thứ chủ nghĩa tìm trong Kinh Thánh
một xúc cảm đơn thuần. Người ta có nguy cơ gán ghép vào
trong Lời Kinh Thánh những tình cảm riêng tư, ưu tiên chọn
những trích đoạn thích hợp với những “ý tưởng” của
mình về Chúa và thu hẹp Kinh Thánh vào chiều kích tâm
lý. Đôi khi chúng ta phải chấp nhận sự kỳ dị của bản
văn và không mong hiểu được tức thời.
Sự sai lạc thứ hai có thể có khi đọc Kinh Thánh đó là
chủ thuyết cơ yếu. Bởi vì Kinh Thánh là Lời của Chúa,
người ta tưởng rằng đọc Kinh Thánh, đó là trực tiếp
gặp được Chúa và gặp Người tức thời. Nhưng muốn thấu
đạt được sứ điệp chất chứa trong Lời mà không cần đối
mặt với vỏ ngoài của lời nhân loại, thì quên rằng các
tác giả Kinh Thánh sống trong một lịch sử và một nền
văn hóa riêng mà Thiên Chúa tôn trọng bước tiến của con
người. Và chính các bản văn của Tân Ước cũng đã là
một giải thích về cuộc đời và sứ điệp của Thầy Giê-su;
chính Thầy Giê-su đã không viết gì và mầu nhiệm của
Người luôn vượt trên những gì đã được viết ra.
Việc đọc Kinh Thánh theo chủ nghĩa cơ yếu, nô lệ “mặt chữ”
của Kinh Thánh, đặc biệt nói lên sự thiếu hiểu biết về
vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng giúp phân định sứ
điệp được mạc khải, vượt qua vỏ bọc của ngôn ngữ, liên
quan tới một nền văn hóa và một thời đại. Người cũng
giúp chúng ta hiện thực hóa Lời trong cuộc sống hôm nay
của chúng ta. Đọc Kinh Thánh theo chủ nghĩa cơ yếu cũng
không nhận ra việc con người cần phải tìm hiểu để tiếp
nhận Lời, qua ngôn từ nhân loại thiếu sót của mình,
cũng như các tông đồ đã phải phân định, cách tiệm tiến,
căn tính Thiên Chúa của Ngôi Lời Thiên Chúa, qua nhân tính
của Thầy Giê-su.
Lời của Chúa tuân theo sự nghịch lý của việc Chúa Ki-tô
nhập thể là điều tạo cho mầu nhiệm của Thiên Chúa có
một khuôn mặt, đồng thời vẫn che khuất nguồn gốc Thiên
Chúa của mình. Thiên Chúa mạo hiểm “nói” Lời vĩnh cửu
của mình trong những ngôn từ của nhân loại thường có thể
bị hiểu sai và đôi khi bị làm cho méo mó. Nhưng Thần Khí
cho phép vượt qua những cản trở gặp phải trong việc Lời
nhập thể. Cuối cùng, điều khó khăn nhất chắc hẳn là
tin rằng Lời của Chúa, được chứa đựng trong Kinh Thánh,
luôn là hiện thực, sống động và đang nói với tôi là
người đang lắng nghe, hôm nay.
Hai bàn tiệc đức tin
Từ chương 6 trong Tin Mừng Gio-an, Truyền Thống công giáo
quả quyết rằng có hai bàn tiệc: “Bàn tiệc Lời” và
“bàn tiệc Thánh Thể”, mà thực tế cả hai chỉ là một
bàn tiệc. Chúng ta đã thấy trong trình thuật về hai môn
đệ Em-mau, Chúa Ki-tô phục sinh, trong một bước tiến
thiêng liêng rất kiên nhẫn, đã tỏ mình ra đồng thời qua
việc đọc lại Kinh Thánh và việc bẻ bánh như thế nào.
Như hai môn đệ này, chúng ta cần gặp Đức Ki-tô sống động
trong Lời được tuyên xưng trước khi nhận ra Người qua bánh
được chia sẻ. Lời còn quá thường bị hiểu như là một
cách dẫn vào cử hành bí tích Thánh Thể. Người ta nghe
đọc mà không ý thức được rằng Lời đã đưa chúng ta vào
trong Giao Ước sẽ được Thánh Thể xác nhận. Vậy Chúa
Ki-tô hiện diện trong Lời cũng như trong việc bẻ bánh.
Người ban tặng cuộc sống của Người khi tuyên bố Lời, khi
giải thích Kinh Thánh và khi chia sẻ bánh.
Tổ chức cầu nguyện với Lời Chúa
theo nhóm như thế nào
+ Mỗi người nên có cùng một bản văn Lời Chúa.
+ Thần Khí đã linh hứng bản văn này và còn linh hứng
mỗi tín hữu hiểu và sống bản văn. Do vậy cần phải bắt
đầu bằng việc cầu xin Chúa Thánh Thần qua một lời kinh hay một
bài hát.
+ Mỗi nhóm nên chọn một linh hoạt viên để điều động sự tham gia
của các thành viên, giờ giấc quy định và diễn tiến các giai
đoạn.
Buổi cầu nguyện được chia thành ba thời gian:
1. Thời gian quan sát. Bản văn nói gì?
- Một người đọc lớn tiếng bản văn đã chọn.
- Tiếp đến, trong khoảng 5 đến 7 phút thinh lặng, mỗi người quan
sát những yếu tố tạo nên bản văn (những chữ thường lặp lại nhiều
lần, những động từ được dùng, các nhân vật, địa danh, cử động).
Cũng khuyên nên có bút chì trong tay để gạch dưới những chữ,
những câu xét là quan trọng.
- Cuối cùng, luân phiên mỗi người nói cho nhóm một câu hoặc tối
đa hai câu mình nhận thấy là quan trọng.
2. Thời gian suy niệm. Chúa nói với tôi điều gì qua Lời
này.
- Một người khác đọc lại bản văn.
- Trong 5 đến 7 phút, mỗi người theo sát bản văn cố gắng phân
định đức tin được diễn tả trong đó và đức tin này nuôi dưỡng
hoặc đặt vấn đề đối với đức tin của mình như thế nào.
- Chia sẻ lần thứ hai. Qua một hai câu ngắn gọn, mỗi người tóm
tắt điều mà bản văn dạy mình, và điều đó có ảnh hưởng gì đối với
đức tin của riêng mình.
3. Thời gian cầu nguyện
- Người thứ ba đọc lớn và chậm cùng một bản văn trên.
- Trong khoảng 5 đến 7 phút, mỗi người âm thầm cầu nguyện dựa
theo điều đã quan sát và suy niệm, và cũng từ những điều nghe
người khác chia sẻ.
- Chia sẻ lần cuối. Mỗi người ngắn gọn nói lên một hay hai ý
nguyện.
- Kết thúc bằng kinh Lạy Cha hoặc một lời kinh chung nào khác.
Dĩ nhiên, mỗi khi trao đổi chia sẻ, mỗi người đón nghe người
khác nói mà không phán đoán, phê bình hay giải thích. Mục đích
của buổi cầu nguyện chung này không để học hỏi bản văn mà cũng
không tranh luận với nhau về bản văn, nhưng đơn thuần chỉ để
cùng nhau cầu nguyện với bản văn Kinh Thánh và chia sẻ với nhau.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI THOÁI
VỊ. VÌ SAO?
|
Sáng thứ Hai 11/2/2013, giữa Công nghị Hồng
y được triệu tập về Thủ đô Vatican của Giáo Hội Hoàn vũ, Đức
Thánh Cha Biển đức XVI chính thức tuyên bố thoái vị với lời mở
đầu như sau: “Các Hiền Huynh thân
mến, Tôi đã triệu tập các Hiền Huynh đến Công Nghị này, không
chỉ để bàn về ba án phong Thánh nhưng còn là để trao đổi với các
Hiền Huynh một quyết định rất quan trọng đối với đời sống của
Giáo Hội. Sau nhiều lần tự vấn lương tâm trước mặt Chúa, tôi đã
đi đến sự xác tín rằng năng lực của tôi, do tuổi cao, không còn
phù hợp để cáng đáng đầy đủ sứ vụ Giáo Hoàng.”
Lý do thoái
vị được chính Đức Thánh Cha xác định:
“Trước một thế giới với quá nhiều những
thay đổi nhanh chóng và đang rúng động bởi những vấn nạn liên
quan sâu sắc đến đời sống đức tin; để có thể lèo lái con thuyền
của Thánh Phêrô và rao giảng Tin Mừng, cả năng lực của trí óc
lẫn thể xác đều là cần thiết. Năng lực của tôi trong vài
tháng qua, đã xấu đi đến mức mà tôi phải thừa nhận sự bất
lực của tôi không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ được giao phó cho
mình. Vì lý do này, và cũng nhận thức được mức độ nghiêm trọng
của hành động này, với hoàn toàn tự do, tôi tuyên bố thoái vị
khỏi sứ vụ của Giám Mục Roma, Người kế vị Thánh Phêrô, đã được
giao phó cho tôi bởi các Hồng Y ngày 19 Tháng Tư năm 2005”.
Rồi ĐTC cho
biết, ngày 28/02/2013 sẽ là ngày ngài chính thức rời khỏi chức
vụ. “Ngai Tòa Thánh Phêrô sẽ được
bỏ trống và một Mật Nghị Hồng Y sẽ được triệu tập để bầu vị Giáo
Hoàng bởi những vị có thẩm quyền”.
Việc Đức
Thánh Cha Biển đức XVI tự mình quyết định rời ngai Giáo Hoàng
không khỏi gây sửng sốt cho nhiều người vì lẽ từ 600 năm qua,
chưa hề có tiền lệ một vị Giáo Hoàng từ nhiệm (từ chức, thoái vị).
Tuy nhiên, trong Giáo Hội, chỉ có luật Chúa là bất di bất dịch.
Luật Hội Thánh còn phải trải qua nhiều đổi thay huống hồ là một
thông lệ. Thông lệ không có nghĩa là không cho phép. Không phải
luật cấm hay luật buộc. Cho nên, chúng ta có thể ngạc nhiên hay
thậm chí bàng hoàng (sốc) và thoáng một chút đau buồn khi nhận
được tin ĐTC thoái vị, nhưng không vì đó mà chúng ta dễ dàng
nghe theo những suy đoán hàm hồ hay bi quan, nhất là những lời
đồn đại thi phi về nguyên cớ của sự thoái vị bất thường mà lại
quên đi sự hoạt động liên lỉ của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo
Hội Chúa Kitô ở trần thế này hầu đưa Giáo Hôi vượt qua bao cơn
sóng dữ suốt hơn 20 thế kỷ thăng trầm.
Tuổi già ám ảnh
Chúng ta hãy
cùng nhau đọc lại quyển “Ánh Sáng Thế Gian” ghi
lại cuộc trao đổi giữa Đức Thánh Cha Biển đức XVI với nhà báo
Peter Seewald năm 2010 (người viết sử dụng bản dịch tiếng Việt
từ Đức ngữ của Phạm Hồng Lam, ấn bản 2011) để biết rõ nỗi ưu tư
của vị Giáo chủ khi ngài đối diện với trách nhiệm cầm đầu Hội
Thánh Chúa ở trần gian vào tuổi 78.
Trong Lời tựa
quyển sách, nhà báo Peter Seewald thổ lộ: “Chưa bao giờ trong
lịch sử giáo hội có chuyện một giáo chủ để cho người ngoài phỏng
vấn và sẵn sàng trả lời trực tiếp.” Seewald ghi nhận:
“Riêng chuyện này đã là một dấu ấn mới cho triều đại giáo chủ
này.” (trang 7-8). Rồi lại khi từ trong phòng bước ra phòng
khách, Đức Giáo Hoàng Biển đức XVI đưa tay cho Peter Seewald
bắt, “nhỏ nhẹ chào” Seewald, “và nói như một lời xin lỗi”:
“Sức hơi kém lắm rồi.” (trang 10).
Mở đầu cuộc
phỏng vấn, nhà báo Peter Seewald nêu thẳng câu hỏi:
“Thưa Đức Thánh Cha, ngày 16.04.2005, dịp
sinh nhật 78 tuổi, ngài đã thông báo với các nhân viên cộng tác
với mình về niềm vui sẽ được nghỉ hưu. Nhưng ba ngày sau đó,
ngài trở thành vị đứng đầu một Giáo hội hoàn vũ với 1,2 tỷ tín
hữu. Một nhiệm vụ chẳng thích hợp gì với một người lớn tuổi.”
Đức Thánh Cha
đáp: “Quả thật tôi đang chờ
được nghỉ ngơi và an thân. Nhưng, đùng một cái, nhiệm vụ to lớn
lừng lững trước mắt. Như mọi người đều bết, đó là một cú sốc đối
với tôi. Trách nhiệm quả lớn kinh khủng.”
Seewald lại
hỏi: “Về sau ngài thổ lộ, giây
phút đó mình tưởng như ‘lưỡi đao’ đang rơi xuống cổ?”
ĐTC Biển Đức
trả lời ngay: “Đúng, tôi đã nghĩ tới hình ảnh máy chém:
Này là lúc lưỡi đao rơi xuống và nó rơi đúng vào đầu mày.”
Đến nỗi sau mấy giây bị ám ảnh bởi “máy chém” và “lưỡi đao”,
ngài còn nói thêm: “Chúa sẽ cho tôi an thân và nghỉ ngơi
sau những tháng năm căng thẳng” tuy rằng ngài tin
“Chúa sẽ ở cùng tôi” (trang 17).
Qua những tâm
sự trên đây của ĐTC, rõ ràng chiếc bóng tuổi già, sức yếu bám
chặt lấy ngài. Và ai cũng thấy ngài già đi nhiều, yếu đi nhiều.
Tuổi già và sức yếu ngày càng hiện rõ mỗi lần vị giáo chủ xuất
hiện. Xin nhắc lại lời Đức Thánh Cha (như đã trích dẫn trên):
“Năng lực của tôi trong vài
tháng qua, đã xấu đi đến mức mà tôi phải thừa nhận sự bất lực
của tôi không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ được giao phó cho mình.”
Vả lại, trong
quá khứ, theo bản tin ngày 12/2/2013 của hãng thông tấn AP
(Associated Press), thì “trong một cách thức nào đó, tin ĐGH
Biển đức thoái vị chẳng phải là điều đáng ngạc nhiên. Chính Đức
Biển đức năm 2010 đã từng nêu lên việc ngài có thể từ chức khi
mà ngài đã quá già hay yếu bệnh liên tục.”
Bản tin của
AP còn trích dẫn lời phát biểu của chính ĐTC trong cuốn Ánh Sáng
Thế Gian: “Khi một giáo chủ hiểu rõ, mình không còn năng
lực về thể lý, tâm lý hay tinh thần để cáng đáng nhiệm vụ được
giao phó nữa, thì vị đó có quyền, và trong một số hoàn cảnh, tự
vị đó có nhiệm vụ phải từ chức.” (sđd, tr. 49). Trong
khi xác định “Người ta có thể từ chức trong thời điểm yên
hàn hoặc thấy mình không còn kham nổi nữa…”, ĐTC không
quên nhấn mạnh rằng “việc từ chức không được phép là một
lựa chọn để trốn tránh một trọng trách nào đó… Trong cơn nguy
biến, không được chạy trốn.” (sđd, tr.49).
Như vậy, việc
Đức Thánh Cha Biển đức từ nhiệm là một hành động có ý thức, có
trách nhiệm, vì ngài tự “thấy
mình không còn kham nổi nữa”.
Những Giáo hoàng đã thoái vị.
Trong quá khứ,
mặc dù các giáo hoàng được phép thoái vị, sự thật lịch sử Giáo
Hội cho thấy gần đây nhất đã 6-7 trăm năm chỉ xảy ra có hai
trường hợp giáo hoàng thoái vị. Đó là Giáo hoàng Grêgôriô XII
thoái vị năm 1415; và trước đó là Giáo hoàng Celestine V thoái
vị năm 1294.
ĐGH
Celestine V vốn là một tu sĩ-ẩn tu chiêm niệm thánh
thiện thuộc hệ phái chiêm niệm Dòng Phanxicô được bầu chọn làm
giáo hoàng để “thanh tẩy” Hội Thánh lúc bấy giờ đang điêu đứng
vì rơi vào trào lưu tục hóa nghiêm trọng. Nhưng khi được bầu,
Đức Celestine V đã 85 tuổi, được xưng tụng là Papa Angelicus
– ĐTC Thiên thần. Tuy nhiên ngài bất lực trong việc giải
quyết các vấn đề chính trị và tài chánh vô cùng phức tạp lúc bấy
giờ, nên chỉ sau 6 tháng, ngài thoái vị.
Thời kỳ từ
năm 1394 tới 1417, xảy ra cuộc phân ly trong Giáo Hội. Tại Rôma
(Ý) có giáo hoàng Grêgôriô XII (1406-1415) trong
khi tại Avignon (Pháp) có giáo hoàng Biển đức XIII. Năm 1409,
Công đồng Pisa hạ bệ hai vị trên và cử ra một tân giáo hoàng là
Alexander V (1409-1410). Nhưng cả Biển đức XIII lẫn Grêgôriô XII
đều không chịu thoái vị, thành thử Giáo Hội có tới 3 Giáo hoàng
cùng một lúc. Thế nên Công đồng Constance được triệu tập, cách
chức hai vị, và đồng ý cho Grêgôriô XII thoái vị năm 1415, chấm
dứt cuộc phân ly Avignon và Rôma.
Sức khỏe suy sụp.
Trở lại
trường hợp của Đức Thánh Cha Biển đức XVI, một bản tin khác của
hãng thông tấn AP từ Luân Đôn ngày 12/02/2013 cho biết,
“khi lên ngôi Giáo hoàng ở tuổi 78, Đức
Biển đức XVI cũng đã là vị giáo hoàng già nhất từ gần 300 năm
nay. Bây giờ ngài đang ở tuổi 85, và trong những năm gần đây sức
khỏe của ngài đã suy sụp đáng kể, khiến ngài phải hủy nhiều
chuyến tông du hải ngoại và hạn chế các cuộc triều yết.”
AP còn cho
biết “khi di chuyển đến Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô,
ĐGH đã phải sử dụng chiếc bệ có bánh xe lăn trên một lộ trình
khoảng trăm mét. Rồi có lúc ngài phải chống gậy.”
Cũng theo
nhận xét của hãng tin AP, “năm ngoái khi công chúng đợi chờ
ĐTC xuất hiện để ngỏ lời với họ, thì họ thấy ngài bước ra với vẻ
yếu mệt, không nói gì được bao nhiêu với họ.” Bản tin cũng
nhắc tới chuyện “năm 2009, ĐTC đã
bị té ngã và bị thương nhẹ ở khuỷu tay trong dịp nghỉ hè ở vùng
núi Alps.”
Theo Đức
Ông Georg Ratzinger, bào huynh của ĐTC Biển Đức XVI,
bác sĩ riêng của ĐTC đã yêu cầu ngài chấm dứt các chuyến tông du
xuyên Đại Tây Dương, trong khi đó chỉ có một chuyến tông du ra
ngoại quốc duy nhất được dự trù trong năm nay là chuyến đi Ba
Tây (Brazil, Nam Mỹ) để chủ sự Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Toàn
Cầu vào Tháng Bảy 2013 tới đây. (Dĩ nhiên, cùng với quyết định
từ chức của ngài, chuyến tông du dự trù ấy nay cũng hết hiệu lực).
Bên cạnh
những lời bàn ra tán vào về chuyện ĐTC Biển đức thoái vị, người
ta còn đồn đại những điều sẽ xảy ra theo “lời tiên tri” của nhà
tiên tri này hay nhà tiên tri khác. Rồi hàng loạt tên tuổi các
Đức Hồng y danh tiếng, từ Âu sang Á, từ Phi châu tới Nam Mỹ, Bắc
Mỹ… được “tiên đoán” sẽ lên ngôi Giáo hoàng kế vị Đức Biển đức
XVI!
Người ta quên
đi vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần sẽ tác động tới Mật
nghị Hồng Y vào Tháng Ba tới đây.
Chúng ta bỏ
ngoài tai mọi lời đồn đoán và gia tăng cầu nguyện cho Hội Thánh,
cho Mật nghị Hồng y sớm tuyển chọn một vị Giáo hoàng đạo đức và
đầy năng lực lên kế nhiệm lèo lái con thuyền Hội Thánh thoát
khỏi cơn phong ba của trào lưu tục hóa và vô thần khắp thế giới,
đặc biệt trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Lê Thiên, ngày
14/02/2013 |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẾ NÀO LÀ PHẠM
TỘI TRONG TƯ TƯỞNG ? |
Hỏi :
Xin cha giải thích phạm tội trong tư tưởng
là gì ?
Một
người “ngoại tình” nhưng không làm chuyện “vợ chồng” với nhau
thì có tội không ?
Trả lời :
Con người khác
với mọi sinh vật ở chỗ có lý trí, ý chí và tình cảm. lý trí để
suy nghĩ và hướng dẫn mọi hành động bên ngoài cũng như tự do
chọn làm theo ý muốn riêng của mình. Vì thế chỉ có con người mới
có đời sống luân lý và chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về mọi
việc mình làm bao lâu còn sống trên đời này.
Là người tín
hữu Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi và mong đợi sống đời sống
luân lý cách thích đáng theo hướng dẫn của lương tâm và giáo lý
của Giáo Hội để được chúc phúc và nhất là được cứu độ nhờ công
nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô,
“ Đấng đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không
còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống
lại vì mình.”
( 2 Cor 5: 15)
Nói đến đời
sống luân lý thì phải nói đến sự có mặt của tội lỗi và sự dữ (
evils) trong đời sống cá nhân, xã hội và cộng đồng nhân loại nói
chung.Cụ thể, gian dâm, gian ác, giết người, trộm cắp, bóc lột,
đàn áp, gây chiến tranh giết hại dân lành và chiếm đoạt tài
nguyên của nước khác v.v là những điều trái ngược với luân lý
phổ quát , với đạo đức làm người theo theo tiếng nói của lương
tâm lành mạnh và giáo lý vững chắc của Giáo Hội.
Thật vậy, như
đã nói ở trên, vì con người có tự do, nên vấn đề tội lỗi chỉ đặt
ra cho con người có lý trí và ý muốn tự do ( free will) chứ
không đặt ra cho bất cứ sinh vật hay động vật nào. Do đó, muốn
sống đẹp lòng Chúa trong trần thế này, người có niềm tin Chúa
phải hết sức xa tránh mọi tội lỗi và mọi nguy cơ đưa đến phạm
tội vì chỉ có tội mới làm ngăn cách con người với Thiên Chúa,
hay đẩy con người ra khỏi thân tình với Chúa là Đấng trọn tốt
trọn lành, rất yêu thương con cái loài người nhưng lại gớm ghét
mọi tội lỗi vì tội lỗi và mọi sự dữ đều xúc phạm nặng nề đến bản
chất yêu thương , thánh thiện và công chính của Người.
Thánh Gioan
Tông Đồ đã quả quyết như sau về nguy hại của tội lỗi :
“ Ai phạm
tội thì là người của ma quỉ
Vì ma quỷ
phạm tội từ lúc khởi đầu
Sở dĩ Con
Thiên Chúa xuất hiện
Là để phá
công việc của ma quỷ.”
( 1 Ga 3 : 8)
Con người phạm
tội vì bản chất yếu đuối , vì gương xấu của xã hội và nhất là vì
ma quỉ cám dỗ. Người ta cũng phạm tội vì tự do muốn làm những
việc mà lương tâm lành mạnh không cho phép. Là người có lý trí ,
có lương tâm và ý muốn tự do ( free will) , nên người ta phải có
dự mưu trước khi muốn làm việc gì. Do đó, mọi tội con người có
thể vấp phạm đều xuất phát từ trong lòng thầm kín trước khi thể
hiện ra bên ngoài bằng hành động.
Chúa Giêsu đã
nói rõ điều này khi Người trả lời cho Phêrô về việc bọn Biệt
phái bắt lỗi những người ăn mà không rửa tay :
“
…Còn những cái gì từ miệng xuất ra
là phải xuất từ lòng. Chính những cái ấy mới mới làm cho con
người ra ô uế., vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những
tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và
vu khống…Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế.; còn ăn
mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.”
( Mt 15: 18-20)
Nói khác đi,
mọi tội lớn nhỏ đều xuát phát từ trong nội tâm mỗi người. Cụ thể
kẻ trộm, kẻ cướp là những kẻ thấy của cải, tiền bạc của người
khác mà sinh lòng ham mê, nên đã bắt chấp lương tâm để mưu chiếm
đoạt của cải của người khác. Cũng vậy, vì nuôi oán thù trong
lòng nên mới thể hiện bằng hành động mưu hại người khác.
Liên can đến
tội nghích điều răn thứ Sáu và thứ Chín ngăn cấm con người không
được ước muốn và làm những việc dâm ô như : ngoại tình (
adultery) thông dâm ( fornication), ấu dâm,( child prostitution)
thủ dâm ( masturbation) hiếp dâm (rape) ước muốn vợ/ chồng hay
tài sản của người khác, ,xem phim ảnh, sách báo khiêu dâm (
pornography).. Chúa Giêsu cũng dạy rõ như sau:
“Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho
anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng
đã ngoại tình với người ấy rồi..” ( Mt 5: 27-28)
Như thế có
nghĩa là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác,
muốn chiếm đoạt tiền của hay tài sản của ai, giân ghét và muốn
giết hại ai ... thì đã phạm các tội ngoại tình, trộm cắp và giết
người trong tư tưởng rồi, vì trong lòng đã nuôi dưỡng những tư
tưởng hay ước muốn sai trái đó, cho dù chưa thực hiện được trong
thực tế.
Đây là điểm
khác biệt giữa con người và mọi thú vật là loài không có lý trí,
chỉ sống theo bản năng, nên không con vật nào như chó, mèo, voi,
hổ, báo sư tử…lại có âm mưu hại người hay con vật khác. Chúng
tấn công người để tự vệ hay giết lẫn nhau để tìm của ăn theo nhu
cầu sinh tồn của chúng mà thôi.
Ngược lại, chỉ
có con người mới “ bề ngoài nói nói cười cười,” mà trong lòng có
thể đang âm mưu sát hại người khác bằng nhiều thủ đoạn gian manh
như ta thấy trong thực tế ở mọi lãnh vực sống của người đời,
nhất là trong phạm vi chính trị đầy sảo trá, gian manh, phản bội.
Liên quan đến
câu hỏi được đặt ra, và dựa vào lời dạy của Chúa trên đây, thì
nguyên một ý muốn “ ngoại tình” với người khác đã là điều trái
với luân lý, đạo đức nghĩa là có tội rồi, vì từ ước muốn này sẽ
dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng của đương sự.Do
đó không thể lý luận rằng chưa làm việc “ vợ chồng” thì không
phải là ngoại tình.
Khi nói đến
“ngoại tình” ( adultery) là nói đến tình cảm và tương giao bất
chính giữa một người đã có gia đình với người khác phái không
phải là vợ hay chồng của mình.
Nếu chỉ là giao
thiệp trong sáng giữa hai người khác phái thì không thể nói là “
ngoại tình” được. Thực tế, người vợ hay chồng có thể có bạn khác
phái vì cùng làm chung một nơi hay hoạt động chung trong một môi
trường như Giáo xứ, Công đoàn, nhưng chỉ là bạn hay người quen
biết đúng nghĩa thì đâu có lỗi gì ?.
Ngược lại, chỉ
khi nào vượt qua danh giới vơ chồng để chạy theo người khác phái
trong mục đích san sẻ tình yêu hay dục vọng với người ấy thì đó
mới chính là tội “ngoại tình” trong tư tưởng dù chưa có hành
động trong thực tế, căn cứ theo lời Chúa Giêsu đã dạy trên đây
là dù chỉ “ nhìn người phụ nữ và
thèm muốn, thì đã
phạm tội ngoài tình trong lòng với người ấy rồi”
không cần phải làm chuyện “vợ chồng” mới đủ thành tội ngoại tình..
Nói rõ hơn,
người vợ hay chồng chỉ cần có “tà ý” muốn vượt qua ranh giới vợ
chồng để đi vào “thân tình” riêng tư với người khác không phải
là vợ hay chồng của mình thì đã bước chân vào ngưỡng của ái tình
vụng trộm –hay là ngoại tình , cho dù chưa làm việc “ vợ chồng “
với nhau.
Tóm lại, mọi
tội con người có thể phạm đều xuất phát từ trong nội tâm mỗi
người như Chúa đã dạy trên đây.Do đó, muốn tránh tội thì phải có
quyết tâm từ bỏ tội ngay trong lòng và nương nhờ ơn Chúa giúp
sức thì người ta mới có thể đứng vững trong đường ngay chính để
sống chung thủy trong hôn nhân, và để thăng tiến trên đường trỏ
nên thánh thiện với tư cách là tín hữn như Chúa mong muốn cho
mỗi người chúng ta.
Nếu không có cố
gắng nội tâm để xa tránh tội lỗi mà cứ đi hàng hai, nửa nóng nửa
lạnh thì không vợ chồng nào có thể sống trọn vẹn với nhau trong
ơn gọi hôn nhân được; cũng như không ai có thể được cứu rỗi nếu
không quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và cộng tác với ơn
Chúa để được thắng tiến trong đời sống thiêng liêng, xa tránh
tội lỗi và mọi quyến rũ của ma quỉ và thế gian. Nếu không có
quyết tâm này, thì Chúa sẽ không thể cứu ai được vì con người
còn có tự do để chọn sống theo Chúa hay sống theo xác thịt, theo
thế gian và ma quỉ, là kẻ luôn cám dỗ để lôi kéo ta ra khỏi tình
thương của Chúa.
Ước mong giải
đáp này thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI THỌAI NĂM ĐỨC TIN: NHỮNG VẤN
ĐỀ KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
(Vấn đề 2) |
VẤN ĐỀ 2:
Trong quá khứ, tôn giáo đã từng
gây trở ngại rất nhiều cho khoa học như trong vụ án Ga-li-leo
Ga-li-lei (1611-1741). Các nhà bác học vì sợ bị tôn giáo pháp
đình kết án thiêu sinh, nên không dám đưa ra những lời giải đáp
chân chính về nguồn gốc vũ trụ và con người khác với lời dạy bảo
sai lạc của tôn giáo.
I. LỜI ĐÁP :
1.
Thực tế có sự xung đột:
Vụ Galileo Galilei.
Chúng ta công
nhận rằng: trong thời trung cổ, đã từng có sự xung dột giữa tôn
giáo và khoa học, do lỗi của một số nhà lãnh đạo tôn giáo thời
đó gây ra. Câu chuyện của nhà bác học Galileo Galilei là một
bằng chứng:
Galileo là
một nhà vật lý và thiên văn học ngưới Ý danh tiếng (1564 –
1642). Ông đã dùng thiên lý kính khám phá ra chân lý về vũ trụ
như sau: Ngoài thái dương hệ ta đang sống, còn có hằng hà sa số
những thái dương hệ khác nữa trong không gian mênh mông vô tận.
Quả đất là nơi con người trú ẩn không phải là trung tâm của vũ
trụ, mà cũng chỉ là một hành tinh bé nhỏ tầm thường xoay vần
theo quỹ đạo của mặt trời. Chân lý ấy xem ra mâu thuẫn với quan
niệm của người xưa cho rằng mặt trời xoay quanh trái đất, mà tác
giả sách Sáng Thế Ký đã ghi lại và cho tới thời Trung cổ vẫn còn
được mọi người chấp nhận. Do đó, ý kiến của Galileo đã gây ra
một sự xáo trộn, hoài nghi về tôn giáo. Trong khi chờ đợi thêm
những bằng chứng xác thực và cũng vì muốn bảo vệ trật tự kỷ luật
trong Giáo hội, nên tòa án tôn giáo (Le Saint Office), một cơ
quan có tính cách hành chánh của Giáo hội thời đó đã vội vàng
lên án Galileo cách bất công.
Thực ra, các
nhà thần học và các viên chức Giáo hội vào thế kỷ 17, khi kết án
Galileo, đã dựa trên những lời tường thuật trong Kinh Thánh được
hiểu theo nghĩa đen, để cho rằng trái đất là trung tâm cố định
và mặt trời xoay quanh trái đất. Đang khi tác giả Kinh thánh khi
trình bày việc sáng tạo của Thiên Chúa, không nhằm dạy khoa học
về sự hình thành của vũ trụ, mà chỉ dạy chân lý đức tin như sau:
“Trời đất này không phải tự nhiên mà có, nhưng đã do
Thiên Chúa tạo thành từ hư không”. Nhưng vì nói trực tiếp
với người đương thời, nên tác giả Kinh thánh đã diễn tả công
việc sáng tạo của Thiên Chúa dựa trên những gì mắt thấy tai nghe
phù hợp với quan niệm thô sơ của người xưa về vũ trụ, để giúp họ
mở lòng đón nhận đức tin. Ngay trong thời đại văn minh khoa
học hiện đại, thế mà trong câu chuyện thường ngày, chúng ta vẫn
thường nói: “Mặt trời mọc, Mặt trời lặn, bầu trời…”, thì chúng
ta cũng dễ dàng hiểu được các kiểu trình bày của tác giả Kinh
thánh ngày xưa.
Như vậy, có
thể nói rằng: việc lên án ông Galileo chỉ là một biện pháp
hành chánh kỷ luật sai lầm nhất thời của một số viên chức tòa án
Giáo Hội thời đó. Điều này không đồng nghĩa với sự khẳng định
đức tin của Giáo Hội. Vì thế không thể dựa vào vụ án này để
cho rằng Giáo Hội Công Giáo chống lại khoa học được. Ngay cả
ông Galileo mặc dù bị kết án bất công, vẫn trung thành với đức
tin và không thấy điều gì mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học cả.
(Hiến chế Gaudium et Spes số 37).
2. Khoa học và đức tin chân
chính thực sự không mâu thuẫn mà còn bổ túc lẫn cho nhau:
Trong quá khứ,
có lẽ đây là trường hợp duy nhất kết án sai lầm của tòa án Giáo
hội. Ngày nay hầu như mọi người đều ý thức rằng: Khoa học và
đức tin cùng có mục đích tìm kiếm chân lý nhưng ở hai bình diện
riêng, nên không những không xung dột mà còn bổ túc cho nhau nữa:
+Không
xung đột mâu thuẫn nhau:
Đức Tin nhằm tìm ra ý nghĩa của mọi hiện tượng thiên nhiên để
đạt tới nguyên nhân cuối cùng là Thiên Chúa, đang khi khoa
học chỉ nhằm giải thích các hiện tượng thiên nhiên bằng những
nguyên nhân kế cận mà thôi. Chẳng hạn: cũng một hiện tượng
trời mưa, nhưng sẽ được trình bày cách khác nhau tùy theo đứng
trên lập trường khoa học hay đức tin. Nhà bác học sẽ giải thích:
mưa là một hiện tượng thiên nhiên, do những hạt bụi nước rất nhỏ
trong không khí, khi gặp nhiệt độ thấp, sẽ kết tụ lại thành giọt
nước lớn hơn rồi rơi xuống đất liên tục… Đang khi nhà thần học
sẽ giải thích: mưa là một hiện tượng thiên nhiên nằm trong trật
tự của vũ trụ, do Thiên Chúa đã an bài, để hễ cứ hội đủ điều
kiện là có hiện tượng mưa.
Cả hai cách
giải thích đều đúng, vì mỗi bên đứng trên một bình diện, nhìn
theo lăng kính khác biệt. Nếu ở hai lãnh vực khác nhau, thì
không thể có sự mâu thuẫn hay xung đột nhau. Công việc của
các nhà bác học là tìm hiểu vật chất qua 3 giai đoạn : quan sát
sự kiện để xây dựng giả thuyết, kiểm chứng giả thuyết bằng cách
thí nghiệm nhiều lần, chấp nhận giả thuyết và thiết lập định
luật cơ bản để giải thích những trường hợp tương tự. Đang khi
người có đức tin tiếp cận chân lý mà không phải vất vả nhiều.
Hơn nữa chân lý đức tin phát xuất từ mặc khải của Thiên Chúa
lại hoàn hảo, chắc chắn và vĩnh cửu, khác hẳn với kiến
thức khoa học không mấy chắc chắn, dễ dàng sụp đổ với thời
gian khi một phát minh mới hợp lý hơn xuất hiện. (x Hiến chế
Gaudium et Spes số 57).
+Trái lại
còn bổ túc lẫn cho nhau:
Một nhà bác học có đức tin sẽ ít bị phân tâm về những vấn nạn
liên can đến tinh thân con người, đang khi theo đuổi công việc
khảo cứu khoa học của mình. Chẳng hạn: vũ trụ với những trật tự
lạ lùng bởi đâu mà có? Tại sao con người lại xuất hiện trên trái
đất? Chết có phải là hết? .v.v… Ngược lại, một tín hữu có sự
hiểu biết khoa học thì đức tin của họ sẽ sáng suốt hơn, tránh
được những mê tín, và chắc chắn sẽ làm vinh danh cho Thiên Chúa
nhiều hơn.
TÓM LẠI:
Người ta không được lạm dụng danh nghĩa đức tin để đàn áp khoa
học và các nhà bác học cũng không thể dựa vào khoa học để phủ
nhận đức tin chân chính của các tín hữu. Vì mỗi bên nhìn vấn đề
một cách khác nhau. Khoa học và đức tin không những không mâu
thuẫn mà còn bổ túc cho nhau.
Tuy vậy, vụ
án Galileo Galilei 400 năm trước đến nay vẫn có giá trị như một
lời cảnh báo về việc: các nhà bác học không nên dạy bảo Giáo
hội về đức tin, và Giáo hội, khi tiếp xúc với những khám phá của
khoa học, cũng phải rất mực cẩn trọng. Đó là lời tuyên bố
của vị bộ trưởng Văn khố Mật Tòa thánh Vatican, Đức giám mục
Sergio Pagano.
II. NGUYỆN CẦU:
- LỜI CHÚA: “Đức mến tha
thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).
- LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Xin cho mọi người chúng
con dù đứng trên cương vị nào cũng biết tôn trọng đức tin của
người khác và sống hòa hợp với mọi người dù khác biệt đức tin
với mình. Xin cho chúng con biết thực hành lời Chúa trong thư
Cô-rin-thô để sẵn sàng tha thứ lầm lỗi cho nhau, tin tưởng và
chịu đựng lẫn nhau. Nhờ đó mọi người sẽ sống trong hòa bình và
hạnh phúc theo thánh ý Chúa. AMEN.
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II: MỘT CUỘC
CÁCH MẠNG HAY MỘT CUỘC CẢI CÁCH? (TÌM HIỂU CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II
– BÀI 1)
|
Năm nay Hội Thánh long trọng kỷ
niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Công Đồng đã được
khai mạc đã tròn nửa thế kỷ, nhưng cuộc bút chiến về Công Đồng
vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay. Có người cho rằng Công Đồng đã
thất bại vì sau Công Đồng, nếp sống đạo bị sa xút, số người bỏ
đạo tăng gấp bội, số linh mục và tu sĩ giảm bớt rất nhiều, thêm
vào đó là nạn lạm dụng tính dục trẻ em của các linh mục. Có
người lại cho là Công Đồng thành công lớn vì số giáo dân tích cự
tham gia các sinh hoạt giáo xứ càng ngày càng gia tăng, vai trò
của giáo dân trong Hội Thánh càng rõ ràng và tích cực hơn. Trong
loạt bài này, chúng tôi sẽ cố gắng viết ngắn gọn nhưng đầy đủ về
Công Đồng dựa trên các văn kiện của Công Đồng cũng như giáo huấn
của Huấn Quyền thời hậu Công Đồng để chúng ta hiểu rõ và sống
những gì Mẹ Hội Thánh mong đợi nơi chúng ta .
Câu hỏi được đặt ra là Công
Đồng Vaticanô II là một cuộc cách mạng hay chỉ là một cuộc cải
cách hoặc canh tân?
Thật khó mà tưởng tượng được một
Hội Thánh hiện đại mà trong đó các tín hữu vẫn tiếp tục giữ đạo
như họ đang sống trong thời đại hậu Công Đồng Trentô. Từ Công
Đồng Trentô đến Công Đồng Vaticanô II, xã hội đã thay đổi quá
nhiều, nhưng cách truyền đạo và sống đạo trong Hội Thánh không
mấy thay đổi. Trong lúc nhân loại đang dùng máy bay thì phương
tiện mà Hội Thánh sử dụng trước Công Đồng Vaticanô II có lẽ vẩn
là xe ngựa hay xe bò. Như thế thay đổi để thích hợp với thời đại
mới không những là điều chính đáng mà còn cần thiết đối với Hội
Thánh. Và những thay đổi ấy ảnh hưởng đến đời sống đạo ra sao
phần lớn tùy thuộc vào cách người ta giải thích Công Đồng
Vaticanô II và các văn kiện của Công Đồng.
Trong phạm vi bài này chúng tôi
cố gắng tóm tắt những gì xảy ra trước, trong và sau Công Đồng
xem công đồng thực sự là một cuộc cách mạng hay chỉ là một cuộc
cải cách hay canh tân Hội Thánh.
Sự khác biệt giữa cách mạng
và cải cách.
Người Việt chúng ta ai cũng nghe
biết từ “cách mạng” như cuộc cách mạng Pháp 1789, Cách mạng
Tháng Tám, Cách mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào năm
1961…. Có những cuộc cách mạng đổ máu và có những cuộc cách mạng
không đổ máu, nhưng cuộc cách mạng nào cũng có ý lật đổ “chế độ
cũ” và thiết lập một chế độ mới, hầu hết là theo một đường lối
hoàn toàn trái ngược với chế độ cũ. Tất cả những tàn tích của
chế độ cũ phải được loại bỏ. Ngay cả tư tưởng cũ cũng bị thanh
lọc. Những người theo chế độ cũ mà không thay đổi tư tưởng sẽ bị
thanh trừng, tẩy não bằng cách học tập cải tạo. Còn cải cách hay
canh tân có nghĩa là sửa lại những sai lầm hay sửa chữa những gì
đã lỗi thời cho phù hợp với thời đại.
Nếu chúng ta tham dự những buổi
học tập để chuẩn bị mừng 50 năm khai mạc Công Đồng Vatcanô II,
hay đọc các bài vở hoặc coi những video và trang web đã được đưa
ra để giúp các tín hữu hiểu thêm về tinh thần Công Đồng, chúng
ta sẽ thấy rõ ràng là có hai trường phái với hai quan niệm hoàn
toàn khác nhau về Công Đồng Vaticanô II. Một trường phái cho
rằng Công Đồng Vaticanô II là một cuộc cách mạng, còn một trường
phái kia cho rằng Công Đồng là một chỉ cuộc cải tổ cách làm việc
của Hội Thánh chứ không phải là một cuộc cách mạng. Và cuối cùng
chúng ta không biết phải theo trường phái nào.
1.
Công
Đồng Vaticanô II là một cuộc cách mạng?
Có hai nhóm chính coi Công Đồng
Vaticanô II là một cuộc cách mạng.
Nhóm thứ nhất là những người
theo phe bảo thủ. Họ cho rằng Công Đồng là một cuộc cách mạng vì
họ giải thích rẳng nhiều giáo huấn trong Công Đồng trái ngược
với giáo huấn của Huấn Quyền trước Công Đồng. Theo họ thì Hội
Thánh trước Công Đồng là một Hội Thánh đang thời vàng son vì số
linh mục và tuy sĩ rất đông, số giáo dân tham dự Thánh Lể và các
sinh hoạt của Hội Thánh rất sốt sắng, và như thế tại sao lại cần
thay đổi. Họ thấy mình có lý khi chứng kiến cảnh xuống dốc của
Hội Thánh ở Âu Mỹ trong thời hậu Công Đồng: hàng ngàn linh mục
và tu sĩ hồi tục, các trường Công Giáo lần lượt bị đóng cửa, số
linh mục và chủng sinh càng ngày càng giảm đi, và số giáo dân bỏ
đạo và li dị càng ngày càng gia tăng. Họ càng thấy mình có lý
hơn khi nạn xách nhiễu tính dục trẻ em bùng nổ. Họ quy hết tối
lỗi vào Công Đồng Vaticanô II và các Giáo Hoàng thời hậu Công
Đồng. Họ kết án Công Đồng Vaticanô II là Công Đồng lạc giáo và
các Đức Giáo Hoàng hậu Công Đồng là ngụy giáo hoàng vì đã đưa ra
nhiều giáo huấn mới xem ra trái ngược với những giáo huấn của
Huấn Quyền trước Công Đồng.
Nhóm thứ nhì là những người theo
phe cấp tiến. Nhóm này cũng đồng ý với nhóm trên rằng Công Đồng
là một cuộc cách mạng chứ không phải là một cuộc cải cách. Theo
nhóm này sở dĩ các văn kiện của Công Đồng xem ra có quá nhiều
nhượng bộ vì Đức Giáo Hoàng Phaolô VI là một người thiếu lập
trường vững chắc nên đã bắt các nghị phụ phải dung hòa với nhóm
bảo thủ khi viết các văn kiện Công Đồng. Cho nên trong các văn
kiện ấy có những điều cũ không thích hợp với cái mà họ gọi là
“Tinh Thần Vaticanô II”. Vì thế, họ chủ trương giải thích “những
dấu chỉ” của thời đại theo tinh thần cách mạng của Công Đồng
Vaticanô II, chứ không theo những gì được viết trong các văn
kiện Công Đồng. Đối vời họ, cuộc cải cách của Công Đồng chỉ là
bước đầu của một cuộc cách mạng và giải phóng toàn diện trong
Hội Thánh ngõ hầu Hội Thánh có thể theo kịp những tiến bộ của
nền văn minh dân chủ hiện đại. Để hoàn tất cuộc cách mạng này,
Hội Thánh cần phải đi xa hơn nữa như chấp nhận ly dị, ngừa thai,
phá thai, truyền chức linh mục cho phụ nữ và kết hôn đồng tính….
Họ đã kết án Chân Phước Giáo Hoàng Goan Phaolô II và Đức Đương
Kim Giáo Hoàng Bênêđictô XVI là quá bảo thủ và đã phản bội “Tinh
Thần Viaticanô II” của họ.
2.
Công
Đồng Vaticanô II là một cuộc cải cách?
Thực ra cả hai nhóm trên đều cắt
nghĩa sai mục đích và tinh thần của Công Đồng. Mục đích của Chân
Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII khi triệu tập Công Đồng không phải
là đoạn để làm một cuộc cách mạng, nhưng để canh tân Hội Thánh.
Ngài không chủ trương đoạn tuyệt với những giáo huấn của Hội
Thánh trong quá khứ, nhưng tìm cách bảo vệ và trình bày chúng
cho thích hợp với thời đại. Trong diễn từ tuyên bố triệu tập
Công Đồng vào ngày 10 năm 1962, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXII
tuyên bố: “Quan tâm chính của Công Đồng Chung là điều này:
gia sản thánh của Chân Lý Kitô giáo được bảo toàn và giải thích
một cách rõ ràng hơn.” ĐTC nói thêm rằng Công Đồng “mong
muốn truyền lại giáo lý tinh tuyền và trọn vẹn, không bị giảm
bớt hay bóp méo…. Nhưng những giáo huấn chắc chắn và bất dịch
này … cần phải được nghiên cứu sâu xa và trình bày cách nào cho
thích hợp với nhu cầu của thời đại chúng ta.”
ĐTC đề cập đến cách mà Hội Thánh
sẽ đối xử với những sai lầm trong diễn từ rằng: “Hội Thánh
luôn luôn chống lại những sai lầm, và thường lên án chúng một
cách rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, ngày nay Hiền Thê của Đức Kitô
muốn dùng thuốc thương xót thay vì dùng cánh tay mạnh mẽ.”
Như thế mục đích của Công Đồng
Vaticanô II không phải là đoạn tuyệt với quá khứ như cả hai nhóm
bảo thủ và cấp tiến lầm tưởng. Nhưng mục đích của Công Đồng là
tìm một phương thức mới để trình bày những chân lý cố hữu của
Đức Tin cho thích hợp với thời đại, tìm một phương thức mới để
đưa đạo vào đời, không phải để cho đạo bị những sai lầm của thế
tục làm cho mình thay đổi, nhưng để thay đổi thế gian và đưa nó
trở về cùng Thiên Chúa.
3.
Công
Đồng Vaticanô II là một Công Đồng Tiên Tri
Mặc dù Công Đồng Vaticanô là
sáng kiến của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII chỉ sau khi lên
ngôi ba tháng, nhưng những tư tưởng cải cách Hội Thánh đã bắt
nguồn cả hơn một trăm năm trước đó. Trước Công Đồng Vaticanô II,
Hội Thánh tuy rất phồn thịnh, nhưng đang bị tấn công từ những
thế lực bên ngoài cũng như bên trong. Không rõ là Chân Phước
Gioan XXIII có nhìn rõ những gì hiện đang xảy ra trong thế giới
mà chúng ta đang sống hay không, nhưng rõ ràng là Chúa Thánh
Thần đã linh hứng cho Ngài trong việc triệu tập Công Đồng. Khác
với 20 Công Đồng chung trước đó, Công Đồng Vaticanô II không
nhằm giải quyết những vấn đề mà Hội Thánh đang gặp phải như
chống lại lạc giáo hoặc bàn thảo về tín điều, nhưng nhằm đương
đầu với trào lưu thế tục bắt đầu lan tràn và sẽ là điều mà Hội
Thánh phải đối diện trong tương lai. Công Đồng cũng nhìn thấy rõ
những tiến triển khoa học và những trào lưu tư tưởng trong tương
lai và đưa ra những hướng đi cho Hội Thánh.
Để hiểu điều này, chúng ta phải
xác tín rằng Hội Thánh của chúng ta luôn luôn là một Hội Thánh
Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền. Đã là một Hội
Thánh Duy Nhất thì không có bảo thủ hay cấp tiến. Đã là một Hội
Thánh Thánh Thiện thì không bao giờ chấp nhận hay dung túng sự
dữ dưới bất cứ hình thức nào. Đã là một Hội Thánh Công Giáo thì
giáo huấn cũng như phụng vụ của Hội Thánh phải được thống nhất
khắp nơi. Đã là một Hội Thánh Tông Truyền thì Thánh Truyền luôn
luôn được tôn trọng và bảo vệ. Chính vì thế mà Chân Phước Gioan
XXIII đã nói trong cùng bài Huấn Từ rằng: “Hội Thánh tin rằng
cách tốt nhất để phục vụ những nhu cầu hiện đại là giải thích
đầy đủ hơn về mục đích của các giáo lý của mình hơn là đưa ra
những lời kết án.” Ngài còn giải thích thêm rằng làm như thế
“không có nghĩa là nhu cầu phải chống lại và đề phòng những
giáo huấn sai lạc và những tư tưởng nguy hiểm hơn trước đây đã
giảm bớt.” Ngài nhấn mạnh như lời của một ngôn sứ rằng:
“Tất cả những giáo huấn sai lạc như thế quá rõ ràng là trái
ngược với sự công chính, sự tốt lành và đưa đến những hậu quả
tàn khốc, … đặc biệt là những cách sống chối bỏ Thiên Chúa và
Luật của Ngài, cũng như cách sống đặt quá nhiều tin tưởng vào
tiến bộ kỹ thuật và sự thịnh vượng hoàn toàn vật chất….”
Kết Luận
Sở dĩ có những bóp méo sự thật
về Công Đồng là vì trong số các nghị phụ của Công Đồng thực sự
có hai nhóm, tuy nhỏ nhưng ồn ào, là nhóm bảo thủ và cấp tiến.
Đặc biệt là những tư tưởng của nhóm cấp tiến được các phương
tiện truyền thông đại chúng ủng hộ và quảng bá rầm rộ. Còn đa số
các nghị phụ theo nhóm thầm lặng, lắng nghe, cầu nguyện, suy
nghĩ, làm việc, bàn thảo và biểu quyết, nhưng không rầm rộ quảng
bá ý kiến của mình cho thế giới bên ngoài như hai nhóm trên.
Ngoài trên 2.500 nghị phụ còn có rất nhiều thần học gia làm cố
vấn cho các ngài, được gọi là periti, tại Công Đồng. Có thể nói
rằng các thần học gia này là khối óc của Công Đồng. Tuy họ không
có quyền bỏ phiếu nhưng đã ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định
và văn kiện của Công Đồng vì họ là cố vấn tư cho các Nghị Phụ.
Trong số đó, nổi danh nhất là các cha Karl Rahner, Edward
Schillebeeckx, Henri de Lubac, Hans Kung, và một thần học gia
trẻ người Đức là Cha Joseph Ratzinger. Ngay sau Công Đồng, nhóm
linh mục này đã phát hành một tạp chí quốc tế tên là “Concilium”
nhằm mục đích tiếp tục cổ võ tinh thần và những canh tân của
Công Đồng. Hội đồng quản trị của “Concilium”
gồm các cha Rahner, Kung, Schillebeeckx, de Lubac, Congar, Hans
Urs von Balthasar, Ratzinger và nhiều thần học gia khác. Nhưng
chỉ sau vài năm, các thần học gia de Lubac, Balthasar và
Ratzinger đã rời Concilium để lập ra một tạp chí mới là “Communio”.
Các thần học gia theo nhóm “Concilium” cho rằng mình là là một
Huấn Quyền khác ngang hàng với Huấn Quyền Hội Thánh và kêu gọi
mở Công Đồng Vaticanô III để đẩy mạnh cuộc cách mạng mà Công
Đồng Vaticanô II không làm được vì đã phải nhượng bộ phe bảo thủ
quá nhiều. Còn nhóm thần học gia thuộc “Communio” thì tiếp tục
tư tưởng “trở về nguồn” để thích nghi những Truyền Thống phong
phú của Hội Thánh vào thời đại mới và và coi đây là những tiến
bộ thật sự.
Tiếc rằng ảnh hưởng của nhóm
“Concilio” đã lan rộng nhanh chóng trong giới trí thức Công Giáo
và trong các đại học Công Giáo trong 50 năm qua. Có thể nói rằng
những tư tưởng nhóm này đã làm ô nhiễm Hội Thánh, đặc biệt là
Hội Thánh ở Hoa Kỳ và Âu Châu. Những tư tưởng này đã gây ra
những chống đối Huấn Quyền, đặc biệt là Huấn Quyền của các Giám
Mục Hoa Kỳ về luân lý và tín lý trong giới thần học gia, nữ tu,
và trong các Đại Học Công Giáo, mà dẫn đầu lại là những vị lãnh
đạo Hội Thần Học Gia Công Giáo Hoa Kỳ và một số giáo sư của Đại
Học Công Giáo thời danh như Georgetown và Notre Dame.
Chính vì thế mà đọc những sách
vở về Công Đống, ngay cả những bài vở được viết bởi những thần
học gia nổi danh, vẫn có thể gây ra hiểu lầm và sai lạc. Cách
duy nhất để hiểu và áp dụng đúng đắn “Tinh Thần Vaticanô II” là
đọc chính văn kiện của Công Đồng và giải thích chúng như tiếp
tục những Giáo Huấn và Truyền Thống cố hữu của Hội Thánh nhưng
diễn tả bằng ngôn ngữ và phương tiện thích hợp với thời đại. Đó
là những điều mà chúng tôi sẽ bàn đến trong những bài sau.
Có thể nói rằng tín hữu trong
Hội Thánh cũng giống như những người con trong một gia đình.
Chúng ta lớn lên theo năm tháng và trải qua những giai đoạn từ
trẻ nhỏ đến trưởng thành. Ở thời tiền Vaticanô II chúng ta là
những đứa trẻ nên cần phải được dạy dỗ bằng “roi vọt”. Giờ đây
Hội Thánh coi chúng ta như những người con đã trưởng thành. Mặc
dù Giáo Huấn của Chúa không thay đổi, nhưng cách Hội Thánh đối
xử với chúng ta thay đổi vì không còn coi chúng ta là trẻ em nữa.
Những điều chúng ta thấy xảy ra trong Hội Thánh trong 50 năm qua
có thể nói là tương tự như những gì chúng ta thấy ở những thiếu
niên đang trong tuổi vị thành niên mà thôi. Nhiệm vụ của chúng
ta là học hỏi các văn kiện Công Đồng theo Huấn Quyền Hội Thánh
để có thể sống như những tín hữu trưởng thành.
Phaolô Phạm
Xuân Khôi |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đi buộc lạc đà lại!
|
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả:
Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất,
các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi
lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện
kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn
hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của
dòng đời nhân loại.
Những gì tác
giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc
thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và
thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải
và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San
GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin
giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể
lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : Ân Sủng
121. Đi buộc lạc đà lại!
Một môn đệ cỡi lạc đà đến lều của Thầy Đồng. Anh leo xuống, bước
thẳng vào lều, cúi xuống và thưa, “Con tín thác vào Chúa hoàn
toàn nên Thầy coi, con dám để lạc đà của con bên ngoài vì đoan
chắc Chúa sẽ bảo vệ của cải cho những ai mến yêu Ngài”.
“Đồ ngốc, hãy đi buộc lạc đà lại!”, Thầy bảo. “Chúa không thể bị
phiền hà để làm cho anh những gì anh hoàn toàn có thể làm cho
mình”.
ڰ
122. Một mình Chúa chăm sóc nó
Goldberg có khu vườn đẹp nhất thành và mỗi lần vị đạo sĩ đi
ngang, ông gọi chủ nhà và nói, “Khu vườn của anh là một biểu
tượng của vẻ đẹp. Chúa và anh cùng làm!”.
“Cám ơn đạo sĩ”, Goldberg cúi đầu thưa.
Điều này diễn ra hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Ít nhất hai
lần một ngày, trên đường ra vào hội đường, Đạo sĩ sẽ hô lên,
“Chúa và anh cùng làm!” cho đến khi Goldberg cảm thấy phiền toái
trước những lời khen của đạo sĩ.
Vì thế, lần tiếp theo khi đạo sĩ bảo, “Chúa và anh cùng làm”,
Goldberg đáp lại, “Điều đó có thể đúng. Nhưng lẽ ra, ngài đã
thấy khu vườn này khi một mình Chúa chăm sóc nó!”.
ڰ
123. Trông áo
Trong tác phẩm Truyện các Thánh, Attar kể chuyện Ông Đồng
Habib Ajami, ngày kia đi tắm ở một con sông, giấu áo choàng trên
bờ. Bấy giờ Hasan Basra tình cờ đi ngang qua, thấy chiếc áo,
nghĩ rằng ai đó bất cẩn để quên nên quyết định đứng trông chừng
nó cho đến khi chủ nhân của nó xuất hiện.
Khi Habib đi tìm chiếc áo, Hasan bảo “Ngài giao chiếc áo này cho
ai khi đi tắm? Có lẽ người ta đã cuỗm nó!”.
Habib đáp lại, “Tôi giao nó cho sự trông nom của Đấng giao cho
anh nhiệm vụ trông chừng nó!”.
ڰ
124. Chúa không giúp
Một người đàn ông lạc trong sa mạc. Về sau, khi mô tả thử thách
này cho một người bạn, anh kể mình đã vô vọng quỳ xuống van xin
Thiên Chúa cứu giúp thế nào.
“Và Chúa có đáp lại lời van xin của anh không?”, người kia hỏi.
“Ồ, không! Trước khi Ngài có thể làm một cái gì đó thì một nhà
thám hiểm xuất hiện và chỉ đường cho tôi”.
ڰ
125. Tôi đến trước
Một nhóm đàn ông sắp làm bố ngồi lo lắng trong phòng đợi. Cô y
tá vẫy gọi một người trong họ và nói, “Xin chúc mừng, anh có một
bé trai”.
Một người đàn ông khác đánh rơi tạp chí, nhảy lên và la, “Ê, cái
gì? Tôi đến đây trước anh ta hai giờ!”.
Có những chuyện ngoài dự tính.
ڰ
126. Thông điệp
Chủ tịch của một tập đoàn ngân hàng lớn nhất thế giới nằm bệnh
viện. Một trong những phó chủ tịch đến thăm với thông điệp: “Tôi
mang đến cho ngài những lời chúc tốt đẹp của Ban Giám Đốc, mong
ngài sớm bình phục và sống thọ trăm tuổi. Đó là quyết định chính
thức được thông qua với tỉ lệ mười lăm trên sáu và hai phiếu
trắng”.
Có bao giờ chúng ta ngừng vận dụng sức lực mà đốt lửa, tưới
cho nước ướt và tô màu cho hoa hồng?
ڰ
(còn tiếp nhiều kỳ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tương quan với các tu sĩ nam nữ |
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC
PHẦN PHỤ LỤC:
A. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG
QUAN MỤC VỤ
(tiếp theo)
5.
Tương quan với các tu sĩ nam nữ
5.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Các nam nữ tu sĩ là những người có
cùng một lý tưởng hiến dâng cuộc đời để phục vụ Chúa và các linh hồn như ta. Họ
khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm để bước theo sát Chúa Kitô hơn, theo Hiến pháp,
đặc sủng và linh đạo của Đấng sáng lập, nhằm gia tăng sự thánh thiện trong Hội
thánh. Vì thế ta phải kính trọng họ và tôn trọng những tài sản thiêng liêng đó
của họ.
·
Luôn yêu thương, quan tâm giúp đỡ
tu sĩ nói chung, nhất là những người đang cộng tác với mình trong xứ. Cởi mở đón
nhận họ như anh chị em; cho họ biết đường hướng mục vụ giáo xứ; đồng hành với họ
trong công việc mục vụ; bàn hỏi và trao đổi trước mỗi công việc và tin tưởng họ
khi trao công việc. Rút ưu khuyết điểm sau mỗi công việc lớn; khích lệ đời sống
thiêng liêng và tông đồ; quảng đại, bác ái và làm gương sáng.
·
Lý tưởng chung giữa linh mục và tu
sĩ nam nữ đều là dâng hiến trọn vẹn cho Chúa và Dân của Ngài. Biết rằng đi tu
nhưng vẫn không thôi là con người, nên phải luôn giữ mối liên hệ thánh thiện để
thăng tiến và thánh hóa “tiếng gọi nhân loại” ngõ hầu giúp nhau sống sứ
vụ tốt hơn (x. Tv 132, 1).
·
Tôn trọng,
yêu thương chân thành, vui vẻ, cộng tác và thăng tiến những đặc sủng của họ.
Sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới, quan tâm các cộng đoàn Tu sĩ về tinh
thần lẫn vật chất khi có thể, cung cấp cho họ giáo lý và tu đức, giúp đỡ và
khích lệ họ sống trung thành với ơn gọi theo đường lối riêng của mỗi Hội Dòng.
·
Cầu nguyện
cho nhau để cùng bước trên đường trọn lành, vì cầu nguyện là hơi thở, là nguồn
sống cho đời sống tu trì của mỗi chúng ta.
·
Cần phải biết lắng nghe nhau, góp
ý cho nhau, giúp đỡ sửa lỗi và tha thứ cho nhau để xây dựng cho nhau có một đời
sống dâng hiến cho Chúa và các linh hồn mỗi ngày mỗi tốt hơn.
·
Phải coi các
tu sĩ như là những cộng tác viên chứ không phải là những người cấp dưới hay
người giúp việc, nhất là đối với các nữ tu. Phải có tinh thần cởi mở và tạo điều
kiện tốt nhất để họ làm việc, và đối xử với họ theo đức công bằng.
5.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không làm
gương mù gương xấu, bè phái và phân biệt Dòng nọ Dòng kia, nhất là khi có nhiều
dòng tu cùng hoạt động và cộng tác để làm cho giáo xứ tốt hơn. Không can thiệp
vào việc nội bộ của các Hội Dòng.
·
Không kết án
hay xét đoán vội vàng, hoặc nói hành nói xấu, làm mất danh dự, tiếng tốt của họ.
Không làm hay nói lời tiêu cực phương hại đến sự hiệp nhất.
·
Không tìm
ảnh hưởng hay uy tín cho cá nhân mình. Không đi sâu vào đời sống cá nhân, nhất
là đối với nữ tu, nhưng phải tôn trọng và thăng tiến, cộng tác và nâng đỡ khi họ
cần giúp đỡ về tinh thần.
·
Không cục bộ
và cá nhân chủ nghĩa: Việc mình mình làm, việc người người làm.
·
Không coi
thường họ như những người giúp việc hay thuộc hạ, mà phải nhìn nhận và biết ơn
họ là những cộng tác viên rất đắc lực cho hàng giáo sĩ trong các hoạt động mục
vụ như giáo lý, ca hát, đàn nhạc…
6.
Tương quan với nữ tu lớn tuổi và có
trách nhiệm
6.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Kính trọng
các nữ tu lớn tuổi và có trách nhiệm vì họ vừa là những người lớn tuổi, vừa là
người lão luyện trong đời sống tu trì. Coi trọng họ như người chị, người mẹ.
·
Trao cho họ
những công việc phù hợp. Đáp ứng các nhu cầu của họ, khi có khả năng. Nên gặp
gỡ, chia sẻ, giúp đỡ, động viên và khích lệ họ, về đời sống tinh thần cũng như
vật chất, cầu nguyện cho họ và xin họ cầu nguyện cho ta.
·
Sống thành
thật, khiêm nhường, cởi mở, tin tưởng, cảm thông và ân cần giúp đỡ họ trong lúc
thi hành sứ vụ cũng như trong đời sống tu trì. Trong đời sống mục vụ, mời gọi họ
cộng tác, biết lắng nghe và đón nhận những lời góp ý.
·
Đối với
những người có trách nhiệm cùng phục vụ giáo xứ, hãy kính trọng và giúp đỡ họ
thực thi trọng trách của họ.
·
Nếu họ ốm
đau bệnh tật và khó khăn vật chất, tinh thần giảm sút, ý chí bị suy nhược, cần
thăm viếng động viên và cầu nguyện cho họ.
·
Nâng đỡ phần
hồn phần xác những người đã có công xây dựng giáo xứ, Giáo hội địa phương đến
nay phải nghỉ hưu. Giúp đỡ tinh thần và vật chất; làm tốt và nói tốt để yên ủi
họ trong tuổi già.
6.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không chen
vào nội bộ Nhà Dòng. Không kiếm cách ảnh hưởng lên Bề trên trị bề dưới, hoặc
theo phe bề dưới chống Bề trên. Hãy đổ dầu bác ái vào các bánh xe, nhưng đừng đả
động đến bộ máy.
·
Không làm ra vẻ kẻ có quyền để
hống hách, vội chấp nhất, vội khiển trách, sửa sai họ trước công chúng hay bề
dưới của họ.
·
Không nói
tâng bốc, khen không đúng sự thực; cũng không nói hành nói tỏi, hay nói sai sự
thật, làm mất mặt họ trước công chúng. Tuyệt đối không đưa họ lên tòa giảng.
·
Tránh những
lời nói dễ bị hiểu lầm khiến họ có cảm giác bị xúc phạm, bị hắt hủi, bị bỏ rơi.
Trái lại, phải tỏ ra tôn trọng các nữ tu lớn tuổi và bênh vực họ khi họ gặp khó
khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống, vì người lớn tuổi thường hay tự
ti vì tuổi tác và sự đào thải của tuổi già.
·
Tránh nói
năng, cư xử thiếu lịch sự, tế nhị, tỏ thái độ khinh thường, không tôn trọng, nói
xấu, nói hành làm thiệt hại cho họ và quyền bính của họ.
·
Không vượt
quyền, hay làm việc thẳng với cấp dưới của họ, nhưng phải trao đổi thông qua họ.
7.
Tương quan với nữ tu bằng tuổi và có
trách nhiệm
7.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Tôn trọng họ
và đời sống tu trì của họ. Phải khôn ngoan và tỉnh thức trong tiếp xúc, gặp gỡ
và làm việc chung với họ. Phải nhớ mình là linh mục và họ là nữ tu đều thuộc về
Chúa và là của Chúa. Luôn giữ khoảng cách cần thiết và dè dặt trong mọi lãnh
vực, nhất là về đời sống khiết tịnh.
·
Đừng quên lời khuyên “tỉnh thức và
cầu nguyện” của Chúa Giêsu trong Tin mừng:
là những con người thánh hiến, nhưng chúng ta vẫn không thôi là những con người
với những yếu đuối nhân loại.
·
Dùng đúng người đúng việc, nói rõ
mục đích hướng tới. Có kế hoạch, chương trình làm việc cụ thể. Tin tưởng trao
công việc. Tôn trọng người cộng tác. Khích lệ đời sống thiêng liêng tông đồ.
·
Cổ vũ, khen
thưởng khi cần. Sống đức công bằng qua việc động viên khích lệ và thù lao cho họ
khi họ đã cộng tác với mình trong công việc.
·
Làm và nói
tốt cho nhau, đúng sự thật. Quảng đại và không chấp vặt việc nhỏ. Không keo
kiệt, cần cởi mở, vui vẻ.
·
Phải biết tôn trọng các nữ tu vì
họ là những cộng tác viên, chứ không phải là thuộc hạ hay người giúp việc; luôn
sống trong sự bổ túc hài hòa và liên đới. Biết lắng nghe những lời góp ý, sửa
lỗi của họ. Và cũng hãy chân thành làm như vậy cho họ.
·
Phải luôn
nhớ nhu cầu cầu nguyện và khổ chế. Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta gìn giữ kho
tàng ấy trong những chiếc bình sành dễ vỡ,
bởi vì mọi người đều mang bản tính nhân loại và có phái tính. Khi có công việc
phải trao đổi với họ, hãy tiếp chuyện ở chỗ trống trải hay phòng khách.
·
Chia sẻ kinh
nghiệm, đối thoại, hiểu biết, cảm thông, giúp đỡ họ khi có những khó khăn trong
cộng đoàn. Nên chỉ dẫn thêm, khích lệ, hỗ trợ để họ hoàn thành công việc được
giao. Cần tôn trọng tuổi tác và trọng trách của họ.
·
Giúp nhau
sống và chu toàn những điều đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, vì
ơn gọi chung là dâng hiến trọn đời cho Chúa.
7.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không can
thiệp sâu vào đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn của họ, và cũng không cho họ
can thiệp sâu vào công việc của mình và việc của giáo xứ.
·
Không nên có
những lời nói, cử chỉ hay thái độ thiếu lành mạnh, trong sáng để bảo toàn đức
thanh sạch cho họ và cho mình. Luôn nhớ họ là một nữ tu thánh hiến cho Chúa và
Giáo Hội cũng như cho các linh hồn. Không để tình cảm của mình lấn lướt và để
những yếu đuối, đam mê của mình sai khiến và cám dỗ mình.
·
Không để họ
sai khiến mình, điều khiển mình, lèo lái mình trong bất cứ công việc gì. Vì thực
tế đàn ông thường yếu mềm trước những cử chỉ khôn khéo của phụ nữ, và hay thể
hiện tính cao thượng trước những khó khăn họ mắc phải.
·
Tránh những cuộc gặp gỡ riêng tư
lâu giờ vì dễ dẫn đến nguy hiểm cho đời sống độc thân thanh khiết. Không nên
thân thiện quá mức, thiếu tế nhị, hoặc nói những câu bông đùa quá trớn, một lời
hai ý, dễ dẫn đến hiểu lầm.
·
Không nên
cho họ biết tất cả những gì mình muốn làm khi công việc đó không liên quan tới
họ. Không nên đi sâu vào đời tư của họ, hoặc tâm sự đời tư của mình cho họ.
·
Không coi thường đức khôn ngoan và
cảnh tỉnh khi tiếp xúc với họ. Thánh Augustinô “chỉ đến dòng nữ khi cần và đem
người đi theo, để giữ gìn thanh danh của mình và để cho các tâm hồn đã tự hiến
cho một mình Chúa chỉ yêu một mình Chúa.”
·
Không khen
người này trách người kia trước mặt ai, nhất là giáo dân. Không bạ đâu nói đấy,
kể cả trong việc giao công tác. Không làm hay nói gì không cần thiết, nhất là
trong khi phải khiển trách.
·
Không được
đối xử thiếu tế nhị, chẳng quan tâm để ý nâng đỡ các nhu cầu tinh thần cũng như
vật chất của họ khi họ cùng làm việc với mình.
·
Không can
thiệp vào vấn đề kỷ luật và tổ chức nội bộ của họ.
8.
Tương quan với các nữ tu trẻ
8.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Trong bất cứ
tiếp xúc nam nữ nào cũng tiềm ẩn tính cách phái tính. Do đó, cần thận trọng
trong các mối quan hệ với nữ tu trẻ; dè dặt trong các lần tiếp xúc, bởi vì cùng
cảnh ngộ dễ đồng cảm…
·
Phải ý thức
rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc
thân không cần và không được biểu lộ bằng thể lý. Do đó, phải đứng đắn, nghiêm
túc khi giao tiếp. Sự thân mật độc thân có mức độ thích hợp của nó và sẽ cung
ứng đủ tự do để yêu thương mọi người và không vượt quá các giới hạn.
·
Có thể khuôn
đúc mối tương quan nam nữ theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin
Chúa ban ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại”
ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của
mỗi người.
·
Linh mục
phải giao tiếp với mọi người, nên phải thiết lập một mối tương quan trưởng
thành, lành mạnh, hài hòa và quân bình giữa hai phái.
·
Phải biết
tôn trọng nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng
như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ; luôn giữ sự kính trọng chứ không lạm dụng và
suồng sã; ý thức sự hiện diện vô hình của Chúa.
·
Phải rõ ràng
và thành thật với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa, bởi vì sự “hẹn
hò” yêu thương thường được che giấu dưới những lý do hợp pháp và chính đáng của
các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy
hiểm của con tim.”
·
Phải học
thái độ Chúa Giêsu đối với các phụ nữ trong Phúc Âm, xác định rằng tình yêu của
Thiên Chúa là trên hết, và chỉ Thiên Chúa mới làm thỏa mãn được con tim chúng
ta, Ngài đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta, đồng hành bên cạnh chúng ta để
nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
·
Chúa Giêsu
để các phụ nữ cộng tác trong kế hoạch cứu độ bằng cách cho họ tháp tùng trong
hành trình truyền giáo và dùng họ loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ.
·
Mời họ cộng
tác làm việc trong giáo xứ, trao công việc cụ thể và cho họ biết nguyên tắc làm
việc. Cần có những buổi học hỏi thêm kỹ năng làm việc; bồi dưỡng thêm đạo đức,
kiến thức và nhân bản.
·
Cần phân
công công việc cho mỗi người rõ ràng. Khi trao việc cũng cần quan tâm tin tưởng
và tế nhị trả tiền chi phí cho các công việc mà ta nhờ họ làm như mua hoa, nến,
giấy hát, bài vở, lộ phí…
·
Làm gương
sáng trong đời sống cầu nguyện và việc tông đồ. Sống vui vẻ cởi mở và quảng đại,
nhiệt tình sáng tạo.
·
Tôn trọng họ
là những cộng tác viên, không phải là thuộc hạ hay người giúp việc, sống hài hòa
và liên đới. Sống hòa thuận để làm gương cho giáo dân.
·
Giúp đỡ họ về tinh thần cũng như
vật chất cần thiết cho công việc tông đồ. Mời họ cộng tác trong việc từ thiện
bác ái, dạy giáo lý.
·
Cần giữ
trong đầu và tâm hồn sự lệ thuộc của họ và của mình đối với Chúa. Cầu nguyện cho
họ và cho chính mình.
·
Tương quan
cởi mở, hiểu nhau, chia sẻ sứ vụ, khó khăn, tin tưởng, cảm thông, chăm sóc, giúp
đỡ nhau chu toàn sứ vụ và cam kết ơn gọi của mỗi người.
·
Cần định
hướng cho họ để họ vững vàng trong đời tận hiến. Thái độ, cử chỉ, lời nói phải
rõ ràng khi giao tiếp với họ. Thận trọng trong mọi vấn đề; những gì họ nói, cần
phải suy xét, chớ vội tin.
·
Nên nhắc nhở khi thấy họ đi quá
trớn hoặc làm những việc không hợp với đời tu hay ảnh hưởng tới ơn gọi của họ,
chẳng hạn những cử chỉ bất nhã, thiếu lịch sự, kiểu “quen quá hoá nhờn”.
·
Cần nêu
gương sáng về đời sống cầu nguyện và đời sống thánh thiện cho họ. Phải có tâm
hồn bao dung, quảng đại sẵn sàng chỉ dẫn cho họ cách thức phục vụ nơi giáo xứ.
Quan tâm tới đời sống tinh thần và vật chất của họ nữa, theo lẽ công bằng.
8.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không đùa
dỡn và chiều chuộng quá mức cần thiết. Không liên hệ quá thân mật với các nữ tu
và tiếp họ quá lâu trong nơi kín đáo hoặc phòng riêng, nhất là các nữ tu trẻ,
khiến người ta hiểu lầm, và cũng dễ dẫn đến nguy hiểm cho đời độc thân linh mục.
Không nên bỏ qua dư luận.
·
Không nên trao đổi hay bồi dưỡng
riêng, tránh sự hiểu lầm. Tránh gặp gỡ lâu giờ, nói chuyện to nhỏ. Không nên đi
sâu vào đời tư của họ, hoặc tâm sự đời tư của mình cho họ, vì họ dễ động lòng.
Không nói cho họ biết những gì họ không có trách nhiệm.
·
Không thân mật quá mức, bộc lộ
khuynh hướng muốn chiếm hữu, ghen tuông, muốn độc quyền. Phải có những giới hạn
cần thiết. Và cũng không để họ biểu hiện như thế đối với mình.
·
Không ép
buộc họ phải làm công việc ngoài khả năng. Tránh trao nhiều công việc một lúc,
hay trao rồi lại rút lại, thay đổi như chong chóng.
·
Không nên có
cái nhìn lệch lạc, coi các nữ tu là thiếu trình độ và hiểu biết, vì ngày nay
nhiều nữ tu cũng học rộng tài cao không kém hàng linh mục.
·
Nhưng cũng
không nên quá coi trọng đến độ để họ sai khiến mình mà không biết. Không để các
nữ tu tham dự sâu vào công việc điều hành Giáo xứ. Tránh thiên vị coi người này
hơn người kia, quí các nữ tu trẻ mà coi thường các nữ tu già.
·
Không can
thiệp vào chuyện riêng tư của nhà Dòng trong việc họ đổi đi hay ở lại xứ. Không
nên coi thường hay gây khó khăn. Không nên nói xấu họ trước mặt người khác.
(còn tiếp)
_______
Chú thích
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHĂM SÓC MÁI TÓC |
Mái tóc
là nguồn cảm hứng của thi nhân, họa sĩ hàng bao thế kỷ. Nó đã
làm ngây ngất người trai học sinh mười tám, ngồi sau, nhìn lên
mớ tóc thề người yêu bàn trước; đã làm ngẩn ngơ lòng anh nông
phu chất phác trước cảnh giữa trưa Hè, chị Lụa hong tóc thoảng
hương bồ kết nơi đầu hiên.
Đã thấy trong ca dao có lả lơi,
cợt nhả:
“Chị kia bới tóc đuôi gà,
Nắm đuôi tóc lại hỏi nhà chị
đâu”,
hoặc đứng đắn, trang nghiêm:
“Cá tươi thì xem lấy mang.
Người khôn xem lấy hai hàng tóc
mai”.
Trải qua thời gian, tuổi tác, tóc
thay đổi và báo hiệu sự chuyển tiếp từ tuổi ngọc, tuổi trung
tráng niên sang tuổi hạc tuổi vàng của con người.
Tóc sẽ khô, nhỏ sợi đi, và có mầu
bạc, sẽ rụng nhiều hơn. Đôi khi ngược đời tóc lại mọc nhiều ở
những nơi bình thường có ít như lỗ mũi,
vành tai, mày ngài.
Những tuyến nhờn dưới chân tóc kém
hoạt động, tóc thành khô, cứng, dễ gẫy hoặc chẻ đôi.
Với tuổi cao, sự nuôi dưỡng, nhất
là đạm chất, giảm bớt khiến tóc cũng chịu chung số phận thiếu
dinh dưỡng. Sợi tóc nhỏ, kém vẻ mầu mỡ tươi tốt. Tóc một lão
nhân 70 tuổi sẽ trở về vẻ mảnh mai như khi mới sanh.
1- Tóc bạc
Khi tế bào mầu trong tóc giảm, tóc
thành không mầu mà ta gọi là tóc bạc. Càng ít mầu,
tóc càng bạc hơn. Sự bạc tóc là chuyện bình thường, sớm muộn gì
cũng xẩy ra ở con người. Tóc khởi sự bạc ở hai bên thái dương
bạc lên.
Khoa học chưa giải thích được tại
sao tóc bạc mà chỉ đoán là vì thiếu chất dinh dưỡng, sinh tố B
hoặc là do căng thẳng tâm trí, do gene xấu. Ngũ Tử Tư qua một
đêm suy nghĩ trầm kha, sáng ra tóc bạc phơ. Anh em cựu tù nhân
cải tạo mình thiếu gì người bạc tóc chỉ sau vài tháng, vài năm
nhập trại, xa gia đình, vợ con. Và
nàng Kiều vất vả nên “ Đầu xanh mấy nỗi pha mầu tóc sương”
Chưa có cách nào để lật ngược hiện
tượng bạc tóc. Tuy nhiên vì nhiều người quá quan tâm, âu lo tới
nó nên đã làm giầu cho đám con buôn cả tỷ bạc mỗi năm với những
mỹ phẩm, thuốc nhuộm. Ta có thể để nó bạc tự nhiên nom cũng hấp
dẫn và có uy tín lắm. Hoặc nhuộm với các loại thuốc nặng nhẹ
khác nhau, nhưng cứ dăm bẩy tuần lại phải nhuộm lại. Chứ mà để
tóc chân trắng mình đen coi cũng hơi kỳ.
Thuốc nhuộm tóc thường có ba loại:
- loại chỉ phủ qua trên sợi tóc
rồi hết ngay sau khi gội nước;
- loại hơi ngấm vào tóc và loại
ngấm lâu hơn.
- Loại thứ ba là hợp chất Hydrogen
peroxide và phẩm mầu đen.
Thuốc nhuộm tóc thường ăn da, nên
ta cần cẩn thận, nhất là tránh thuốc dính vào mắt.
2-Rụng tóc.
Ngoài cái lo tóc bạc lại đến ưu tư
về tóc rụng.
Có nhiều nguyên nhân làm rụng tóc
như:
a- Dùng mỹ phẩm nhuộm, uốn tóc
không đúng chỉ dẫn, quá nhiều, quá thông thường hoặc nhiều thứ
cùng một lúc;
b- Búi kéo tóc quá căng; chải tóc
với lược có răng liền nhau, nhất là lại chải mạnh tay;
c- Phụ nữ sau khi sanh, tóc rụng
vài tháng nửa năm mới hết;
đ- Một vài dược phẩm chữa cao
huyết áp, phong thấp, bệnh tim hoặc thuốc viên ngừa thai;
e- Dinh dưỡng thiếu chất đạm, sắt
hoặc uống nhiều sinh tố A;
g- Ảnh hưởng của hóa chất hoặc tia
phóng xạ khi trị ung thư;
h- Căng thẳng tâm thần;
i- Trong bệnh rụng tóc Alopecia
Areata.
3-
Hói đầu.
Khi tóc
rụng nhiều hơn thường lệ và không được thay thế, ta có thể thành
hói đầu, một hiện tượng chung và bình thường cho
cả nam (43%) lẫn nữ (8%).
Chẳng ai biết tự nhiên tại sao ta
hói.
Xưa kia, người ta bảo hói là vì
những chất độc đó đây ảnh hưởng vào tóc. Có một thời kỳ, sinh
viên y khoa được giảng dạy là não bộ nở ra do trí thông minh cao
khiến tóc rụng nhiều, chứng cớ là đàn bà và người nô lệ ít hói!!!
Có người lại bảo đội mũ nhiều, gội
tóc quá thường, đầu nhiều gầu, làm ta hói. Rồi lại cho hói là
dấu hiệu của kém khả năng đàn ông.
Ngày nay theo khoa học, bình
thường hói là do di truyền. Thành ra cứ nhìn vào tấm hình chụp
của tiền nhân ta có thể ước đoán được
tương lai, số phận mái tóc của ta.
Hói có nhiều kiểu, nhất là ở đàn
ông.
Từ năm 1950, mẫu Hamilton với 8
kiểu hói đã được dùng để phân loại. Mẫu thông thường là hói từ
trán lên đỉnh đầu, ra phía sau chừa một vành tóc hình móng ngựa
trên gáy. Nữ giới thì tóc rụng từng
chỗ trên khắp đầu.
Quan sát cho hay dân Châu Phi rất
ít hói, người Á Châu lại càng ít hơn.
Hói đã làm nhiều người lo âu, rầu
rĩ. Các bác sĩ cho rằng tâm trạng sợ hói nguy hại hơn chính hiện
trạng hói. Vì ngoại trừ khi do các nguyên nhân kể trên gây ra,
hói di truyền chẳng có hại gì cho sức khỏe.
Tuy vậy,
từ thuở xa xưa, con người đã tìm đủ mọi phương cách để trị hói.
Nữ Hoàng Ai Cập những thế kỷ trước
dùng chất sáp chế từ vỏ trái chà là và chân chó. Vài người
khuyên muốn khỏi hói thì đàn ông thiến quách nó đi vì họ nghĩ
rằng nhiều kích thích tố Testosterone đưa tới hói.
Nhiều anh lang băm đã rùm beng quảng
cáo đủ loại thuốc mọc tóc, mọc lông và bợ được khối tiền của
khách dễ tin.
Hiện
nay, trên thị trường có thuốc Rogaine, giúp tóc mọc lại khi thoa
lên da đầu. Thuốc khá công hiệu, nhất là ở người trẻ. Nhưng
không phải ai cũng có kết quả tốt. Nếu tốt thì cả năm sau mới
trông thấy và muốn có tóc mọc dài lâu thì phải dùng liên tục vì
ngưng thuốc thì sợi tóc mới mọc sẽ rụng đi. Một tháng tốn cả 100
mỹ kim mà bảo hiểm thường không trả tiền thuốc.
Lại còn
thuốc viên Propecia uống mỗi ngày, một tháng cũng tốn đến trên
dưới 50 mỹ kim.
Ta cũng có thể cấy tóc.
Khoa cấy tóc, khởi thủy từ bên
Nhật vào thập niên 1930, ngày nay rất phổ biến vì hiệu nghiệm.
Bác sĩ sẽ cấy vào da chỗ hói một
dúm chừng 10 sợi tóc lấy từ phần sau hay bên cạnh đầu mình. Vài
tuần sau thì tóc cấy này rụng nhưng chân tóc đã vững và tóc mới
mọc ra. Thường thường ta cần 4 lần cấy cách nhau 4 tháng. Phương
pháp này cũng khá tốn kém, mươi ngàn mỹ kim trở lên là ít.
Rẻ tiền hơn có lẽ là chỉ việc phủ
lên đầu một mái tóc giả hóa chất hoặc tóc thật của tha nhân, vừa
mau chóng, lúc nào cũng có và lại đủ mầu sắc, kiểu cọ rất vui
mắt.
Nếu không thì có sao để vậy.
Người đẹp đâu có chê đầu hói không gợi tình mà ta phải lo. Mà
cũng già đời rồi, đâu còn sợ chế riễu
“ Đầu
trọc long lóc bình vôi,
Cậu
ngồi cậu ị, cậu bôi lên đầu”
như
thuở thò lò mũi xanh, ăn miếng bánh đúc chạy quanh sân trường.
4- Gội đầu,
nhuộm tóc
Ngày xưa, thiếu nữ quê ta giản dị
chỉ gội tóc bằng nước bồ kết, vừa thơm vừa vô hại. Rồi xức dầu
thảo mộc cho óng, cho mịn, lại chẳng tốn kém bao nhiêu. Vậy mà
gặp phải anh chồng keo kiệt còn bị than phiền rằng “tóc dài
thì tốn tiền dầu”.
Chẳng bù với bây giờ, nam nữ tân
thời người ta tiêu cả nhiều triệu mỹ kim mỗi năm mua mỹ phẩm
cũng như trả công săn sóc để “có mái tóc đẹp, cho người tình
khen”.
Có điều ta cũng nên nhớ vài căn
bản sinh hóa học về tóc để mỹ phẩm
khỏi làm hư tóc:
a- Sợi
tóc là tập hợp của những tế bào đã chết nên không nuôi tóc
được bằng mỹ phẩm bôi, xức, mà phải bồi dưỡng bằng khẩu
phần ăn cân bằng cho cơ thể.
b- Mức độ pH bình thường của tóc
là 4.5 - 5.5 nên mỹ phẩm có độ kiềm với pH trên 7 đều làm tóc
khô, hư, chẻ và rụng.
c- Tia
tử ngoại của nắng là kẻ thù gây tóc khô ở thân tóc và chẻ ở đầu
sợi tóc. Sấy tóc cho khô bằng hơi quá nóng không những hư
sợi tóc mà còn làm chết chân tóc.
đ- Đa số mỹ phẩm nhuộm tóc, uốn ép
tóc, shampoo đều không tốt cho tóc. Shampoo bán ngoài siêu thị
thường có hóa chất surfactants để làm sạch và làm đẹp tóc. Ngoài
ra những chất pha thêm như lanonin, thảo mộc, trứng, tinh chế dạ
con, la de không ích lợi gì cho tóc
mà chỉ làm lợi tài chánh cho nhà sản xuất.
Thuốc
nhuộm gốc thảo mộc được dùng qua nhiều thế kỷ, ít hại cho tóc vì
nó dính vào tóc tùy theo thuốc pha đặc, loãng.
Thuốc
nhuộm hóa học có nhiều hợp chất kiềm, không những có hại cho tóc
mà còn gây dị ứng cho da, cho nên ta cần cẩn thận. Vì thế
cho nên nhiều nhà sản xuất đều nhắn nhủ ta nên bôi thử trên da
coi có phản ứng không trước khi nhuộm. Và khi ta không thích mầu
nào thì không nên dùng hóa chất khác để rửa mà đợi khi tóc dài
ra thì cắt ngọn tóc đó đi.
Cần tránh dùng quá nhiều hóa chất
khác nhau trên tóc.
Săn sóc tóc hàng ngày cũng là một
nghệ thuật, tốn thì giờ vì tóc nói
vậy mà mỏng manh.
- Chải tóc nhẹ từ chân tóc lên để
phân tán chất nhờn đều lên thân tóc.
- Dùng lược thưa răng để tránh tổn
thương sợi tóc và không nên chải tóc khi còn ướt vì lược sẽ kéo
dài tóc ướt còn dính vào nhau. Có thể dùng kẽ ngón tay để gỡ dần
tóc ướt còn dính với nhau. Được ngón tay người tình rẽ tóc thì
tốt hơn nữa.
- Khi gội đầu, làm tóc ướt với
nước ấm, đổ shampoo vào lòng bàn tay, bôi lên tóc. Lấy đầu ngón
tay (không phải móng tay) thoa cho đều vào tóc và chân tóc rồi
xả nước cho sạch hết shampoo. Bình thường ta có thể gội tóc với
cục xà bông tắm là quá đủ để làm sạch bụi
bậm, hóa chất trong không khí dính vào tóc.
- Lau
khô tóc rất nhẹ nhàng bằng khăn tắm. Tốt hơn cả là hong tóc khô
tự nhiên trong không khí. Nếu cần sấy cho khô, nên dùng
hơi nóng vừa phải và giữ máy sấy xa da đầu một chút.
Khi búi
tóc, chải kiểu, tránh kéo tóc quá căng. Nếu cần cuốn tóc,
nên quấn nhẹ vào cuộn rồi để qua đêm, sáng hôm sau gỡ ra.
Con người đã bỏ thì giờ chăm sóc,
nghĩ tới và tốn tiền cho mái tóc nhiều hơn là bất cứ bộ phận nào
trong cơ thể. Vì cái tóc cùng với cái
răng, là cả một góc con người.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Bệnh sống vô trách nhiệm |
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam
tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)
Giới thiệu
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10)
chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay
cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát
huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng
bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã
hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui
chúng lại thành mười bệnh lớn:
Thập đại bịnh.
9. Bệnh sống vô trách nhiệm
Triệu chứng: thờ ơ trước những khó khăn của Hội thánh và Quê
hương, trước những đau khổ của người khác. Chả thấy mình có
trách nhiệm gì cả. Hoá ra những người mắc bệnh này chẳng hiểu gì
về phép Rửa, chẳng còn nhớ gì sứ mạng được trao qua phép Rửa đó.
Qua phép Rửa, được làm con Chúa, đó là Hồng ân, và phép Thêm sức
làm cho ta nên chiến sĩ của Chúa đó là trách nhiệm, mỗi người
chúng ta được trao ban cả Nước Trời trong lòng mình, đồng thời
cũng được giao phó sứ mạng phải loan báo cho mọi người về Nước
Trời mình đang mang. Vì không ý thức và quan tâm nên họ giữ đạo
hời hợt, sống đạo một cách vô trách nhiệm.
Ngày xưa cha Hậu (cố Olivier)
ở Sàigòn thường nói với bổn đạo: Anh chị em phải biết, mình quả
thật sung sướng vì được Chúa cho cả Nước Trời trong lòng. Anh
chị em cũng giống như một người mang trong mình vé số độc đắc đã
trúng mà chưa lãnh. Và bổn phận của anh chị em là chia sẻ ân huệ
và niềm vui đó cho người khác.
Mỗi người trong xã hội đều có trách nhiệm riêng. Chứ không phải
giáo dân thì cứ đổ cho cha xứ, linh mục thì đổ cho giám mục,
giám mục lại chỉ tay về Giáo hoàng. Như thế Giáo hoàng lại đổ
cho Chúa à ! Thái độ phủi tay không giải quyết được gì. Mà mỗi
người, tùy vị trí và hoàn cảnh riêng, trước hết phải xắn tay nắm
lấy mà giải quyết nhiệm vụ của mình.
Đức Hồng Y Phanxcô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|